GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI VẤN ĐỀ QUYỀN TƯ HỮU
“Tư hữu hay một quyền lợi nào đó trên tài sản vật chất đảm bảo cho mỗi người một lãnh vực cần thiết tự lập cá nhân và gia đình, cần thiết phải coi đó như một mở rộng tự do con người. Sau cùng quyền tư hữu thôi thúc thi hành trách nhiệm. Quyền tư hữu là một trong những điều kiện của tự do chính trị.
Quyền tư hữu cũng có một vai trò xã hội nội tại có nền tảng trong luật dụng đích tài sản công cộng. Một khi lãng quên tính cách xã hội đó thì lắm khi quyền tư hữu trở nên cơ hội cho những tham vọng và nguyên nhân cho những xáo trộn trầm trọng và nên cớ cho nhiều người phủ nhận quyền sở hữu…
Trong một vài miền kém mở mang về một kinh tế, có những chấp hữu ruộng đất mênh mang mà vì lý do tư lợi, nên không được khai thác bao nhiêu hoặc hoàn toàn bỏ hoang, đang khi một số lớn dân chung thiếu ruộng đất hoặc chỉ có một phần nhỏ”. (Lược đồ XIII, số 71).
QUAN NIỆM NHẬP ĐỀ
1. Quyền tư hữu có thể hiểu là một khả năng luân lý để chiếm hữu và làm chủ một sự vật gì như của riêng.
Quyền tư hữu là một hiệu qủa tất nhiên của quyền sống, vì con người không thể sinh sống được, nếu không được quyền đắc thủ và hưởng dụng những của cải vật chất một cách chính đáng.
Quyền tư hữu được phân chia làm nhiều thứ loại. Đây là mấy thứ loại chính yếu:
a. Quyền tư hữu cá nhân hoặc bản thân: khi người có của là một cá nhân hay một thực nhân. Quyền tư hữu đoàn thể hoặc xã hội: khi người giữ của là một đòan thể hay một pháp nhân.
b. Nếu người tư hữu liên quan đến một đoàn thể có tính cách chung như quốc gia hay Giáo Hội, thì gọi tư hữu công cộng; trong những trường hợp khác, đều gọi là tư hữu tư nhân.
2. Những của cải thuộc quyền tư hữu thường liên quan đến các thứ loại:
a. Tư hữu sản xuất, tức là những tài sản có khả năng sản sinh ra các của cải khác (thí dụ như điền thổ, xưởng máy, nguyên liệu, dụng cụ); tư hữu thông dụng, tức là những sự vật thường dùng cho đới sống (thí dụ dụng cụ tư gia, quần áo…).
b. Tư hữu bất động sản, tức là những của cải không thể chuyển dời từ nơi này sang nơi khác (ruộng vườn, hầm mỏ), tư hữu động sản là những của cải có thể di chuyển được (tiền bạc, tín dụng).
3. Có những chủ nghĩa và chính sách kinh tế liên quan đến quyền tư hữu như:
a. Chủ nghĩa tự do (liberalisme), vì qúa đề cao quyền tự do cá nhân nên đã không ấn định những giới hạn và nhiệm vụ cho vấn đề tư hữu. Do đó đã gây nên nhiều nỗi bất công trong xã hội.
b. Chủ nghĩa cộng sản, vì muốn phá huỷ quyền tư hữu của mọi người để tập trung tài sản vào một tay chính phủ, nên đã đi đến chỗ thất bại trong áp bức và đau thương.
QUYỀN LỢI VÀ VIỆC SỬ DỤNG TƯ HỮU
Giáo Hội căn cứ vào lời giảng dạy của Chúa Cứu thế đã luôn luôn xác định rằng quyền tư hữu là một quyền tự nhiên, nghĩa là quyền đó đã do Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo vạn vật đã thiết lập nên. Quyền tư hữu rất phù hợp với lý lẽ tự nhiên vì:
a. Tài sản riêng là một động cơ thúc đẩy con người siêng năng làm việc để đem lại lợi ích cho bản thân, lợi ích đó lại rất cần thiết cho việc tăng gia mức sản xuất về mọi ngành hành động.
b. Chế độ tư hữu lại là một biện pháp cần thiết để dung hoà trật tự xã hội với tự do cá nhân, cần lao với phẩm giá con người.
c. Sự phân chia của cải một cách công bình là một yếu tố quan trọng để củng cố và phát huy an ninh xã hội, trái lại chế độ cộng đồng tài sản thường phát sinh những tình trạng thù ghét và bất bình.
HỌC THUYẾT CỦA CHÚA KITÔ
Chúa Kitô đã mặc nhiên công nhận sự hiện hữu cũng như những tác dụng xã hội của quyền tư hữu.
1. Thật thế, không bao giờ Chúa Cứu thế đã lên tiếng kết án chế độ tư hữu, giả sử chế độ này là bất công và tương phản với luật tự nhiên thì chắc chắn Ngài đã luận phi rồi.
Như ta đã biết, bằng những lời lẽ minh nhiên và cương trực Chúa đã thẳng thắn bài trừ tất cả những sự việc bất công và lạm quyền tư cũng như công của những người cùng thời đại với Ngài. Ngài đã kết tội bè đảng Biệt phái giả hình, những chính sách công bình giả tạo, những thái độ kiêu căng, chế độ ly hôn… Nhưng tại sao Ngài lại không kết tội quyền tư hữu nếu quyền này chỉ là một chính sách bóc lột và ăn cướp như Proudhon đã tuyên bố như thế?
Trái lại, trong nhiều dịp khác nhau, Chúa đã mặc nhiên chấp nhận cho con người được quyền đắc thủ của cải tư nhân và gia tài tư hữu. Giachêô, người tư hữu thuế, đã thưa cùng Chúa rằng: “Thưa Thầy, tôi xin lấy nửa gia tài tôi mà cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai bất cứ việc gì, tôi sẽ đền trả gấp tư”. Chúa đã ban khen người này về quyết định đó rằng: “Hôm nay sự cứu rỗi đã vào nhà này, vì người này cũng là con cháu Abraham” (Luc. XIX, 1-10). Như thế Giachêô đã được cứu rỗi trong khi chỉ làm phúc có nửa gia tài của mình, không phải là tất cả. Điều đó chứng minh rằng ông có quyền được hưởng dùng một nửa gia tài hiện còn lại.
2. Lại nữa, Chúa Cứu thế đã xác định bổn phận xã hội của quyền tư hữu khi Ngài nói đến những nhiệm vụ mà người có của phải thi hành đối với tha nhân. Lập trường của Chúa rất trái ngược với chủ trương của phái Rabbini cho rằng người có của được hưởng dùng của cải mình một cách vô giới hạn.
Ngài nói một cách rõ rệt và khúc chiết rằng: “Phải làm phúc bố thí những của còn dư dật”. (Luc. XI, 4). Phán lời đó, Chúa đã dùng thể cách mệnh lệnh “Hãy làm phúc”. Do đó lấy những của dư dật để giúp đỡ người nghèo đích thực là một giới răn. Mà của dư đạt- là tất cả những gì không cần thiết để chu cấp cho đời sống bản thân và đời sống gia đình, phù hợp với nhu cầu của chức vị. (xem chương trên).
Đàng khác, đặc tính xã hội của quyền tư hữu đã mặc nhiên chứa đựng trong một quan niệm vô cùng phổ quát là tình Huynh đệ đại đồng, một trong những chân lý trọng yếu Phúc Âm Chúa Kitô. Trong tình nghĩa anh em chân thành thì những danh từ “của anh, của tôi” đã mất hẳn ý nghĩa vị kỷ của câu nói, vì một người anh em giầu có không thể nhẫn tâm để anh em mình bị nghèo nàn đói khổ.
3. Đời sống của các tín hữu đầu tiên tại Giêrusalem là một bằng chứng cụ thể, minh chứng hiệu lực tất nhiên của lời Chúa Cứu thế giảng dạy. Thánh Luca có thuật lại rằng: “Người tin theo đạo thì đông lắm, mọi người đều liên kết với nhau như cùng một tâm trí, một linh hồn. Chẳng ai coi của mình là của riêng, nhưng coi mọi của họ có như của chung mọi người… Trong tín đồ, không ai bị thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến đặt dưới chân các vị Tông đồ, rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phân phát cho (Act. Apost IV, 32, 35).
Ta nên nhớ là việc tập trung của cải nơi các tín hữu đầu tiên là kết qủa của một tinh thần bác ái cao cả, cử chỉ đó có tính cách hoàn toàn tự do và tự động, không phải là một chế độ bó buộc hay gò ép. Điểm này đã được minh xác trong nhiều chứng lý của Tông đồ công vụ. Rõ rệt hơn cả là truyện chồng Anania và Saffira đem đến nộp cho thánh Phêrô một phần tiền đã bán gia sản và giữ lại cho mình một phần. Cử chỉ đó đã bị Thiên Chúa nghiêm phạt bằng một sự chết bất đắc kỳ tử. Tại sao hai vợ chồng lại bị trừng phạt một cách nghiêm khắc như thế? Không phải do họ đã giữ lại cho mình một phần tiền, vì họ có quyền được giữ lại tất cả, nhưng do họ đã nói dối và đánh lừa thánh Tông đồ khi họ nói là đem nộp tất cả số tiền họ đã bán được. Vì thế mà thánh Tông đồ đã mắng trách họ rằng: “Hỡi Anania, sao qủi Satan đã cám dỗ tâm trí ngươi, để ngươi nói dối Chúa Thánh Thần và bớt lại một phần giá ruộng đó? Nếu ngươi chưa bán ruộng đó há chẳng phải là của ngươi sao? Khi bán rồi giữ tiền đó, há chẳng được sao? Không phải ngươi đã nói dối loài người, nhưng là nói dối chính Thiên Chúa. (Act Apost V, 1-5).
HỌC THUYẾT GIÁO HỘI VỀ QUYỀN TƯ HỮU
Theo gương Chúa, Giáo Hội mặc dầu luôn luôn công nhận quyền tư hữu là hợp lý, nhưng bao giờ cũng nhấn mạnh đến bổn phận xã hội của tài sản tư hữu.
a. Giáo lý của các thánh Tông đồ.
Ngay từ thời sơ khai, thánh Tông đồ Phêrô đã truyền buộc các tín hữu rằng: “Mỗi người trong anh em hãy lấy những ơn đã được mà giúp đỡ lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín duy trì các thứ ơn của Thiên Chúa” (I. Pet. IV, 10). Với lời đó, thánh Tông đồ có ý nói về những ơn thiêng liêng cũng như vật chất, sự cứu trợ phần hồn, cũng như sự hỗ tương phần xác.
Khuyên răn môn đệ Timôthêô, thánh Phaolô đã viết rằng: “Hãy răn bảo người giầu có ở thế gian… để họ làm việc thiện, làm nhiều việc phúc đức, để họ ban phát và phân chia của họ có” (I. Tim VI, 17-18).
b. Giáo lý của các thánh giáo phụ
Trong cuốn Summa Theologia, thánh tiến sĩ Thomas đã lập lụân một cách minh bạch và khúc chiết rằng: “Đối với của cải vật chất, con người có 2 quyền hành này là:
a/ Quyền đắc thủ và quyền phân phối của cải: giữ gìn của riêng là một quyền lợi hợp lý, nhưng cũng hợp lý và cần thiết việc phân chia của cải cho những người khác.
b/ Quyền hưởng dụng của cải: khi sử dụng của cải, con người không được nhìn xem của cải vật chất như của riêng tư mà thôi, nhưng phải xem chúng như là của chung, nghĩa là phải sẵn lòng phân chia của đó cho những người thiếu thốn” (Cf. Suma Theol.).
Tất cả các thánh Giáo phụ đều giảng dạy tương tự như thế. Thánh Basiliô đã viết bằng một luận điệu cực kỳ thống thiết và thẳng nhặt rằng: “Ai giật lấy cái áo người khác đang mặc thì ta gọi nó là đứa ăn cắp, chớ thì ta không có thể gọi là ăn cắp cái người không mặc áo cho người đói rét khi có thể làm được ư? An cắp của người nghèo đói, là có bánh trong bị mà không cho, ăn cắp của kẻ cơ hàn, là có áo mà xếp chặt trong hòm rương, ăn cắp của người đi chân không là có giày mà để cho hư mòn đi, ăn cắp của người túng cực, là có tiền mà để chôn dưới đất. Do đó các người mắc lỗi với người đồng loại trong tất cả những sự việc có thể làm cho họ được mà không làm”.
c. Giáo lý của các Đức Giáo hoàng.
Ở đây chúng tôi chỉ xin đan cử một vài văn kiện liên quan, vì không thể trưng dẫn hết được.
Trong thông điệp “Divini Redemptoris” về chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Piô XII đã viết rằng: “Những ai giầu có không nên nhìn xem của cải trần gian như là hạnh phúc duy nhất, nhưng họ phải coi mình như những người quản lý mà sau này sẽ phải trả lẽ với đấng gia chủ tối cao; họ phải sử dụng gia sản của mình như những phương tiện qúi báu Thiên Chúa đã ủy thác để làm việc phúc đức, họ phải phân chia những của dư dật cho người nghèo khổ, thể theo huấn giới của Phúc Âm”. (thông điệp DR).
Đức Piô XII trong bài diễn văn đọc để kỷ niệm thông điệp “Tân Sư” đã tuyên bố rằng: “Đã hẳn trật tự thiên nhiên, diễn xuất do Thiên Chúa, đòi buộc phải có quyền tư hữu. Nhưng quyền tư hữu không được ngăn trở “quyền lợi đệ nhất và căn bản là mọi người đều phải được sử dụng của cải vật chất”.
Đức Giáo hoàng gọi là quyền lợi đệ nhất và căn bản, bởi vì việc sử dụng của cải vật chất là cần thiết để duy trì đời sống, mà sinh sống lại có giá trị siêu việt hơn việc nắm giữ tài sản. Chân lý này thật là rõ rệt, luân lý công giáo cũng nói rằng: Khi một người ở trong tình trạng cần thiết tối hậu (trong extrema necessitate) thì họ có thể lấy trộm của người khác những gì cần thiết để khỏi chết đói mà vốn vô tội.
Những chân lý trình bày trên đây đã minh chứng rằng: Học thuyết xã hội công giáo đã xác định một thái độ trung dung giữa hai chủ nghĩa cực đoan là cộng sản và tư bản tự do. Cộng sản muốn hủy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu con người và bản thân, trong khi chủ nghĩa tư bản tự do lại chủ trương đề cao quyền đó một cách vô giới hạn
Cả hai chủ nghĩa- như ta đã biết- đều không thể chấp nhận được.
“Tư hữu hay một quyền lợi nào đó trên tài sản vật chất đảm bảo cho mỗi người một lãnh vực cần thiết tự lập cá nhân và gia đình, cần thiết phải coi đó như một mở rộng tự do con người. Sau cùng quyền tư hữu thôi thúc thi hành trách nhiệm. Quyền tư hữu là một trong những điều kiện của tự do chính trị.
Quyền tư hữu cũng có một vai trò xã hội nội tại có nền tảng trong luật dụng đích tài sản công cộng. Một khi lãng quên tính cách xã hội đó thì lắm khi quyền tư hữu trở nên cơ hội cho những tham vọng và nguyên nhân cho những xáo trộn trầm trọng và nên cớ cho nhiều người phủ nhận quyền sở hữu…
Trong một vài miền kém mở mang về một kinh tế, có những chấp hữu ruộng đất mênh mang mà vì lý do tư lợi, nên không được khai thác bao nhiêu hoặc hoàn toàn bỏ hoang, đang khi một số lớn dân chung thiếu ruộng đất hoặc chỉ có một phần nhỏ”. (Lược đồ XIII, số 71).
QUAN NIỆM NHẬP ĐỀ
1. Quyền tư hữu có thể hiểu là một khả năng luân lý để chiếm hữu và làm chủ một sự vật gì như của riêng.
Quyền tư hữu là một hiệu qủa tất nhiên của quyền sống, vì con người không thể sinh sống được, nếu không được quyền đắc thủ và hưởng dụng những của cải vật chất một cách chính đáng.
Quyền tư hữu được phân chia làm nhiều thứ loại. Đây là mấy thứ loại chính yếu:
a. Quyền tư hữu cá nhân hoặc bản thân: khi người có của là một cá nhân hay một thực nhân. Quyền tư hữu đoàn thể hoặc xã hội: khi người giữ của là một đòan thể hay một pháp nhân.
b. Nếu người tư hữu liên quan đến một đoàn thể có tính cách chung như quốc gia hay Giáo Hội, thì gọi tư hữu công cộng; trong những trường hợp khác, đều gọi là tư hữu tư nhân.
2. Những của cải thuộc quyền tư hữu thường liên quan đến các thứ loại:
a. Tư hữu sản xuất, tức là những tài sản có khả năng sản sinh ra các của cải khác (thí dụ như điền thổ, xưởng máy, nguyên liệu, dụng cụ); tư hữu thông dụng, tức là những sự vật thường dùng cho đới sống (thí dụ dụng cụ tư gia, quần áo…).
b. Tư hữu bất động sản, tức là những của cải không thể chuyển dời từ nơi này sang nơi khác (ruộng vườn, hầm mỏ), tư hữu động sản là những của cải có thể di chuyển được (tiền bạc, tín dụng).
3. Có những chủ nghĩa và chính sách kinh tế liên quan đến quyền tư hữu như:
a. Chủ nghĩa tự do (liberalisme), vì qúa đề cao quyền tự do cá nhân nên đã không ấn định những giới hạn và nhiệm vụ cho vấn đề tư hữu. Do đó đã gây nên nhiều nỗi bất công trong xã hội.
b. Chủ nghĩa cộng sản, vì muốn phá huỷ quyền tư hữu của mọi người để tập trung tài sản vào một tay chính phủ, nên đã đi đến chỗ thất bại trong áp bức và đau thương.
QUYỀN LỢI VÀ VIỆC SỬ DỤNG TƯ HỮU
Giáo Hội căn cứ vào lời giảng dạy của Chúa Cứu thế đã luôn luôn xác định rằng quyền tư hữu là một quyền tự nhiên, nghĩa là quyền đó đã do Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo vạn vật đã thiết lập nên. Quyền tư hữu rất phù hợp với lý lẽ tự nhiên vì:
a. Tài sản riêng là một động cơ thúc đẩy con người siêng năng làm việc để đem lại lợi ích cho bản thân, lợi ích đó lại rất cần thiết cho việc tăng gia mức sản xuất về mọi ngành hành động.
b. Chế độ tư hữu lại là một biện pháp cần thiết để dung hoà trật tự xã hội với tự do cá nhân, cần lao với phẩm giá con người.
c. Sự phân chia của cải một cách công bình là một yếu tố quan trọng để củng cố và phát huy an ninh xã hội, trái lại chế độ cộng đồng tài sản thường phát sinh những tình trạng thù ghét và bất bình.
HỌC THUYẾT CỦA CHÚA KITÔ
Chúa Kitô đã mặc nhiên công nhận sự hiện hữu cũng như những tác dụng xã hội của quyền tư hữu.
1. Thật thế, không bao giờ Chúa Cứu thế đã lên tiếng kết án chế độ tư hữu, giả sử chế độ này là bất công và tương phản với luật tự nhiên thì chắc chắn Ngài đã luận phi rồi.
Như ta đã biết, bằng những lời lẽ minh nhiên và cương trực Chúa đã thẳng thắn bài trừ tất cả những sự việc bất công và lạm quyền tư cũng như công của những người cùng thời đại với Ngài. Ngài đã kết tội bè đảng Biệt phái giả hình, những chính sách công bình giả tạo, những thái độ kiêu căng, chế độ ly hôn… Nhưng tại sao Ngài lại không kết tội quyền tư hữu nếu quyền này chỉ là một chính sách bóc lột và ăn cướp như Proudhon đã tuyên bố như thế?
Trái lại, trong nhiều dịp khác nhau, Chúa đã mặc nhiên chấp nhận cho con người được quyền đắc thủ của cải tư nhân và gia tài tư hữu. Giachêô, người tư hữu thuế, đã thưa cùng Chúa rằng: “Thưa Thầy, tôi xin lấy nửa gia tài tôi mà cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai bất cứ việc gì, tôi sẽ đền trả gấp tư”. Chúa đã ban khen người này về quyết định đó rằng: “Hôm nay sự cứu rỗi đã vào nhà này, vì người này cũng là con cháu Abraham” (Luc. XIX, 1-10). Như thế Giachêô đã được cứu rỗi trong khi chỉ làm phúc có nửa gia tài của mình, không phải là tất cả. Điều đó chứng minh rằng ông có quyền được hưởng dùng một nửa gia tài hiện còn lại.
2. Lại nữa, Chúa Cứu thế đã xác định bổn phận xã hội của quyền tư hữu khi Ngài nói đến những nhiệm vụ mà người có của phải thi hành đối với tha nhân. Lập trường của Chúa rất trái ngược với chủ trương của phái Rabbini cho rằng người có của được hưởng dùng của cải mình một cách vô giới hạn.
Ngài nói một cách rõ rệt và khúc chiết rằng: “Phải làm phúc bố thí những của còn dư dật”. (Luc. XI, 4). Phán lời đó, Chúa đã dùng thể cách mệnh lệnh “Hãy làm phúc”. Do đó lấy những của dư dật để giúp đỡ người nghèo đích thực là một giới răn. Mà của dư đạt- là tất cả những gì không cần thiết để chu cấp cho đời sống bản thân và đời sống gia đình, phù hợp với nhu cầu của chức vị. (xem chương trên).
Đàng khác, đặc tính xã hội của quyền tư hữu đã mặc nhiên chứa đựng trong một quan niệm vô cùng phổ quát là tình Huynh đệ đại đồng, một trong những chân lý trọng yếu Phúc Âm Chúa Kitô. Trong tình nghĩa anh em chân thành thì những danh từ “của anh, của tôi” đã mất hẳn ý nghĩa vị kỷ của câu nói, vì một người anh em giầu có không thể nhẫn tâm để anh em mình bị nghèo nàn đói khổ.
3. Đời sống của các tín hữu đầu tiên tại Giêrusalem là một bằng chứng cụ thể, minh chứng hiệu lực tất nhiên của lời Chúa Cứu thế giảng dạy. Thánh Luca có thuật lại rằng: “Người tin theo đạo thì đông lắm, mọi người đều liên kết với nhau như cùng một tâm trí, một linh hồn. Chẳng ai coi của mình là của riêng, nhưng coi mọi của họ có như của chung mọi người… Trong tín đồ, không ai bị thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến đặt dưới chân các vị Tông đồ, rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phân phát cho (Act. Apost IV, 32, 35).
Ta nên nhớ là việc tập trung của cải nơi các tín hữu đầu tiên là kết qủa của một tinh thần bác ái cao cả, cử chỉ đó có tính cách hoàn toàn tự do và tự động, không phải là một chế độ bó buộc hay gò ép. Điểm này đã được minh xác trong nhiều chứng lý của Tông đồ công vụ. Rõ rệt hơn cả là truyện chồng Anania và Saffira đem đến nộp cho thánh Phêrô một phần tiền đã bán gia sản và giữ lại cho mình một phần. Cử chỉ đó đã bị Thiên Chúa nghiêm phạt bằng một sự chết bất đắc kỳ tử. Tại sao hai vợ chồng lại bị trừng phạt một cách nghiêm khắc như thế? Không phải do họ đã giữ lại cho mình một phần tiền, vì họ có quyền được giữ lại tất cả, nhưng do họ đã nói dối và đánh lừa thánh Tông đồ khi họ nói là đem nộp tất cả số tiền họ đã bán được. Vì thế mà thánh Tông đồ đã mắng trách họ rằng: “Hỡi Anania, sao qủi Satan đã cám dỗ tâm trí ngươi, để ngươi nói dối Chúa Thánh Thần và bớt lại một phần giá ruộng đó? Nếu ngươi chưa bán ruộng đó há chẳng phải là của ngươi sao? Khi bán rồi giữ tiền đó, há chẳng được sao? Không phải ngươi đã nói dối loài người, nhưng là nói dối chính Thiên Chúa. (Act Apost V, 1-5).
HỌC THUYẾT GIÁO HỘI VỀ QUYỀN TƯ HỮU
Theo gương Chúa, Giáo Hội mặc dầu luôn luôn công nhận quyền tư hữu là hợp lý, nhưng bao giờ cũng nhấn mạnh đến bổn phận xã hội của tài sản tư hữu.
a. Giáo lý của các thánh Tông đồ.
Ngay từ thời sơ khai, thánh Tông đồ Phêrô đã truyền buộc các tín hữu rằng: “Mỗi người trong anh em hãy lấy những ơn đã được mà giúp đỡ lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín duy trì các thứ ơn của Thiên Chúa” (I. Pet. IV, 10). Với lời đó, thánh Tông đồ có ý nói về những ơn thiêng liêng cũng như vật chất, sự cứu trợ phần hồn, cũng như sự hỗ tương phần xác.
Khuyên răn môn đệ Timôthêô, thánh Phaolô đã viết rằng: “Hãy răn bảo người giầu có ở thế gian… để họ làm việc thiện, làm nhiều việc phúc đức, để họ ban phát và phân chia của họ có” (I. Tim VI, 17-18).
b. Giáo lý của các thánh giáo phụ
Trong cuốn Summa Theologia, thánh tiến sĩ Thomas đã lập lụân một cách minh bạch và khúc chiết rằng: “Đối với của cải vật chất, con người có 2 quyền hành này là:
a/ Quyền đắc thủ và quyền phân phối của cải: giữ gìn của riêng là một quyền lợi hợp lý, nhưng cũng hợp lý và cần thiết việc phân chia của cải cho những người khác.
b/ Quyền hưởng dụng của cải: khi sử dụng của cải, con người không được nhìn xem của cải vật chất như của riêng tư mà thôi, nhưng phải xem chúng như là của chung, nghĩa là phải sẵn lòng phân chia của đó cho những người thiếu thốn” (Cf. Suma Theol.).
Tất cả các thánh Giáo phụ đều giảng dạy tương tự như thế. Thánh Basiliô đã viết bằng một luận điệu cực kỳ thống thiết và thẳng nhặt rằng: “Ai giật lấy cái áo người khác đang mặc thì ta gọi nó là đứa ăn cắp, chớ thì ta không có thể gọi là ăn cắp cái người không mặc áo cho người đói rét khi có thể làm được ư? An cắp của người nghèo đói, là có bánh trong bị mà không cho, ăn cắp của kẻ cơ hàn, là có áo mà xếp chặt trong hòm rương, ăn cắp của người đi chân không là có giày mà để cho hư mòn đi, ăn cắp của người túng cực, là có tiền mà để chôn dưới đất. Do đó các người mắc lỗi với người đồng loại trong tất cả những sự việc có thể làm cho họ được mà không làm”.
c. Giáo lý của các Đức Giáo hoàng.
Ở đây chúng tôi chỉ xin đan cử một vài văn kiện liên quan, vì không thể trưng dẫn hết được.
Trong thông điệp “Divini Redemptoris” về chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Piô XII đã viết rằng: “Những ai giầu có không nên nhìn xem của cải trần gian như là hạnh phúc duy nhất, nhưng họ phải coi mình như những người quản lý mà sau này sẽ phải trả lẽ với đấng gia chủ tối cao; họ phải sử dụng gia sản của mình như những phương tiện qúi báu Thiên Chúa đã ủy thác để làm việc phúc đức, họ phải phân chia những của dư dật cho người nghèo khổ, thể theo huấn giới của Phúc Âm”. (thông điệp DR).
Đức Piô XII trong bài diễn văn đọc để kỷ niệm thông điệp “Tân Sư” đã tuyên bố rằng: “Đã hẳn trật tự thiên nhiên, diễn xuất do Thiên Chúa, đòi buộc phải có quyền tư hữu. Nhưng quyền tư hữu không được ngăn trở “quyền lợi đệ nhất và căn bản là mọi người đều phải được sử dụng của cải vật chất”.
Đức Giáo hoàng gọi là quyền lợi đệ nhất và căn bản, bởi vì việc sử dụng của cải vật chất là cần thiết để duy trì đời sống, mà sinh sống lại có giá trị siêu việt hơn việc nắm giữ tài sản. Chân lý này thật là rõ rệt, luân lý công giáo cũng nói rằng: Khi một người ở trong tình trạng cần thiết tối hậu (trong extrema necessitate) thì họ có thể lấy trộm của người khác những gì cần thiết để khỏi chết đói mà vốn vô tội.
Những chân lý trình bày trên đây đã minh chứng rằng: Học thuyết xã hội công giáo đã xác định một thái độ trung dung giữa hai chủ nghĩa cực đoan là cộng sản và tư bản tự do. Cộng sản muốn hủy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu con người và bản thân, trong khi chủ nghĩa tư bản tự do lại chủ trương đề cao quyền đó một cách vô giới hạn
Cả hai chủ nghĩa- như ta đã biết- đều không thể chấp nhận được.