GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ



“Thật là quan trọng, cách riêng ở đâu mà xã hội là một mẫu xã hội đa nguyên, là các mối tương quan giữa cộng đồng chính trị và Hội thánh phải được nhận định một cách xác thực, và các hành động của tín hữu, cá nhân hay tập thể, nhân danh công dân và được chiếu sáng bởi lương tâm Kitô hữu, phải được phân biệt với những hành động nhân danh Hội thánh trong thông hiệp với những vị chủ chăn của họ.

Vì lý do chức vụ và lãnh vực chuyên môn của mình, Hội thánh không hề lẫn lộn với một cộng đồng chính trị nào hết. Hội thánh vừa là dấu hiệu, vừa là bảo đảm duy trì tính cách siêu việt của bản vị con người”… ( Lược đồ 13, số 76 )

“Cần phải nhìn nhận, duy trì và bênh vực quyền lợi của con người, của mọi gia đình, của mọi tập thể và sự thi hành thiết thực quyền lợi đó, và đồng thời cũng nhìn nhận, duy trì và bênh vực nghĩa vụ công dân của mọi người”… ( Lược đồ 13, số 75 )

QUAN NIỆM TIỀN ĐỀ.

1/ Con người tự nhiên có xã hội tính, vì xu hướng bản nhiên của mọi người là sinh sống trong xã hội, chớ không sinh sống một cách cô độc, lẻ loi. Xu hướng đó được phát hiện không những trong xã hội gia đình là nơi con người được sinh ra và được phát huy đời sống, nhưng nhất là trong xã hội quốc gia, một tổng hợp tất nhiên của mọi tiểu gia đình.

Xã hội quốc gia là một thực thể thiết yếu, vì chỉ nơi đoàn thể quốc gia, người ta mới có đủ phương tiện để phát triển tài năng và đạt tới cứu cánh của mỗi người một cách đầy đủ. Lịch sử vốn minh chứng rằng loài người luôn luôn đã sinh sống trong xã hội. Đời sống xã hội không phải là một hiện tượng được cấu tạo nên do sự thỏa ước của các hội viên như nhiều triết gia thường chủ trương; nhưng đích thực là một yếu tính của bản thể con người, một ý muốn của Đấng Tạo hóa.

Đứng đầu chủ trương trên là Jean Jacques Rousseau, người đã được mệnh danh là ông tổ của chủ nghĩa tự do (Liberalisme). Cuốn “Khế ước xã hội” (Le Contrat social) đã có một ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng và hành động của những người khởi xướng lên cuộc cách mệnh Pháp năm 1789 để đánh đổ chế độ độc tài và thành lập chế độ dân chủ theo học thuyết tự do.

Jean Jacques Rousseau quyết đoán rằng từ nguyên khởi, con người vốn sinh sống trong một chế độ tự nhiên, nghĩa là một tình trạng tuyệt đối tự do, không bị câu thúc về mọi ràng buộc xã hội. Tới một giai đọan nào đó, người ta cùng nhau chung sống và làm thành xã hội do một sự giao ước tự do (khế ước xã hội). Do đó, theo J.Rousseau, xã hội quốc gia không phải là một thực thể cần thiết, nhưng là một thỏa hiệp tự do, không phát nguyên do ý muốn của Thượng đế, nhưng lòng muốn của con người.

2/ Không thể lập thành xã hội mà không có quyền bính để điều hành xã hội. Do đó, nếu xã hội đã bắt nguồn nơi ý định của Thiên Chúa thì quyền bính cũng phải phát nguyên nơi Ngài.

Quyền bính đích thực là linh hồn của xã hội. Thực thế, cũng như nơi thể xác con người, linh hồn là một nguyên lý điều hòa mọi chi thể hướng dẫn chúng về một mục đích duy nhất là sự sống thì trong cơ thể xã hội, quyền bính là một động lực để liên kết và tập hợp mọi hành động của cá nhân, nhằm dẫn đưa chúng tới một mục đích duy nhất là công ích.

Thiếu quyền bính thì xã hội loài người chỉ là một sự tập hợp ngẫu nhiên, một đám đông vô tổ chức, chứ không phải là một xã hội công hay tư theo đúng nghĩa của danh từ.

Chúa Cứu thế đã phán rằng: “Quốc gia nào bị chia rẽ trong nội bộ thì quốc gia đó sẽ bị phá đổ.” (Mt 10,15). Vậy thì, nếu thiếu quyền bính, xã hội tất nhiên sẽ lâm vào tình trạng phân ly và do đó đi đến chỗ suy vong. Lịch sử đã minh chứng cho chúng ta một sự kiện hiển nhiên là: ở đâu có xã hội, ở đó phải có quyền bính.

Những người chủ trương như J.Rousseau, cho rằng xã hội loài người không phát nguyên bởi Thiên Chúa, nhưng bởi chính con người thì tất nhiên họ cũng kết luận một cách sai lầm rằng quyền bính xã hội là do loài người khởi nguồn lên. Kết luận đó đã đưa đến học thuyết chủ quyền nhân dân, cho rằng mọi quyền bính đều diễn xuất không do Thiên Chúa, nhưng do nhân dân, nói cách khác, nhân dân là chủ thể tuyệt đối của mọi quyền năng.

Đàng khác, câu nói “Chủ quyền nhân dân” cũng có nghĩa là nhân dân có quyền được lựa chọn hình thức chính phủ, có quyền được chỉ định những người đại diện cho nhân dân trong chính quyền. Hiểu theo nghĩa đó thì danh từ chủ quyền nhân dân không có gì là tương phản với lập trường của Giáo hội. Giáo hội vốn tuyên bố là mọi hình thức chính trị thí dụ quân chủ hay dân chủ đều là hợp pháp, một khi quyền bính có đủ khả năng đạt tới mục đích chủ yếu của chính quyền là công ích của toàn dân.

3/ Xã hội đã có nhiều cấp bậc thì quyền bính cũng phải bao hàm nhiều thứ loại. Đây là mấy thứ loại chính yếu:

  • a/ Quyền bính tôn giáo, với mục đích để hướng dẫn xã hội tôn giáo. Đối với chúng ta, xã hội đó là Giáo hội và quyền bính đó được thể hiện nơi Đức Giáo hoàng và các Giám mục.
  • b/ Quyền bính chính phủ, với mục đích để chỉ huy xã hội trần thế. Quyền bính này được thể hiện nơi các vị nguyên thủ của một quốc gia.
  • c/ Quyền bính gia đình, được thể hiện nơi cha mẹ, nhất là nơi người cha, người đã được mệnh danh là Gia trưởng.
Trong chương trên chúng tôi đã đề cập tới việc Chúa Cứu thế tái lập quyền gia trưởng thế nào. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu xem Ngài đã cải tạo quyền hành chính phủ theo những nguyên tắc nào, một quyền hành từ ngàn xưa đã bị nhiều người lợi dụng và làm biến thể.

CHÍNH QUYỀN TRONG THỜI ĐẠI TRƯỚC CHÚA CỨU THẾ.

Người thời xưa đã làm sai lạc hẳn cả quan niệm là mục đích của chính quyền. Theo ý muốn của Thiên Chúa thì chính quyền được lập nên là để phụng sự công ích cho mọi công dân, công ích của toàn thể cũng như của mỗi người, bất phân sang hèn, yếu khỏe.

Nhưng đối với nhiều dân tộc ở thời xưa trước kỷ nguyên Chúa Cứu thế thì chính quyền thường bị coi như là một chủ quyền tuyệt đối. Nhà nước có toàn quyền để định đoạt về sinh mệnh và tài sản của nhân dân. Trong thời đó, người dân tại nhiều nơi chỉ như là đoàn nô lệ của những người nắm giữ chính quyền, chỉ như là một đoàn vật để họ tự do khai thác.

Quốc gia, đối với nhiều dân tộc, đã trở thành một thần tượng như kiểu Thần Moloch của dân Phê-ni-xê mà cha mẹ phải cống hiến con cái để làm của lễ hy sinh. Bản thể quốc gia đã là một chủ tể thì mọi công dân trong nước đều phải phục tùng một cách tuyệt đối.

Việc tôn thờ quốc gia như thế đã phát xuất ra các danh từ “Quốc gia biệt tôn” (Statolatrie ), chỉ thị những chính phủ muốn được dân chúng suy tôn như những vị thần linh, hoặc danh từ “Quân chủ chuyên chế” (Cesarisme), chỉ thị những vị hoàng đế Lamã muốn được ngang hàng với những vị thần thánh của tôn giáo. Danh từ “Quân chủ chuyên chế” (Cesarisme ) là biến thể của danh từ “Quân chủ chế độ” ( Monarchie ), một chính thể tập trung mọi quyền hành vào một vị quốc vương để trị nước an dân.

Người ta còn nhớ lại những thời kỳ mà những ông hoàng độc tài như Caligula, coi thần dân như những đồ chơi, thỉnh thoảng lại đem chém đầu một người để giải trí. Thi sĩ Horace đã ngâm lên bằng một giọng chua cay rằng: “Nos numerus sumus, fruges consumere nati” (Chúng ta là những con số, sinh ra rồi chết mòn như thân phận bầy gia súc). Đối với những chế độ nghiệt ngã thời xưa thì dân chúng đích thực chỉ là những con số. Nhiều khi chỉ vì một thị hiếu bất thường của một ông hoàng mà cả một dân tộc bị tàn sát trong những trận giao tranh vì ghen tương thù oán, vì tranh dành ảnh hưởng giữa các công tử bá tước thuộc hoàng gia.

Điển hình hơn cả là truyện vua Assuero, nước Persia, truyền lệnh phải chém đầu tất cả các người Do Thái để làm vừa lòng Aman, một người cận thần kiêu căng và tàn ác. Aman bất bình với một người Do thái tên là Mardocheo, vì ông này không cúi đầu xuống khi Aman đi qua. Để hả cơn giận, Aman xin phép vua để giết chết mọi người Do thái, đồng hương với Mardocheo; ( Xem Cựu ước, sách Esther, c1 III et ).

CHÚA CỨU THẾ ĐÃ CẢI THIỆN CÁC CHẾ ĐỘ QUYỀN BÍNH.

Những chế độ quyền bính đã được Chúa Kitô hoán cải bằng 2 thể cách:

a/ Bằng việc cho nhân loại hiểu biết rằng mọi quyền hành đều phát nguyên bởi Thiên Chúa.

b/ Bằng việc ấn định cho quyền hành những mục đích và giới hạn rõ rệt.

1/ Nguồn gốc của quyền bính.

a/ Chúa Kitô đã dạy rằng: “Mọi quyền bính đều phát xuất do Thiên Chúa” quyền bính nơi đây phải hiểu là những quyền bính thuộc nhiều thứ loại, trên nhiều phạm vi như tôn giáo, gia đình, quốc gia, xã hội v.v… đã phát xuất bởi Thiên Chúa thì mọi quyền bính đều đáng tôn trọng.

Khi Pilatô thấy Chúa ở lặng không nói gì thì trách người rằng: “Ông không nói cùng tôi sao ? Ông không biết rằng tôi có quyền đóng đinh hoặc tha bổng ông không ?” Chúa Giêsu liền trịnh trọng trả lời: “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu quyền đó không được trên trời ban xuống” (Ga 19, 10-11). Quyền hành của Quan trấn thủ Philatô cũng như quyền hành của mọi giới đại diện chính quyền đều phát xuất bởi Đấng Tối cao, bởi Thiên Chúa.

Tuyên bố lời đó, Chúa Giêsu đã đề cao, đã quan trọng hóa những quyền hành hợp pháp, đồng thời đã điều chỉnh lại quan niệm về chính quyền. Với ý niệm cao cả về chính quyền như thế nên thời xưa, các vị vương quốc công giáo, trước khi nhậm chức, đã được nhận lễ nghi thức xức dầu như các linh mục.

b/ Nếu quyền bính đã được phát xuất do Thiên Chúa, thì luôn luôn phải được mọi người tôn trọng mặc dầu quyền bính ở trong tay những người thừa hành bất xứng. Do đó mọi công dân đều có bổn phận phải tòng phục những đại diện chính quyền mặc dầu bản thân họ là những người bất chính khi mà mệnh lệnh họ ban hành không có gì là bất hợp pháp, là bất xứng. Đây là lập trường của Chúa Cứu thế. Ngày kia Ngài đã tuyên bố rằng: “Các thầy thông giáo và Biệt phái đều ngồi trên ngôi tòa của Môisen. Vậy hãy tuân giữ và thi hành mọi điều họ đã bảo chúng con nhưng đừng bắt chước việc làm của họ.” ( Mt 22, 2-3 ). Và khi người ta hỏi Chúa xem có nên nộp thuế cho vua Cesare (vua thượng vị Lamã mà mọi người Do thái đều cho là một bạo chúa bất công), Chúa Giêsu liền trả lời: “Hãy trả cho Cesar những gì của Cesar, và cho Thiên Chúa, những gì của Thiên Chúa.” ( Mt 12,21 )

2/ Mục Đích và giới hạn của quyền bính.

a/ Theo lời Chúa dạy trên, thì quyền bính không phải là một thứ gì có tính cách võ đoán, chuyên chế, nhưng đích thực là một nghĩa vụ có đặc tính gia đình, một hành động có ý nghĩa phục vụ. “Công ích cho đoàn dân” phải là khẩu hiệu của những người cầm quyền, phải là mục đích của mọi quyền uy quốc gia. Chính quyền phải nhằm mục tiêu phục vụ công ích cho nhân dân, chứ không được coi dân như khí cụ để trục lợi cho mình.

Đây là những lời dạy quý báu của Chúa Kitô cho các môn đệ Ngài và có thể đem áp dụng cho mọi giới đang thi hành quyền bính: “Chúng con biết rằng các vua dân ngoại thì ép dân phải phục mình; các quan lại thì lấy quyền thế mà trị dân. Trong chúng con thì không như vậy, nhưng ai muốn làm lớn giữa chúng con, thì phải trở nên đầy tớ chúng con. Cũng như Con Người đã đến không phải để được phụng sự nhưng là để phụng sự, và hiến dâng đời sống để cho việc cứu chuộc mọi người.” ( Mt 20, 25-28 )

b/ Lập trường của Chúa Kitô về quyền bính đã được kiểm chứng bằng nhiều hành vi cụ thể. Một gương lành đầy ý nghĩa đã được Chúa thực hiện trong bữa tiệc ly trước giờ đi chịu chết. Thánh Joan có thuật lại rằng: “Chúa GIêsu biết rằng Đức Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay Ngài… nên Ngài đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn thắt lưng mình, kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ, Chúa liền giải thích ý nghĩa cho các môn đệ rằng: “Ta đã làm gương cho chúng con để chúng con cũng làm như Ta đã làm cho chúng con.” ( Ga 13, 4-17 ).

Chúng ta hãy chú trọng mấy lời nói đầu tiên của Phúc âm khi thuật lại việc Chúa rửa chân cho môn đệ: “Chúa Giêsu biết rằng Đức Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay Ngài”, nói thể khác, mặc dầu Chúa Cứu thế đã biết Ngài là chủ tể vạn vật, có đủ mọi quyền năng trên trời dưới đất, tuy nhiên Ngài đã tự hạ để làm một công việc hèn kém mà trong thời đó chỉ dành cho phái nô lệ. Thi hành xong việc đó, Ngài khuyến dụ các vị thủ lĩnh tương lai của Giáo hội (hiểu rộng ra là cho cả mọi cấp bậc chỉ huy đời cũng như đạo ): “ Chúng con hãy làm cho người khác như Ta đã làm cho chúng con.”

Trên đây là những quan niệm xác thực của đạo Công giáo về mọi thứ loại quyền bính về phương diện tôn giáo, chính quyền cũng như phụ quyền. Với viễn tượng đó, các Đức Giáo hoàng vốn thường ký tên là “Servus Servorum Dei” ( Đầy tớ của mọi đầy tớ Thiên Chúa ), một khẩu hiệu đã được xử dụng từ đời Thánh Grêgôriô Cả.

CHÚA CỨU THẾ ĐÃ ĐỀ CAO PHẨM GIÁ CỦA NHỮNG NGƯỜI PHỤC TÒNG.

1/ Trong khi đề cao giá trị của giới cầm quyền ( nghĩa là tuyên bố mọi quyền bính đều phát xuất do Thiên Chúa ), một trật Chúa cũng nâng cao phảm giá của những người phục quyền. Thật thế, thể theo lời Chúa dạy, thì khi tòng phục những người có quyền trên mình, người dưới không tòng phục họ với danh nghĩa là người bình đẳng với mình, nhưng là tòng phục chính Thiên Chúa.

2/ Đàng khác, Chúa Cứu thế lại đề cao nhân vị của mỗi người đối với quyền bính:

a/ Ngài đã nhấn mạnh về tình phụ tử giữa Thiên Chúa và loài người, do đó phát sinh những mối tương giao mật thiết giữa mọi người trong tình huynh đệ đại đồng. Theo tinh thần công giáo thì người cầm quyền phải đối xử với người phục quyền không phải như một đầy tớ, nhưng như một người anh em, vì họ cũng có mọi quyền lợi bình đẳng trước Thiên Chúa, vị Cha chung của mọi người.

b/ Ngài đã giảng dạy về giá trị vô biên của một linh hồn đã được cứu rỗi bằng Máu Thánh Chúa “Anh em đã được mua lại không phải bằng giá mua vàng bạc, nhưng bằng chính Máu Thánh vô cùng quý giá của Chúa Kitô” ( 1Pr 4, 18-19 ).

Ngài lại chú trọng đến giá trị của một linh hồn, của một cá nhân trong ẩn dụ về “người chăn chiên có 100 con chiên mà lạc mất một, người đó đành bỏ 99 con trên núi và đi tìm 1 con đã lạc đàn. Nói xong ẩn dụ đó, Chúa liền kết luận: “Cha trên trời cũng không muốn để cho một trẻ nào trong những trẻ nhỏ này phải hư mất.” ( Mt 18, 12-14 )

HỌC THUYẾT GIÁO HỘI VỀ QUYỀN BÌNH

Những lời giảng dạy của Chúa Cứu thế về vấn đề quyền hành đã được Giáo hội bảo tồn và truyền bá một cách trung thành ở mọi thời đại và nơi mọi chủng tộc.

1/ Trước hết các thánh tông đồ và các thánh giáo phụ đã viết nên những lời lẽ khúc chiết để chứng minh rằng mọi quyền bính đều phát xuất nơi Thiên Chúa. thánh Phaolô đã dạy giáo hữu thành Lamã rằng: Không có quyền bính nào mà không đến bởi Thiên Chúa, do đó ai chống đối quyền hành là chống đối với trật tự của Thiên Chúa và những người chống đối sẽ tự mua lấy sự trừng phạt… quyền hành chính là thừa tác viên của Thiên Chúa.” ( Rm 13,1-4 )

Cùng một quan điểm như trên, thánh Phê-rô đã khuyến dụ các tín hữu rằng: “Nhân danh Thiên Chúa, hãy tòng phục mọi quyền hành đã được thiết lập nên, hoặc quyền hành đó là vua chúa như vị bề trên, hoặc quyền hành đó là những quan lại như những người được Thiên Chúa ủy nhiệm để trừng phạt người gian ác và thăng thưởng kẻ ngay lành, đó là ý muốn của Thiên Chúa.” ( 1Pr 2,13-15 )

Tiếp đến thánh Grêgôrio Cả lại rằng: “Quyền hành của những vị quốc trưởng, của những vị quốc vương là do trên trời ban xuống.”

2/ Đề cập đến vấn đề hình thức trong các chế độ chính trị, Đức Lêô XIII đã lập luận rằng: “Không có lý do gì mà Giáo hội lại không chấp thuận quyền hành nơi một người (Quân chủ ), hoặc nơi những người (Dân chủ), miễn là quyền hành đó phù hợp với đức công bình và qui hướng về công ích. Do đó, thể theo nguyên tắc công bình, dân chúng được tự do chọn lựa hình thức chính trị thích hợp hơn với khả năng với chế độ, với tập tuyền của mỗi dân tộc” (Trích Thông điệp Diuturnum).

Về vấn đề xử dụng quyền hành, Đức Lêô XIII lại viết rằng: “Những người điều khiển quốc gia cần phải đặc biệt lưu tâm rằng quyền trị nước không phải là của riêng họ, chỉ mưu đồ lợi ích cho họ, nhưng việc nắm giữ công quyền phải nhằm mục tiêu đem lợi ích cho toàn dân mà chính quyền có trách nhiệm phải phục vụ công quyền không phải là tư hữu của giới chính quyền.” (Thông điệp Diuturnum).

3/ Đối với những nhiệm vụ của quốc gia, Đức Piô XII đã để lại những lời lẽ uyên thâm này rằng: “Quốc gia có một nhiệm vụ cao cả và đặc sắc là giám sát, tán trợ và hướng dẫn mọi hoạt động có tính cách tư nhân và cá nhân trong đời sống quốc gia để điều hòa những hoạt động đó đạt tới công ích. Nếu quốc gia tự xem mình như một cứu cánh duy nhất để bắt mọi hoạt động khác phải lệ thuộc và qui định thì thái độ đó rất phương hại đến sự trường thịnh đích thực và bền vững của các quốc gia. Thái độ đó thường xảy đến hoặc khi người ta suy tôn quốc gia như hiện thân của một quyền năng vô giới hạn, hoặc khi người ta nhìn nhận nơi quốc gia như một chúa tể tuyệt đối không phải tùy thuộc bất cứ một quyền uy nào.” ( Thông điệp Summi Pontificatus ).

Sau khi đã lược qua mấy tư tưởng chính yếu của học thuyết Công giáo về vấn đề quyền bính, chúng ta nên rút ra mấy nguyên tắc thực hành:

  • 1/ Trước hết chúng ta phải có một tâm tình tri ân sâu xa với Chúa Cứu thế, vị đã mang đến cho nhân loại một đặc ân xã hội sâu xa là đã cải tạo chế độ quyền bính, làm cho quyền bính được thấm nhuần tính chất vững mạnh và khoan dung trong quan niệm quyền phụ tử thiêng liêng.
  • 2/ Nếu ai trong chúng ta được có dịp xử dụng quyền bính hoặc trong gia đình hay ngoài xã hội thì chúng ta sẽ luôn luôn nhớ tới gía trị và trách nhiệm của chúng ta như những người đại diện Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta phải trả lẽ một cách phân minh.
  • 3/ Bất luận quyền hành nào cũng phải qui hướng về việc làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn một cách trực tiếp hay gián tiếp, ít ra là không cản trở những việc đó. Với tinh thần trên mỗi người Công giáo sẽ có thể lĩnh nhận và xử dụng quyền hành một cách chính đáng, hiệu nghiệm.
  • 4/ Chúng ta phải siêu nhiên hóa việc vâng phục quyền bính bằng cách nhìn nhận nơi quyền bính, bất luận là đạo hay đời, một phản ảnh của Thiên Chúa. Được như thế, sự tòng phục của chúng ta sẽ trở nên dễ dàng và đáng được công phúc hơn.