GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI VẤN ĐỀ CÔNG BÌNH XÃ HỘI



Để trả lời cho những đòi hỏi của công bình và bình đẳng, phải vận dụng mọi khả năng trong sự kính trọng quyền lợi của mỗi người, cũng như tính cách đặc thù của mỗi dân tộc, để chấm dứt càng sớm càng hay những bất công quá trầm trọng về mặt kinh tế đang diễn ra trong giờ phút này, và nhiều khi còn tăng thêm và mang theo hậu quả của một sự kỳ thị cá nhân hay xã hội.

Cũng thế, trong nhiều miền, cần phải nhận định những khó khăn mà nông nghiệp gặp phải, để sản xuất cũng như tiêu thụ, và cần phải giúp đỡ các nhà nông nghiệp để họ có thể tăng gia và tiêu thụ những sản phẩm của họ… Cần thiết là lớp người nông nghiệp đừng bị coi như những công dân thuộc thành phần phụ thuộc…
( Lược đồ XIII, số 66 )

QUAN NIỆM TIỀN ĐỀ.

1/ Công bình là một nhân đức bản thể làm cho ta sẵn sàng thi hành cho người khác tất cả những gì mà họ có quyền được đòi hỏi.

Thể theo nhiều đối tượng riêng biệt, nhân đức công bình được mệnh danh bằng nhiều từ ngữ khác nhau. Thường thường người ta phân biệt nhiều thứ loại công bình như: Công bình tương giao ( Justice commutative ), công bình pháp lý ( Justice légale ) và công bình xã hội ( Justice sociale ).

a/ Công bình tương giao là một nhân đức điều hành những mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, thí dụ: Giữa người mua và người bán, người bán có nghĩa vụ phải trao cho khách hàng những sản phẩm một cách đầy đủ và toàn vẹn, người mua phải trả cho người bán những giá biểu tương xứng với vật mua.

b/ Công bình pháp lý là một nhân đức điều chỉnh những mối tương quan giữa người chỉ huy và kẻ phục tòng, thí dụ: Người cai trị phải ấn định những luật lệ công bình và người phục tòng phải tuân giữ những luật lệ đó một cách trung thành.

Phạm vi nhân đức công bình pháp lý còn bao trùm những nguyên tắc hướng dẫn để hữu quyền ban hành những hình phạt tương xứng với tội trạng. Đây là nhân đức công bình trừng giới ( Justice punitive ).

c/ Công bình xã hội là một nhân đức có tác dụng điều hòa những mối tương quan giữa những giai cấp xã hội khác nhau như giữa giới chủ nhân và giai cấp thợ thuyền, để họ phân chia quyền lợi và nghĩa vụ với nhau một cách hợp lý và đồng đều. Công bình theo nghĩa này, cũng được mệnh danh là công bình phân phối ( Justice distributive ).

2/ Nhân đức công bình có một đặc tính khẩn thiết hơn nhân đức bác ái, vì từ ngữ “công bình” bao gồm một thực thể cưỡng bách nghiệm nhặt hơn.

Lý do là vì, xét theo bản thể, công bình là gì nếu không phải là sự trả cho người khác những cái mà họ có quyền đòi hỏi, phục hồi cho họ những sự vật mình đã cầm giữ. Nói cách khác, thực hiện đức công bình, tức là chuyển giao cho tha nhân quyền hồi phục, quyền lấy lại những sự vật mà mình đang thừa hưởng.

Bản thể đức bác ái, trái lại, căn cứ ở việc chuyển thông cho người khác những sự việc không phải của họ, những sự việc mà họ không có quyền đòi hỏi.

Chính Chúa cứu thế đã đề cập tới sự khác biệt giữa đức Công bình và đức Bác ái trong ngụ ngôn về người thợ làm vườn nho ( Mt 20, 1- 6 ). Với những thợ đã làm việc từ buổi sáng và suốt cả ngày, chủ vườn đã trả công cho mỗi người một đồng bạc, theo đúng giá đã giao ước trước. Hành động đó là thuộc đức công bình xã hội. Với những người chỉ làm việc có một giờ, chủ vườn cũng trả giá một đồng công, cử chỉ đây biểu lộ một hành vi của đức bác ái, chứng tỏ lòng độ lượng và thương người của chủ vườn, và không có gì là đáng trách cả.

3/ Bổn phận đầu tiên của đức bác ái đối với tha nhân là hãy xử sự với họ theo đức công bình, hãy trao trả cho họ những cái gì thuộc về họ.

Đây là điểm mà Đức Piô XI đã quảng diễn trong Thông điệp “ Divini Redemptoris” khi Ngài tuyên bố rằng: “ Trước hết phải tuân giữ đức công bình đã, rồi mới đến đức bác ái.” Ngài viết: “ Người thợ lĩnh nhận tiền công không phải như một của bố thí, nhưng tiền công đó họ có toàn quyền nhận lĩnh theo đức công bình, không một ai có thể khinh thường những nghĩa vụ trọng đại của đức công bình bằng những món quà nhỏ mọn của sự thương xót.”

Và Đức Piô XII, trong Thông điệp “ Sertum laetitioe”, đã viết rằng: “ Những ai may mắn được có nhiều của cải và sản nghiệp, phải vì tấm lòng trắc ẩn và từ tâm, ra tay trợ giúp những người túng thiếu, nhiều khi những người giàu có phải thi hành nghĩa vụ đó vì đức công bình nữa.”

Tiếc thay, nhiều người công giáo không muốn hiểu Chân lý này. Nhiều tín hữu, có tiếng là ngoan đạo, rất sẵn lòng làm phúc bố thí; nhưng lại luôn vi phạm đức công bình xã hội, họ rất nhiệt thành trong việc góp tiền công đức, nhưng lại rất khe khắt trong việc trả công cho những gia nhân. Như thế họ đã thực hành đức bác ái mà vi phạm đức công bình.

Hành động của họ trong nhiều trường hợp, lại không đáng được gọi là bác ái nữa. Làm ơn hoặc trợ giúp cho người mình đã lợi dụng, đã bóc lột, đó không phải là hành vi của bác ái, nhưng chỉ là sự bồi thường những việc bất công mình đã gây ra. Do đó, không ai có thể nói đã thực hành bác ái đối với người đồng loại, nếu trước tiên chưa tuân giữ đức công bình.

LỜI GIẢNG DẠY CỦA CHÚA KITÔ VÀ CỦA CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ.

1/ Chúa Cứu thế đã luôn luôn giảng dạy và hô hào việc thực hiện đức công bình thuộc mọi thứ loại, nhất là đức công bình xã hội.

Trong bài diễn từ trên núi, Ngài đã tuyên bố rằng: “ Phúc cho những người đói khát sự công bình, vì họ sẽ được no đủ.” ( Mt 5, 6 ).

Nơi khác Ngài lại nói: “ Mỗi người thợ đều được xứng đáng với lương bổng của mình.” ( Lc 10, 7 )

Chúa Cứu thế đã đích thân đứng ra bảo vệ đức công bình bằng cách đanh xua đuổi những người luật sĩ và biệt phái ra khỏi đền thờ vì, trong khi thi hành việc phụng thờ Thiên Chúa, họ đã chà đạp lên những nguyên tắc bất khả vi phạm của đức công bình. Ba ngày trước khi bị bắt và bị luận án, Chúa đã khiển trách những người vi phạm đức công bình một cách nghiêm thẳng rằng: “ Khốn cho các người, thầy thông giáo và biệt phái, là những kẻ giả hình, vì các người làm bộ đọc kinh dài dòng, mà đi ăn hiếp nhà cửa của những người góa bụa… khốn cho các người, thầy thông giáo và biệt phái, là những kẻ giả hình, vì các người nộp thuế bách phân về sản vật bạc hà, hồi hương và rau cần, mà bỏ điều hệ trọng hơn hết trong luật pháp là sự công bình, lòng thương xót và đức trung tín.” Mt 23, 23-24 ). Chúa đã dùng câu: “ điều hệ trọng hơn hết trong luật pháp”, để nhấn mạnh đến tính cách quan trọng đặc biệt của đức công bình.

2/ Thể theo gương Chúa, các thánh tông đồ đã là những người tranh đấu quyết liệt cho sự đắc thắng của đức công bình. Ơ đây, chúng ta chỉ nhắc lại diễn cứ tượng trưng.

Trong thư gửi cho giáo dân thành Colose, Thánh Phaolô viết rằng: “ Hỡi các gia chủ, hãy xử sự với các gia nhân một cách công bình và chính trực, nên biết rằng các người còn có một chủ nhân trên trời.” ( Cl 4,1 )

Nên nhớ là trong thời đại các thánh tông đồ, những gia nhân còn bị coi như những nô lệ, còn bị đối xử, không như những con người, nhưng như những loài vật, những dụng cụ. Hiểu như thế, chúng ta mới thấu triệt được hết giá trị của lời khuyên dặn của thánh Phaolô.

Đối với những hạng người bóc lột sức lao công của các gia nhân, thánh tông đồ Giacôbê đã viết ra những lời khiển trách nặng nề này là: “Hỡi anh em là người giàu có, hãy khóc lóc, rên la, vì nhiều cơn hoạn nạn sẽ đổ xuống trên đầu anh em… kìa tiền công của những người đã gặt lúa cho anh em, anh em đã ăn gian lận, tiên công đó đã kêu oan, và tiếng kêu đó đã thấu đến tai của Chúa các cơ binh.” ( Gc 5, 1-4 )

HỌC THUYẾT VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI.

Không những chỉ có sứ mệnh nhắc lại những lời giảng dạy của Chúa và của các thánh tông đồ, Giáo hội còn tự đảm nhận lấy nghĩa vụ chuyển biến những lời giảng dạy đó ra việc làm nhằm mục đích bênh đỡ giới cần lao, bảo vệ nhân phẩm cho giới thợ thuyền, cổ động để bài trừ tận gốc chế độ nô lệ, dần dà phổ biến những nguyên tắc công bình và hợp lý trong việc trả lương cho thợ thuyền. Và trong bầu khí tôn giáo xã hội do giáo hội đã thiết lập đó, trong thời trung cổ, tại nhiều thành phố Âu châu nhiều “ hội đoàn mỹ thuật và nghề nghiệp” ( Corporations d’Art et Métiers ) đã thành lập.

Đây là những hội đoàn liên kết những người cùng chung một nghề nghiệp với mục đích để bảo đảm quyền lợi cho nhau về phương diện kinh tế, chính trị, xã hội. Tất cả mọi hội viên đều phối hiệp với nhau để cấu thành một hệ thống cần lao chia ra làm 3 cấp bậc là: giai cấp tập sự, giai cấp chuyên viên và giai cấp chỉ huy.

1/ Tập sự: là những thanh thiếu niên đến học nghề tại nhà một người thợ cả. Người này có bổn phận phải chỉ dẫn, giáo dục và kiểm soát những thanh niên học nghề thay mặt cha mẹ chúng.

Chuyên viên: là những người thợ mà khả năng chuyên môn đã được các bạn đồng nghiệp chứng nhận. Họ chính thức được hưởng những quyền lợi của hội đoàn và chỉ bị thải hồi khi phạm lỗi và do hội đồng chỉ huy tuyên phạt.

Chỉ huy: là những người đứng đầu các công xưởng, các toán thợ. Họ phải nổi hơn các đồng nghiệp về những đức tính tôn giáo, luân lý và chuyên môn.

Mỗi hội đoàn của các ngành chuyên biệt như ngành thợ mộc, thợ xây, thợ đóng giày, nghề buôn, nghề y sĩ, nghề luật sư v.v… hằng năm phải hợp đại hội đồng để bầu chủ tịch. Mỗi chủ tịch còn phải tuyển chọn cho mình nhiều nhân viên phụ trách. Hội đồng này có nhiệm vụ phải đại diện cho các bạn đồng nghiệp để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đời sống thợ thuyền như giờ làm việc, lương bổng, các vụ tranh chấp v.v…

2/ Những hội đoàn mỹ thuật và nghệ thuật bị giải tán sau thời Cách mệnh Pháp năm 1789, do đề nghị của phái Tư bản tự do. Với danh nghĩa là để duy trì tự do, những nhà cách mệnh Âu châu thời đó muốn thiết lập chánh sách cạnh tranh tự do cả trên phương diện cần lao.

Nhưng ít lâu sau, mọi người đều cảm thấy những ảnh hưởng khốc hại của những chế độ tự do kinh tế. Các chủ nhân, vì không bị một luật pháp nào ràng buộc, đã tự do cạnh tranh và thao túng, họ dùng đủ mọi mánh khóe mưu mẹo để trục lợi và bóc lột thợ thuyền; với đà tiến triển của kỹ nghệ và máy móc, các chủ nhân càng ngày càng củng cố vững chắc thêm địa vị của họ, trong khi các thợ thuyền, vì thiếu đoàn thể và thiếu vốn liếng để sản xuất, đã bị đẩy vào một tình trạng cô độc và bất lực để làm dụng cụ cho các chủ nhân tự do khai thác và lợi dụng.

Những sự kiện trên đây là những nguyên nhân cấu thành nên vấn đề xã hội, nhằm mục đích giải quyết những tương quan giữa Tư bản và cần lao, giữa chủ nhân và thợ thuyền.

Đặc biệt quan tâm đến vấn đề xã hội là Đức Giáo hoàng Lêô XIII, Người đã được mệnh danh là vị Giáo hoàng của các thợ thuyền. Vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, ngày 20 tháng 2 năm 1878, ngài đã ban hành một thông điệp kêu gọi sự giúp đỡ giai cấp thợ thuyền, và ngài nhấn mạnh rằng: “ Một thiểu số những nhà đại tư bản đã giáng xuống cả một quần chúng đông đảo của tầng lớp vô sản, một tai ác hầu như nô lệ” và vô cũng cảm xúc, ngài đứng về phía thợ thuyền để giải phóng cho họ những bất công do chủ nghĩa tư bản tự do đã gây ra.

Ít lâu sau, đức Lêô XIII lại ban hành thông điệp “ Sứ mệnh tông đồ” (Quod Apostolici), trong đó ngài hiệu triệu mọi tín đồ công giáo phải nâng đỡ mọi thứ loại đoàn thể nghệ nghiệp và cần lao. Nên nhớ là thông điệp này được công bố ngày 28 tháng 10 năm 1878, thời kỳ mà rất ít người để ý đến giai cấp thợ thuyền, ngay cả đến chủ nghĩa xã hội, xét về phương diện tổ chức, thời kỳ đó cũng còn trong giai đoạn phôi thai. Để tiếp tục lý tưởng đó, ngài không bỏ lỡ một cơ hội nào mà không nhắc nhủ cho mọi người lời nói thống thiết này: “ Hãy đến với quần chúng, hãy giúp đỡ giai cấp thợ thuyền.”

3/ Nhưng một sự kiện quan trọng nhất, mãi mãi còn được ghi chép trong lịch sử thăng tiến của giai cấp cần lao là thông điệp “ Tân sự” ( Rerum Novarum ), ban hành ngày 15 tháng 5 năm 1891 với chủ đề đặc biệt là: Thân phận giai cấp thợ thuyền.

Cùng với văn kiện đó, đức Giáo hoàng đã kết án chính sách tư bản do phái tự do chủ trương, vì chính sách này đã quá đề cao quyền lợi của những người có của và quá khinh miệt quyền lợi của giới cần lao. Ngài cũng luận phi “ chế độ xã hội” ( Socialisme ) cùng với những học thuyết muốn hủy bỏ quyền tư hữu, muốn đề xướng vấn đề giai cấp đấu tranh, trong khi đạo Công giáo nỗ lực khuyến khích sự đoàn kết nơi mọi tầng lớp xã hội.

Tiếp đến, đức Lêô XIII lại nêu lên nhiều biện pháp thuộc phạm vi kinh tế, chính trị, luân lý, tôn giáo, nhằm giải quyết vấn đề xã hội. Ngài nhấn mạnh rằng: “ Một khi những sự cần thiết và nhu cầu của đời sống đã được thỏa mãn, thì những của còn lại phải đem ra trợ giúp những người nghèo khổ.” Với các chính phủ, ngài nhắc lại bổn phận của những người cầm quyền là phải nâng đỡ và trợ giúp mọi giới phái cần lao bằng tất cả một hệ thống luật lệ và những biện pháp chính trị thỏa đáng” ( trong thời kỳ đó, phần nhiều các chính phủ còn theo chính sách “ khiếm diện xã hội” ) ( Absentisme social )

Hơn thế nữa, đức Giáo hoàng còn ngỏ lời hiệu triệu mọi quốc gia để họ thiết lập lại những thứ loại hội đoàn nghề nghiệp, thích ứng với những nhu cầu mới của thời đại. Ngài viết: “ Ta rất lấy làm vui mừng vì nhận thấy rằng đó đây đã thành lập những hội đoàn với mục đích để liên hiệp hoặc những giới thợ thuyền, hoặc cả giới thợ thuyền lẫn chủ nhân. Ta cầu chúc cho những hội đoàn đó được ngày thêm đông số và hiệu lực.”

Nguyện vọng của vị giáo hoàng thuộc với thợ thuyền đã được linh nghiệm. Lời hiệu triệu của ngài đã gặp được những hồi âm cụ thể nơi nhiều tầng lớp công nhân và thợ thuyền. Tại nước Ý cũng như tại nhiều quốc gia công giáo, người ta đã thấy hình thành và thể hiện nhiều tổ chức và công cuộc xã hội để nâng đỡ giới cần lao.

Những sự kiện đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan đến độ nhà xã hội học Joseph Toniolo, để đối phó với lời hô hào của Karl Marx: “ Hỡi giới vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại”, đã hiên ngang đáp ứng lại rằng: “ Hỡi giai cấp vô sản toàn thế giới, hãy liên hiệp lại trong Chúa Kitô.”

4/ Trong thông điệp “ Tân Sự”, một vấn đề quan trọng khác cũng đã được Đức Leô XIII giải quyết, đó là vấn đề lương bổng công bình, tiền công hợp lý cho giới thợ thuyền.

Đối với người thợ, tiền lương là một vấn đề sinh tử, có tính cách bất khả xâm phạm, vì tiền lương là cơm ăn áo mặc, là điều kiện chủ yếu để duy trì chính đời sống của họ. Vậy mà phái tư bản tự do lại chủ trương rằng: tiền lương phải được định đoạt do sự thỏa thuận tự do giữa chủ và thợ. Chính sách ấn định lương bổng như thế tất nhiên phải lệ thuộc vào sự may rủi, vì trong khi giao ước, thường thường phần thiệt sẽ về phía người yếu thế, tức là người thợ.

Chính sách đó đã bị đức Giáo hoàng bài bác, vì nó tương phản với đức công bình. Bằng những lời lẽ khúc chiết và nghiêm minh, ngài viết rằng: “ Số lượng lương bổng của thợ thuyền không được thấp hơn giá biểu sinh hoạt trung bình và đầy đủ của người thợ. Nếu những chủ nhân và cai thầu dùng áp lực để bắt buộc thợ thuyền phải chấp nhận những số lương thấp kém, thì đó là một việc làm võ đoán, mà nhân đức công bình buộc phải phản đối”

Đức Piô XI còn đi xa hơn nữa. Trong thông điệp “Tứ thập niên” ngài đề nghị một chính sách lương bổng tính theo tỷ số gia đình ( salaire familial ), ngài nói: “ Phải trù liệu cho người thợ được một lương bổng tương xứng để nuôi dưỡng chính họ và cả gia đình họ”. Những tình trạng đau lòng mà người mẹ của gia đình, vì lương bổng của người chồng thiếu hụt, phải dấn thân đi làm việc ngoài ngưỡng cửa gia đình, do đó đã lãng quên những bổn phận chính yếu của người nội trợ, nhất là việc dạy dỗ và giáo dục con cái, những tình trạng đó quả là một tệ đoan, cần phải được cố gắng bài trừ, lương bổng của cần lao phải được trả với một mức độ tương xứng với những chi dụng của gia đình, một khi những khỏan chi dụng gia tăng thì lương bổng cũng phải gia tăng, và nếu có thể được, lương bổng phải được ứng đáp với những sự cần thiết ngoại thường nữa.”

Những nguyên tắc trên đây lại đã được Đức Piô XII nhắc nhủ tới trong thông điệp “Sertum Laetitioe”, khi ngài viết: “ Lương bổng của thợ thuyền, muốn được thỏa đáng, cần phải được tương xứng để người thợ có thể nuôi mình và nuôi gia đình họ.”

5/ Tiền lương công bình không phải là thể cách độc nhất để trả công cho người thợ. Trong Thông điệp “ Tứ Thập Niên”, Đức Piô XI còn đề xứng một phương thức tiến bộ hơn, có khả năng làm cho người thợ được thăng tiến đời sống kinh tế của họ, và thoát ly hẳn với hoàn cảnh nghèo túng. Phương thức đó là sự đồng hưởng những lời lãi của xí nghiệp.

Về điểm này, những lời giáo huấn của Đức Giáo hoàng cũng rất là khúc chiết. Những nguồn lời ngài viết đã trở thành rất mực sung mãn trong thế kỷ này nhờ chính sách kỹ nghệ, đã không được phân phát và xử dụng công bình đối với nhiều hạng người trong xã hội: “Cần thiết phải trù liệu thế nào để tự hậu, những lời lãi đừng có chỉ nguyên nằm trong tay những người giàu có một cách thiếu quân bình, chúng phải được phân phối một cách thỏa đáng cho mọi thợ thuyền.”

Cũng trong thông điệp đó, đức Piô XI đã than phiền là nhiều người ngay cả những người công giáo đã không noi theo những lời giáo huấn khôn ngoan của Giáo hội. Và những nhận xét sau đây vừa là lời khiển trách, vừa là lời khuyên răn:

“Một điểm rất đáng phàn nàn là trước đây và hiện nay có nhiều người tự xưng mình là công giáo, nhưng hầu như không quan tâm đến lề luật tối quan trọng của đức công bình và bác ái, bắt buộc Ta nói: không những phải trao trả cho mỗi người những của thuộc về họ mà còn phải trợ giúp những anh em khó nghèo như trợ giúp chính Chúa Cứu thế. Tệ hại hơn nữa, nhiều người, để trục lợi, đã không ngần ngại đàn áp những anh em thợ thuyền. Làm như thế, tức là lợi dụng tôn giáo, tức là dùng tôn giáo làm tấm bình phong để che đậy những hành vi bất công, để từ khước những yêu sách chính đáng của giới cần lao. Không bao giờ Ta im tiếng để khiển trách những hành động tương tự như thế. Chính những kẻ đó đã là một căn cớ làm cho Giáo hội bị mang tiếng một cách bất công là về bè với những người giàu có, là đã không thương xót những nỗi đau khổ của những người không được quyền tham dự hạnh phúc trên trần gian.”