GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI ĐỜI SỐNG THANH BẦN
“Không bao giờ nhân loại tràn ngập giàu có phong phú, những tiềm lực và sức mạnh kinh tế như hôm nay, thế mà phần lớn nhân loại trên mặt đất này đang còn bị đói kém và thiếu thốn dày vò, vô số người còn chưa biết đọc, chưa biết viết. (Lược đồ XIII, số 4).
“Cách riêng trong những miền kém mở mang về kinh tế điều khẩn trương là mọi tài nguyên phải được khai thác. Thật là một xúc phạm trầm trọng đến lợi ích chung khi muốn giữ trước mặt mình những tài nguyên thấy được sử dụng, hoặc làm cho cộng đồng mình sống phải mất những trợ giúp vật chất hay tinh thần mà cộng đồng cần đến” (Lược đồ XIII, số 65).
QUAN NIỆM TIỀN ĐỀ
Nghèo khổ là tình trạng của những người không có đủ của cải để sinh sống. Nghèo khổ có nhiều thứ loại cần phải được phân biệt.
1. Nghèo khổ có đặc tính tuyệt đối và tương đối.
Nghèo khổ tuyệt đối là thân phận của những người bị thiếu thốn hoàn toàn về mọi phương diện để sinh sống, do đó, họ phải sống nhờ người khác. Tình trạng này có thể gọi là đời sống bần cùng, túng quẫn, hành khất.
Nghèo khổ tương đối là tình cảnh của những người tuy bị thiếu thốn về những của cải dư thừa, nhưng họ lại có những sự vật thiết dụng vừa đủ để sống. Đây là tình trạng thông thường của một người thợ mà tiền lương chỉ vừa khít để nuôi sống gia đình, nếu không xảy ra một tai nạn gì bất ngờ như ốm đau, thất nghiệp. V. v.
2. Sự nghèo khổ tuyệt đối và tương đối
Sự nghèo khổ tuyệt đối và tương đối có thể là ngoài ý muốn của con người, hoặc vì người ta muốn như thế.
Có những người miễn cưỡng phải cam chịu số phận nghèo khổ khi những điều kiện sinh sống bắt buộc như thế vì không thể làm khác được, mặc dầu người ta đã nhẫn nhục an vui với định mệnh.
Có những người đã tự tình sinh sống một cuộc đời nghèo khổ để tu đức lập công. Đây là thân phận của những tu sĩ đã thề hứa giữa đức thanh bần với mục đích để tập luyện các nhân đức và đạt tới đới sống hoàn thiện theo Phúc Âm thư.
Nên biết là đới sống thanh bần tự ý nói trên chỉ là một lời khuyên, chứ không phải là một giới răn.
Đàng khác, chúng ta nên lưu ý là, đối với đạo Công giáo, đời sống thanh bần không phải là một thể trạng toàn thiện, nhưng chỉ là một phương thế để đạt tới sự toàn thiện. Do đó, một người nghèo khổ có thể là một người nhân đức, hay một người tội lỗi tùy theo thể cách mà người đó phản ứng với tình trạng nghèo nàn của họ.
3. Phân biệt nghèo khó
Lại nữa, cần phải phân biệt sự nghèo khổ theo thực tế (pauvreté effective) với sự nghèo khổ theo tâm tình (pauvreté affective).
Sự nghèo khổ theo tâm tình là tâm trạng của những giới không để cho lòng mình vương vấn với những của cải trần gian mà họ đang hưởng thụ.
Theo học thuyết công giáo thì mọi người, bất luận sang hèn, giàu nghèo cùng phải có một tinh thần nghèo khó trong tâm hồn, vì đó là một sự kiện cần thiết cho đới sống trọn hảo; trái lại sự nghèo nàn trong thực tế chỉ là một lời khuyên, vì tình trạng đó chỉ ích lợi chứ không phải là cần thiết cho việc nên thánh.
Sự nghèo khổ tuyệt đối- hay sự bần cùng túng quẫn- thường không được Giáo Hội chấp nhận, vì đó có thể là một căn cớ phát sinh nhiều tội lỗi và tệ đoan. Giáo Hội đôi khi chỉ khuyên răn tín hữu nên duy trì một đời sống thanh bần tương đối để họ lọai trừ những sự tiêu xài hoang phí, một trở lực cho đời sống tu thân. Còn sự bần cùng túng quẫn chỉ có thể là một phương tiện nên thánh khi ai có ơn thiên triệu đặc biệt, hoặc ơn Chúa giúp một cách ngọai thường.
Chúa Thánh Thần đã dạy ta nguyện xin cùng Thiên Chúa rằng: “Xin Chúa đừng cho tôi túng quẫn hay triệu phú, nhưng chỉ xin ban những gì cần thiết để sinh sống” (Prov. XXX, 8).
4. Chúa Kitô giải phóng người nghèo
Chúa Kitô, vì là vị đã giải phóng cho mọi người hèn kém, đã cứu thoát những ai bị áp bức, thì một trật cũng là vị đại ân nhân của những người nghèo khổ. Chính Ngài đã tranh đấu cho dân nghèo, đem lại cho họ một địa vị cao cả. Để nhận thức điều đó, chúng ta hãy đối chiếu những quan niệm về nghèo khổ trong xã hội cổ thời và trong kỷ nguyên Chúa Cứu thế.
THẾ GÍƠI THỜI XƯA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NGHÈO KHỔ
1. Người nghèo bị khinh miệt
Trước khi Chúa Cứu thế giáng trần, những người nghèo khổ thường bị thiên hạ luôn luôn miệt thị. Đối với quan niệm thời xưa thì nghèo túng là một địa vị hèn kém, đáng khinh bỉ và chà đạp.
Đã hẳn, một đôi khi cũng có những triết gia ca tụng sự nghèo khó và thực hành đời sống thanh bần, nhưng đó chỉ là những trường hợp hẵn hữu, nhiều khi họ làm như thế chỉ vì lý do cầu an. Muốn trút bỏ của cải để tránh mọi phiền muộn có thể xảy đến. Vì, nếu giàu có là một địa vị nhiều người thèm muốn thì nó cũng là một nguyên nhân phát sinh nhiều đau khổ, đúng như lời Phúc Âm dạy trong thí dụ về người gieo giống: “hạt gieo vào bụi gai” (Luc. VIII, 14) mà thánh Grêgôriô Cả đã giải thích một cách rất tế nhị.
2. Số phận người nghèo
Không những người nghèo khổ bị khinh miệt, nhưng họ còn bị mọi người ruồng rẫy và lãng quên. Bởi vì, ở thời xưa, lòng trắc ẩn, đức bác ái cứu độ những người bất hạnh và cơ hàn là những danh từ ít được người ta biết đến. Đứng trước những tình cảnh đau thương của nhân loại, những dưỡng đường, những công cuộc cứu trợ, những tổ chức tiếp tế, hầu như không được ai nghĩ đến cả.
Cả một lớp nô lệ đông đảo đã là những bằng chứng cụ thể nói lên cho hậu lai biết những vết tích của một căn bệnh trầm trọng và thường xuyên, bất khả điều trị là “bệnh nghèo đói” (paupérisme).
Căn bệnh đó đã phát sinh do địa vị qúa chênh lệch giữa một thiểu số tư bản và một đại chúng vô sản. Tình trạng bất bình đẳng ở thời xưa đã được thi hào Lucno nhận xét một cách chí lý khi ông viết: “Toàn thể nhân loại đã sống cho một thiểu số”.
CHÚA CỨU THẾ ĐÃ CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ NGHÈO KHỔ.
Sau khi Chúa Cứu thế sanh xuống trần gian, tất cả những giá trị về nhân sinh quan đều được biến đổi và cải tiến. Sự nghèo khổ đã được chuyển hóa lên một địa vị đáng được mọi người tôn kính và cứu trợ.
Ngài đã nâng cao giá trị sự nghèo khổ bằng việc làm và lời giảng khuyên.
1. Bằng việc làm.
Mặc dầu là Vua cả trời đất, nhưng Chúa Cứu thế đã tự hạ giáng trần trong hang lừa máng cỏ, sinh sống như một người thợ nghèo khổ trong tệ xá Nazareth suốt 30 năm trường. Sự nghèo khổ cũng luôn luôn theo sát Ngài trong quãng đời giảng giáo. Ngày kia, một luật sư trông thấy Chúa Kitô làm nhiều phép lạ thì tưởng nghĩ rằng nếu theo Ngài thì chắc chắn sẽ có thể trở nên danh giá và giầu sang, vì thế ông thưa với Chúa rằng: “Thưa Thầy, bất cứ Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy. Nhưng để luật sư đó khỏi ngộ nhận, tức khắc Chúa liền trả lời rằng: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ mà gối đầu”. (Mat VIII, 19-20).
Sự nghèo khổ của Chúa lại tiến tới một mực độ cùng chót trên núi sọ, nơi mà Ngài đã bị lý hình bóc lột hết áo xống để bắt thăm chia nhau (Mat XXVII, 35).
Nếu Chúa Cứu thế đã qúi mến sự nghèo khổ như thế thì người Công giáo nào còn có thể khinh rẻ đời sống bần hàn?
Những người nghèo khó đã trở nên giống Chúa Kitô và đáng được mọi người tôn trọng. Đối với người công giáo thì nghèo khổ là một sự vật thần thánh. Người ta không lấy làm lạ, nếu nhiều vị thánh, như Phanxicô khó khăn, đã tự nhận sự nghèo khó làm bạn chí thân.
2. Bằng lời giảng dạy.
Chúa Kitô, trước hết đã thực hành đới sống khó khăn rồi mới giảng nhân đức thanh bần. Ơ đây Chúa giữ đúng nguyên tắc của Ngài là: “Chúa đã bắt đầu là trước rồi mới giảng sau” (Act. Apost I, 1). Do đó lời nói của Ngài đã thu lượm được uy tín và hiệu lực do đời sống đem lại.
Chúa đã đề cao nhân vị của người nghèo khó, đã truyền buộc phải giúp đỡ họ, đã tự đồng hóa với số phần dân nghèo.
a. Nhân vị của người nghèo khổ
Trong Cựu ước Chúa Kitô đã được tiên báo như một vị giải phóng cho giai cấp dân nghèo: “Ngài sẽ cứu giúp dân nghèo và người cùng khổ (Psalm 71, 12).
Mở đầu cuộc giảng giáo Ngài đã tuyên bố là: “Ngài được sai đến để giảng Phúc Âm cho những người nghèo khổ” (Luc. IV, 18).
Trong bài giảng trên núi về Tám mối phúc thật, Ngài đã bắt đầu phát biểu chương trình tu đức của Ngài bằng câu: “Phúc cho những người nghèo khó trong tinh thần, vì nước trời là của họ” (Matt. V, 3).
Với câu “Nghèo khó trong tinh thần” phải hiểu là những người có tâm hồn nghèo khó như chúng tôi đã trình bày ở trên. Do đó, “nghèo khổ trong tinh thần” không những phải hiểu về những người, vì muốn vâng theo lời khuyên của Chúa, đã tự ý khước từ mọi của cải; lời đó cũng ám chỉ những người nghèo túng thực sự, cam chịu cảnh nghèo nàn vì Chúa. Lời đó cũng nói về tất cả những ai không để lòng vương vấn sự giàu sang, không đi tìm hạnh phúc nơi những của cải phù vân tạm bợ.
Tiếp đến, Chúa Giêsu lại minh xác lập trường của Ngài bằng một thí dụ thời danh một thí dụ kỳ lạ với phần đông nhân loại, “Có người giàu có mặc áo màu hồng và bằng vải gai mịn, hằng ngày ăn uống rất mực sung sướng. Lại có một người nghèo khó tên là Lazarô, mình đầy những ghẻ lở, nằm ngoài cửa người giầu có. Anh ao ước được ăn những đồ ăn ở trên bàn người giầu rớt xuống, mà không ai cho, chỉ có chó đến liếm láp những mụn nhọt trên mình anh. Nhưng khi người nghèo chết, anh được Thiên thần đem đến đặt vào lòng Abraham. Người giầu cũng chết, nhưng bị trầm luân trong hỏa ngục” (Luc XVI, 19-20).
Thí dụ trên đây là một thể cách đề cao giá trị của sự nghèo khó đồng thời lại là một lời kết tội những người giầu có sinh sống một cách bất công bất chính.
b. Việc giúp đỡ người nghèo khổ
Đề cao phẩm giá của người nghèo khổ, Chúa chưa lấy làm đủ, Ngài còn khuyên răn mọi người nên trợ giúp họ nữa.
Với người giầu có, Chúa đã phán truyền một cách minh bạch rằng: “Hãy lấy những của cải dư dật mà làm phúc cho người nghèo khổ” (Luc. XI, 41).
Ngày kia, một thanh niên giầu có đến bàn hỏi với Chúa về những việc phải làm để đạt tới phần rỗi đời đời. Chúa liền khuyên nhủ thành niên đó rằng: “Nếu con muốn được toàn htiện, hãy về và bán mọi của cải con có để làm phúc cho người nghèo, làm như vậy, con sẽ được của cải trên trời” (Matth XĨ, 21).
Lần khác, Chúa Cứu thế đàm thoại với Xa Chê là người tiếp rước Chúa đến trọ nhà. Dân chúng lấy làm bỡ ngỡ và bàn tán với nhau vì Xa Chê là người đứng đầu bọn thâu thuế, là người ăn hối lộ mà Chúa lại trọ tại nhà đó. Nhưng mọi người đều hết lẩm bẩm khi nghe thấy người thu thuế thưa với vị thượng khách rằng: “Lạy Thầy, tôi xin lấy nửa gia tài tôi mà cho người nghèo, và nếu có làm thiệt hại ai, bất cứ là việc gì, tôi sẽ đền gấp bốn” (Luc. XĨ, 1-10). Nói như thế, vì Xa Chê đã thấu hiểu lòng lân tuất của Chúa đối với người nghèo.
c. Chúa Cứu thế đã tự đồng hóa với người nghèo.
Trong ngày phán xét chung thẩm, Chúa Cứu thế sẽ phán với những người được tuyển chọn rằng: “Mỗi lần chúng con làm việc gì cho một trong những người bé nhỏ nhất trong anh em Ta (tức là những người nghèo khổ, hèn kém), là chúng con đã làm cho chính Ta” (Matth XXV, 40). Như thế, phẩm giá của người nghèo đã được Chúa Kitô siêu việt hóa một cách đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã tự ẩn mình trong hình thể của người nghèo khó.
Trong truyện các Thánh còn ghi chép nhiều lần Chúa Giêsu đã hiện thân dưới hình thái của những người nghèo khổ. Đáng ghi nhớ nhất là truyện thánh nữ Elisabesth, phu nhân của Quốc vương xứ Turingia. Lần kia, bà gặp một người ăn mày mắc bệnh hủi. Thương tình bà liền đem người hành khất đó về đền, băng bó vết thương, chu liệu mọi sự cần thiết, và cho ở lại trong đền vua. Thấy thế, quốc vương nổi giận, vào phòng với ý định đuổi người hành khất đó đi. Nhưng lạ thay, vừa khi mở cửa phòng, vua chẳng thấy người hành khất đâu, chỉ thấy sáng rực gương mặt Chúa Kitô. Hiểu biết là phép lạ, vua liền qùi gối cầu nguyện và đến xin lỗi phu nhân.
GIÁO HỘI VỚI NGƯỜI NGHÈO KHỔ.
Thể theo gương Chúa, Giáo Hội đã luôn luôn đề cao và trợ giúp cảnh bần hàn.
1. Giáo Hội đã đề cao giai cấp bần hàn.
Ngày từ thời kỳ sơ khai, giữa một thế giới đầy rẫy những bất công, Giáo Hội đã tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với những người nghèo khổ, lôi kéo họ ra khỏi tình trạng khinh miệt của mọi người. Bằng chứng hiển nhiên nhất là Giáo Hội đã cứu độ được nô lệ, một lớp người đáng thương nhất, vì bị tước đọat ngay cả quyền tự do thông thường nhất của con người.
Phúc Âm còn thuật truyện về một người tân tòng kia tên là Onêsimô, làm nô lệ cho gia đình Filêmon. Để tránh hình phạt của gia chủ, ngày kia Onêsimo trốn sang La mã, tại đó anh đã gặp thánh Phaolô (bấy giờ đang bị cầm tù). Thánh Phaolô đã thuyết phục được Onêsimo tòng giáo và sau khi đã rửa tội cho, Ngài uỷ nhiệm Onêsimo lại cho gia chủ kèm theo một bức thư với những lời lẽ thống thiết. Đại để ngài viết: “Tôi xin lỗi cho Onêsimo là người mà tôi đã sinh ra trong xiềng xích… Hãy nhận lấy người này không như một nô lệ, nhưng là một người anh em chí thân. Hãy tiếp rước người ngày như tiếp rước chính tối; và nếu đối với ông, người này có lỗi phạm điều gì, hoặc có nợ nần gì với ông, tôi sẽ gánh phần đền trả”.
Do vậy, một chủ nhân công giáo phải đối xử với gia nhân của mình không những với địa vị một người, nhưng còn phải với cấp bậc một người anh em, hơn nữa là một người anh em chí thân.
Trong thời kỳ mà chế độ nô lệ còn cực thịnh thì các giáo hữu chủ nhân cũng như gia nhân người giàu cũng như người nghèo đều cùng dự một Bàn thánh, cùng tiếp nhận một Bánh thánh. Đó là tượng trưng của một tình huynh đệ thiêng liêng.
Tại La mã cũng như tại nhiều nơi khác, sau thánh lễ, trong những trường hợp đặc biệt, tín hữu có thói quen tổ chức những bữa tiệc niệm (agape), với mục đích để đề cao tình huynh đệ giữa mọi người, mọi giới. Tại đó, người sang cũng như người hèn, người giầu cũng như người nghèo đều ngồi cùng bàn, ăn cùng món để biểu dương tinh thần bình đẳng và đoàn kết.
Nô lệ còn có quyền nhận lĩnh chức phẩm linh mục. Nhiều người đã được tấn phong chức Giám mục, có người còn lên đến tột bực quyền bính là chức Giáo hoàng.
2. Giáo Hội đã trợ giúp người nghèo khổ.
Noi gương Chúa Cứu thế, luôn luôn Giáo Hội đã săn sóc đặc biệt giai cấp nghèo khổ và cơ hàn. Những người này- như nhà văn Bossuet đã nói- “là con đầu lòng và là con riêng của Giáo Hội”.
a. Những công cuộc trợ giúp đã được bắt đầu từ thời khởi nguyên Giáo Hội.
Song hành với nhiệm vụ thuần tuý công giáo, các thánh Tông đồ đã thực hiện những công cuộc từ thiện và bác ái; trước hết do chính các Ngài hành động, sau đến “phó tế đoàn” (collège des Diacres), là những người được ủy nhiệm để “phụng sự những người nghèo khổ và giúp đỡ những người goá bụa” (Act. Apost VI, 1-4).
Trong những thời kỳ đầu tiên, tại Giáo Hội Giêrusalem: “quảng đại tín hữu đều một lòng một ý với nhau. Và trong các tín đồ, không ai bị thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng có nhà đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền đều đem đến cho các Tông đồ, rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phân phát cho” (Act. Apost IV, 32- 34).
Thánh Phaolô, mặc dầu rất bận bịu với những công cuộc hành trình truyền giáo, nhưng vẫn đi thu thập các của lạc quyên để trợ giúp các Giáo Hội miền Giuđê, đang bị tình cảnh đói kém (Act. Apost XIX, 4-30).
b. Những việc cứu trợ trải qua các thế kỷ.
Từ ngày thành lập tới nay, trải qua các thời đại, Giáo Hội đã thiết lập biết bao là công cuộc bác ái, từ thiện để trợ giúp những người nghèo khổ. Chúng ta không thể kể hết được những hình thức và thứ loại tổ chức của Giáo Hội Công giáo trên toàn thế giới để giúp đỡ những người cùng túng, những người già yếu tàn tật, những kẻ câm điếc mù loà, những tội nhân bị tù đày. Có thể nói: Lịch sử Công giáo là lịch sử của những hành động cứu độ và từ bi.
Trong những công cuộc bác ái của Giáo Hội, đặc biệt phải kể đến Hội Bác ái thánh Vincente đệ Phalô, do ông Oznam thành lập năm 1833, và hiện nay hội đã được bành trướng tại hầu hết các địa phận trên khắp hoàn cầu. Đối với Ozânm, những nghèo khổ là hiện thân của Chúa Cứu thế. Do đó, sau mỗi lần rước lễ, ông đều đến viếng thăm những người nghèo khó và nói rằng: “Tôi đi thăm họ để đáp lễ Chúa Kitô đã đến thăm tôi sáng nay”.