GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI VẤN ĐỀ TIỀN TÀI CỦA CẢI.
“Con người, trong khi sử dụng, đừng coi những dụng cụ mà mình đã chiếm hữu cách chính đáng như sở hữu riêng của mình, nhưng phải coi như của chung, hiểu theo nghĩa các dụng cụ đó không chỉ ích lợi cho một mình mà còn cho người khác nữa. Đàng khác, mọi người đều có quyền đòi hỏi và chiếm hữu những gì cần thiết vừa đủ cho chính mình và cho gia đình. Đó là ý thức của các giáo phụ và các tiến sĩ Giáo Hội khi các Ngài dạy rằng “tất cả mọi người đều có bổn phận phải giúp đỡ những người nghèo”, chứ không phải những người giầu có dư thừa mà thôi. Một người nào khi bị lâm cảnh cùng bấn bế tắc thì có quyền đòi hỏi những gì thiết yếu cho sinh sống của mình nơi những kẻ giầu có.
Hiện giờ một phần lớn nhân loại đang lâm cảnh đói kém. Công đồng kêu gọi mọi người, cá nhân cũng như chính quyền để họ nhớ lại lời sau đây của các giáo phụ: “Hãy nuôi người chết đói, nếu ngươi không nuôi thì ngươi là kẻ sát nhân của người chết đói kia” (Lược đồ XIII, số 69).
TƯ TƯỞNG TIỀN ĐỀ
1. Những nguyên tắc công giáo về vấn đề nghèo khổ trình bày ở chương trên sẽ đưa đến việc tìm hiểu học thuyết Chúa Kitô chung quanh vấn đề của cải và sự hưởng dùng của cải.
Thuở xưa Đấng Tạo Hóa đã phán cùng tổ tông nhân loại rằng: “Hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy rẩy mặt đất, hãy làm cho đất phục tòng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng mọi loài vật sinh sống trên mặt đất” (Gen I, 28).
Với lời đó, Thượng đế đã đặc ban cho con người quyền được làm chủ trái đất để khai thác nói chung, và để hưởng dùng mọi của cải do đất sản xuất ra, đồng thời được sử dụng mọi loài vật trên mặt đất tùy theo nhu cầu và ý nguyện của mỗi người. Nói tóm, Thượng đế cho loài người được quyền hưởng dùng của cải vật chất làm như những phương tiện để duy trì đời sống.
Nhưng con người đã dùng của cải vật chất không những để thỏa mãn những nhu cầu hợp lý trong đới sống, họ còn dùng nó để mua chuộc những thị dục bất chính, những khoái lạc tội lỗi. Do đó mới phát sinh sự lạm dụng của cải.
2. Moi người đều có quyền được đắc thủ và hưởng dụng mọi của cải cần thiết cho đời sống.
Đã có quyền sống, tất nhiên con người phải được quyền đắc thủ của cải vật chất. Về điểm này, chúng ta sẽ diễn đạt sâu rộng hơn trong chương sau.
Ơ đây, chúng tôi chỉ nhấn mạnh rằng: vì mọi của cải đã được phân chia cho con người bằng những thể cách khác biệt nhau, thế nên trên thế giới mới có những thể trạng không giống nhau, có những người nghèo khổ, có những người dư dật và giầu có.
Giầu có là hiện tượng của những người có dư dật của cải, vượt qúa mức bình thường của những người chỉ có của ăn vừa đủ để sống. Chính của cải đã tạo nên giai cấp phú hào.
Theo ánh sáng Phúc Âm, chúng ta phải quan niệm thế nào về sự giầu có? Chúa Cứu thế và Giáo Hội đã giảng dạy gì về việc sử dụng của cải?
Đây là những câu hỏi mà chúng tôi muốn trả lời trong chương này.
Để rọi thêm ánh sáng cho vấn đề chúng ta đang thảo luận, trước hết, chúng ta hãy xem xã hội cổ thời cảm nghĩ về của cải và sử dụng nó như thế nào?
SỰ GIÀU CÓ TRONG XÃ HỘI CỔ THỜI.
1. Trước kỷ nguyên Chúa Cứu thế, trong xã hội cổ thời, người giầu được có toàn quyền sử dụng, cũng như có toàn quyền lạm dụng gia sản của mình, không phải tuân giữ một giới hạn nào, cũng không phải trợ giúp bất cứ ai, giữa cả một đại chúng đói khổ người giầu vẫn có thể thản nhiên đem ngũ cốc của mình thiêu hủy đi vì kho lẫm đã qúa đầy tràn. Lòng trắc ẩn đối với người nghèo khổ, sự giúp đỡ những kẻ cơ cực, việc làm phúc bố thí là những sự việc không được ai biết đến, có khi bị xem như là những hành động nhu nhược.
Triết học và phong hóa thời đó đã không dạy bảo gì về bổn phận người giầu đối với người nghèo. Tích truyện kể trong Phúc Âm về người trọc phú ăn uống no say trong khi không đoái hoài gì đến Lazarô hành khất, phải nằm kêu cứu ngoài cửa (Luc XVI, 19-31), là một tượng trưng cho những người giầu vô lương tâm tại cổ thời.
Đây là quan niệm về bác ái và đây là nguyên tắc sử dụng của cải ở thời xưa: “Ai có của cải, cứ việc tận hưởng cho thỏa thích không cần nghĩ gì tới người khác”.
2. Với một quan niệm ích kỷ như thế, trong xã hội xưa, người ta đã gặp thấy một thiểu số gia đình giầu có, lãng phí tiền của vui chơi nhảy múa chung quanh cả một lớp người đang chết đói chết rét. Những văn gia thời xưa đã thuật lại những cảnh tượng giầu sang của các nhà qúi tộc La mã: nhà cửa, ruộng vườn, kho lẫm, những nơi du hí ăn chơi, những thể cách sinh sống cực kỳ đế vương và hoang phí, thoạt nghe tưởng là những truyện trong thần thoại.
Một điều rất quái gở và nghịch tai những người thời nay là hầu hết những gia sản của các nhà giầu thời xưa đều được đánh giá bằng số lượng nô lệ. Ai càng có nhiều nô lệ bao nhiêu, người đó càng được kể là giầu có bấy nhiêu. Nhiều nhà triệu phú La mã có từng ngàn vạn nô lệ! Văn hào Plinius đã kể rằng: dưới thời hoàng đế Auguste, có người giầu kia tên là Cecilio Isidoro có nhiều nô lệ đến nỗi, mặc dầu trong thời chiến tranh đã mất mát nhiều nhưng khi chết còn để lại được 4116 nô lệ.
QUAN NIỆM CHÚA CÚU THẾ VỀ VẤN ĐỀ CỦA CẢI.
Chúa Cứu thế đã cảnh cáo nhân loại phải đề phòng một ác thần vô cùng nguy hại là “thần của cải” (Mammon).
Ngài không lên án của cải, nhưng Ngài đã chỉ vạch những tệ đoan có thể phát sinh do tiền tài, đồng thời Ngài đã khuyến cáo những phương thế để sử dụng tiền tài một cách hợp pháp và hữu ích.
1. Chúa không kết án tiền tài
Ngày kia một thanh niên giầu có đến thăm Ngài và thưa với Ngài rằng: “Lạy Thầy, tôi còn phải làm gì nữa, để được sống đời đời”. Chúa trả lời: “Hãy tuân giữ những giới răn Ta”. Do đó để được rỗi linh hồn chỉ cần phải tuân theo điều răn Chúa, không cần phải từ khước mọi của cải mình có.
Nhưng thanh niên đó lại năn nỉ rằng: “giới răn của Chúa tôi đã luôn luôn vâng giữ mọi điều ngay từ hồi thơ ấu, vậy thưa Thầy, tôi còn phải làm gì nữa không?”. Bấy giờ Chúa Giêsu phán rằng: “Nếu con muốn được toàn thiện thì hãy đem bán mọi của cải con có mà cho người nghèo, và con sẽ được của cải trên trời, rồi con hãy đến và theo Ta”. (Matth XIX, 16-21).
Do lời Chúa phán trên, chúng ta có thể suy diễn rằng: Ai muốn toàn thiện hơn thì không những phải tuân giữ mọi điều răn Chúa, nhưng còn phải khước từ mọi của cải. Đây chỉ là một lời khuyên, không phải là một giới răn buộc mọi người phải giữ. Chúa đã muốn cho các môn đệ, khi theo Ngài, phải từ bỏ mọi của cải, gia tài, ruộng vườn, vợ con… Nhưng trên bước đường hành trình truyền giáo, chúng ta đã gặp thấy “có những người nữ giúp đỡ Ngài về của ăn” (Luc VIII, 1-3), Chúa không truyền buộc Tông đồ phải tuyệt đối nghèo khổ.
Lại nữa, Lazarô ở thành Bêtania, tuy là người giầu có, nhưng Chúa vốn gọi người đó là bạn thiết của Ngài (Jean XI, 11).
2. Chúa đã chỉ vạch những mối nguy cơ của tiền tài.
Phúc Âm có thuật lại tích truyện một người trẻ tuổi giầu có kia khi nghe lời sau cùng của Chúa thì “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải lắm”. Và bấy giờ Thầy chí thánh mới phán cùng các môn đồ rằng: “Ta nói thật với chúng con là: Người giàu có rất khó vào Nước thiên đàng” (Matth XIX, 22-24).
Tiền tài làm cho sự vào nước trời khó khăn vì:
a. Ai có nhiều của cải qúa sẽ liều mình lãng quên Thiên Chúa và thiên đàng một cách dễ dàng.
b. Tiền tài đem lại cho con người nhiều phương tiện để thỏa mãn những dục tình nguy hiểm và bất chính.
c. Tiền tài dễ làm cho con người trở nên kiêu căng, hà tiện, không đếm xỉa gì đến những bổn phận do sự giàu có đòi hỏi phải có.
3. Chúa khuyên nên sử dụng tiền tài một cách chính đáng.
Người giầu có- Chúa đã phán- rất khó vào nước thiên đàng.
Khó khăn không có nghĩa là không thể. Vậy thì, người giầu có cũng có thể và phải được cứu rỗi. Hơn nữa, họ còn có thể đạt tới đỉnh trọn lành, nếu họ biết sử dụng tiền tài một cách chính đáng. Trong sổ các thánh, người ta đã đọc được biết bao tên tuổi những vị thánh xưa kia đã là những người giầu có tột bậc.
Nhưng muốn được thánh hóa thì phải biết tiêu dùng của cải một cách lành thánh. Do đó Chúa Kitô đã truyền dạy rằng:
a. Đừng để cho tấm lòng bị vương vấn bởi của cải trần thế.
Nếu không giữ đức thanh bần được một cách thực thụ (effective) thì ít nhất cũng phải duy trì tinh thần nghèo khó trong tâm hồn (affective). Nghèo khó thực thụ thì ít người giữ được, nhưng ai ai cũng có thể nghèo khó trong tinh thần. “Phúc cho những người nghèo khó trong tâm hồn” (Matth, V,3). Chúa đã nói thế, nên ngay cả những người giầu có khi họ không để lòng vấn vương tiền tài, cũng có thể là những người nghèo trong tinh thần.
Nơi khác, Chúa lại phán rằng: “Không thể phụng sự Thiên Chúa và vàng bạc được” (Matth VI, 24). Chúa không cấm ta có của cải, Chúa chỉ nói là không được phụng thờ của cải, nghĩa là không được suy tôn tiền tài lên địa vị một chủ nhân, một thần tượng để hy sinh tất cả cho nó, ngay cả đến lương tâm. Chúng ta có quyền được đắc thủ tiền tài, nhưng chúng ta không được để cho tiền tài chế ngự ta.
b. Trước mặt Thiên Chúa tự xem mình không phải là chủ nhân, nhưng là những người hưởng thụ của cải.
“Chớ thì ngươi có gì mà không phải là đã lĩnh nhận được? (I. Cor IV, 7). Thánh Tông đồ Phaolô hỏi thế. Bởi vì chính Thiên Chúa là chủ thể tuyệt đối của mọi của cải trần gian, Ngài đã ban quyền cho chúng ta được hưởng dùng ít nhiều gia tài của Ngài. Việc hưởng dùng đó, sau này chúng ta sẽ phải trả lẽ một cách rất nghiêm nhặt. “Hãy thanh toán với Ta về việc quản lý của ngươi (thí dụ về người đầy tớ bất trung. (Luc. XVI, 1-8).
c. Phải dùng của dư dật mà làm phúc cho người nghèo.
Đây là một giới răn nghiêm nhặt của Chúa Kitô: “Hãy dùng của dư dật mà giúp đỡ người nghèo khó” (Luc. XI, 41). Nghĩa là sau khi đã chu liệu những điều cần thiết cho đới sống bản thân và gia đình- tùy theo địa vị của mỗi người- rồi thì phải lấy của cải mình mà phân phát cho những người còn thiếu thốn.
Về điểm này Đức Lêô XIII đã giải thích rằng: “Đã hẳn Kitô giáo không buộc phải lấy những của cải thiết cần cho bản thân và cho những người trực thuộc để phân phát cho người khác; cũng không buộc phải đem cho ai những cái cần thiết cho đới sống và địa vị của mỗi người: vì mỗi người được sinh sống xứng đáng với phẩm giá của mình (Lời thánh Thomas). Nhưng một khi đới sống đã được bảo đảm và phẩm giá đã được tương xứng thì mỗi người đều có nhiệm vụ phải dùng những tiền dư dật mà trợ giúp người nghèo. Ngoài trường hợp cần thiết tuyệt đối (trong extrema necessitate) ra thì đây không phải là một bổn phận theo đức công bình, nhưng là một nhiệm vụ theo đức bác ái công giáo”.
4. Chúa đã đề cao lợi ích của việc sử dụng tiền tài.
Không những tiền tài không phải là một điều xấu, nó còn có thể trở thành một phương thế để làm điều thiện, để tác tạo công phúc. Chúa Kitô đã nhiều lần nhắc nhủ đến những lợi ích do việc sử dụng tiền tài một cách thỏa đáng.
a. Sử dụng tiền tài chính đáng sẽ mở cửa thiên đàng cho chúng ta.
Trong ngày chung thẩm, Chúa Kitô sẽ phán với những người được tuyển chọn rằng: “Hỡi các người đã được Cha Ta ban phúc, hãy đến mà nhận lấy nước Thiên đàng đã sắm sẵn cho các người từ khi dựng nên trời đất. Vì Ta đói, các người đã cho Ta ăn, Ta khát, các người đã cho Ta uống”. (Matth XXV, 34-35).
Ơ đây, Chúa ám chỉ những người đã dùng tiền của mình mà trợ giúp những người nghèo khó
b. Sự dùng tiền tài nên sẽ đem lại cho ta sức bang trợ và ơn lành của Chúa
Chúa Kitô đã phán rằng: “Hãy cho, rồi sẽ được người khác cho lại” (Luc. VI, 38). Lời đó có nghĩa là: Ai giúp đỡ tha nhân, sẽ được Thiên Chúa giúp đỡ lại. Không những Chúa trả công những người hảo tâm ở đời sau, mà ngay cả trên đời này nữa. Vì thường thường những người có lòng bác ái bao dung sẽ không sợ bị túng quẫn và cô lập. Chúa Thánh Thần đã có lời rằng: “Ai thương xót người nghèo là như cho Chúa vay mượn” (Prov. XIX, 17). Mà ai cho Chúa vay mượn, sẽ được lợi lãi gấp trăm và không bao giờ phải sợ bị thiệt thòi.
LẬP TRƯỜNG Giáo Hội VỀ VẤN ĐỀ CỦA CẢI.
1. Trung thành với sứ mệnh duy trì sự nghiệp Chúa Cứu thế. Luôn luôn Giáo Hội đã giải thích và áp dụng những lời giáo huấn của Ngài về vấn đề của cải và tiền tài. Mặc dầu chưa bao giờ Giáo Hội lên tiếng truyền buộc hoặc rao giảng một mực độ kinh tế hoàn toàn với phẩm giá nhân vị, tuy trong hoàn cảnh hiện thời chưa thực hiện được. Tuy nhiên, Giáo Hội đã nhiều lần lên án kết tội những chính sách tập trung của cải một cách bất công, tạo nên một tình trạng xã hội qúa chênh lệch, trong đó một tiểu số người giầu hưởng lạc bên cạnh cả một quần chúng đói khổ. Nếu sự cách biệt giữa các giai cấp xã hội chưa thể nhất đán huỷ bỏ được, thì ít ra người ta cũng phải liệu sao đừng để cho sự thiên vị và bất công được hoành hành và giá ngự trên các thành phần xã hội. Đây là một bổn phận mà mọi người phải thi hành.
Không thể kể hết những lời giáo huấn và những hành động của Giáo Hội liên quan đến vấn đề của cải, chúng ta chỉ nhắc lại đây ít nhiều sự kiện và tuyên ngôn điển hình.
2. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các thánh Tông đồ đã lên tiếng cảnh cáo tín hữu về những cử chỉ thiếu bác ái xảy ra trong những buổi tiệc huynh đệ (agapes fraternelles). Thời đó, các tín hữu có thói quen tổ chức những bữa ăn huynh đệ, trong đó mọi người bất phân địa vị và giai cấp, bất luận giầu nghèo, mỗi người đều đem của mình có đến đóng góp vào bữa ăn chung, sau đó, mọi người đều dự tiệc một cách bình đẳng.
Nhưng như thánh Phaolô đã nhận xét, tại Côrintô thay vì để chung và ăn chung các của đã mang đến, các tín hữu lại mỗi người dùng riêng những của mà họ đã mang theo. Do đó thường xảy ra là những người nghèo khó bị đói khát, còn những người giầu có lại được ăn uống quá dư dật: “Người thì chịu đói, kẻ thì say sưa qúa độ”, thánh Tông đồ khiển trách thế và Ngài còn thêm rằng: “Có phải anh em khinh dể Hội thánh Chúa, và muốn làm cho những kẻ không có gì phải hổ thẹn ư?” (I. Cor. XI, 20-22).
3. Tình trạng qúa chênh lệch giữa người có của và người thiếu thốn, giữa người có nhiều tài sản để hoang phí và giữa người không có cả đến những sự thiết cần để đủ sống ngày nay, vốn còn được tái diễn tại khắp nơi trên thế giới. Tình trạng đó phát sinh ra vấn đề xã hội, đòi hỏi những giải quyết công bình và hợp lý giữa người giầu va người nghèo, giữa chủ nhân và công nhân lao động.
Đức Piô XII trong bài diễn văn vô tuyến truyền thanh để kỷ niệm thông điệp “Tân sự” (Rerum Novarum), đã xác định một cách rõ rệt rằng: “Mọi của cải, do Thượng đế thiết lập nên vì lợi ích của con người, đều phải được quy hướng về lợi ích của mọi người một cách đồng đều, phù hợp với những nguyên tắc công bình và bác ái”.
Ngài lại tiếp: “Sức phong phú kinh tế của một dân tộc không nguyên chỉ căn cứ vào sự giầu có của cải, nhưng ở sự phân phối của cải một cách công bình”. Nếu sự phân phối công bình như thế không được thực hiện, hoặc thực hiện một cách bất toàn, thì quốc gia sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu đích thực của một nền kinh tế lành mạnh; bởi vì, mặc dầu là quốc gia có tài nguyên phong phú, kinh tế dồi dào, nhưng nếu người dân không được dự phần, thì họ vẫn phải nghèo khổ mãi. Hãy cố gắng thực hiện sự quân phân của cải một cách đích thực công bình rồi các ngài sẽ thấy cả một dân tộc, mặc dầu tài nguyên không được phong phú, nhưng lại là một dân tộc lành mạnh nhất về kinh tế”.
Không những Đức Piô XII đã nhấn mạnh đến sự phân phối của cải một cách công bình giữa các cá nhân và các tầng lớp xã hội, Ngài còn hô hào sự điều hoà tài nguyên một cách hợp lý giữa các dân tộc nữa. Ngài nói: “Nếu muốn thực hiện một trật tự xã hội căn cứ trên nguyên tắc luân lý bất diệt thì chương trình kinh tế không thể nhường chỗ cho những mưu toan ích lỷ, trong đó một nước độc quyền chiếm cứ mọi quyền lợi kinh tế và những nhiên liệu cần ích cho tất cả, để những nước mà đất đai không có những tài nguyên đó, bị thiếu thốn”.
Người tín hữu phải hết lòng tri ân Chúa Cứu thế, Đấng đã chỉ đàng vạch lối cho nhân loại biết sử dụng của cải và tiền tài một cách chính đáng. Nếu người ta thi hành đúng như lời Ngài khuyên dạy thì người giầu có sẽ được cứu rỗi và người nghèo khổ cũng được an vui.