GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI ĐỚI SỐNG LAO ĐỘNG

(3)

“Với việc dâng của lễ lên Thiên Chúa của lao công, chúng ta tư tưởng rằng con người cộng tác vào chính công cuộc cứu chuộc của Chúa Chúa Giêsu Kitô Đấng đã mang lại cho lao công một phẩm giá vô song bằng cách chính mình Ngài đã đem hai bàn tay ra mà làm việc tại thành Nazareth.

Xã hội có bổn phận tùy theo hoàn cảnh mà góp phần vào công việc của mỗi công dân. Sau cùng, cần phải trả công thế nào để cho con người có đủ phương tiện mà sống và nuôi sống những người trong gia đình một cuộc đời xứng đáng trên bình diện vật chất, xã hội, văn hóa và thiêng liêng và vẫn chú trọng đến chức vụ, mức sản xuất của mỗi người, cũng như hoàn cảnh của công việc và lợi ích chung”.

(Lược đồ XIII, số 67).

QUAN NIỆM TIỀN ĐỀ

1. Trong thông điệp “Tân sự”, Đưc Lêô XIII đã định nghĩa cần lao là “những hoạt động của con người nhằm mục đích cung cấp mọi nhu cầu cho đời sống, đặc biệt là để duy trì đời sống”.

Câu định nghĩa trên đã bao hàm tất cả những đặc điểm then chốt của cần lao, nhất là nhân vị tính và cần yếu tính của việc làm.

Trước hết cần lao phải có đặc tính nhân vị, vì cần lao là những hoạt động của con người, một thực thể có lý trí và tự do, siêu việt hơn mọi loài thụ tạo khác. Do đó, giá trị cần lao của con người không thể đem ra so sánh với bất cứ hành vi nào của loài vật, hoặc với những dụng cụ của cơ khí, máy móc.

Tiếp đến, cần lao là một thực trạng cần yếu, vì con người bó buộc phải làm việc mới có thể làm thỏa mãn được những nhu cầu của đời sống “Trọn đời ngươi sẽ phải khó nhọc mới tìm kiếm được của ăn” (Gen. III, 17). Cần lao của con người, đã trở thành một nghĩa vụ cần thiết một phương tiện duy nhất để sinh sống.

2. Nhưng trải qua các thời đại, giá trị và sự cần thiết của cần lao đã bị người đời quên lãng. Chúa Cứu thế đã đến không những để nâng cao giá trị của cần lao, nhưng còn để giải phóng giai cấp lao động nữa. Dó đó, loài người có bổn phận phải tỏ lòng tri ân Chúa Cứu thế, không những vì những phúc siêu nhiên của Ngài, nhưng cả về những cải cách do Ngài đề xướng thuộc đới sống tự nhiên nữa.

Chúng ta hãy kiểm điểm lại những hành động cao cả của Chúa bằng cách đối chiếu tình trạng lao động trong thế giới cổ thời với tình trạng lao động trong kỷ nguyên công giáo mà Chúa Cứu thế đã thực hiện bằng lý thuyết và thực hành. Sự so sánh như thế sẽ đem lại cho ta một ý niệm sâu xa vì sự nghiệp cứu thế của Chúa và về bổn phận tri ân của ta.

QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI XƯA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG

Muốn biết người thời xưa quan niệm thế nào về cần lao, chúng ta hãy xem xét về thái độ của họ đối với những công việc chân tay, tức là những công việc phải dùng sức lực thể xác.

Người ta có thể nói rằng: Trong thời đại Chúa Cứu thế, công việc chân tay đã bị khinh rẻ từ lý thuyết đến thực hành, vì mọi người đều cho rằng công việc chân tay là bất xứng với con người tự do.

1. Trong lý thuyết.

a. Những triết gia lừng danh nhất ở thời thượng cổ như Platon, Aristote, Cicéron, mặc dầu với thiên tài xuất chúng, đã khám phá được nhiều chân lý cao cả, tuy nhiên, họ vốn duy trì nhiều quan niệm miệt thị và khinh rẻ cần lao. Chính Platon đã chủ trương rằng những người làm thợ không được sử dụng bất cứ một quyền chính trị nào. Aristote thì nhìn xem công việc của thợ thuyền “như những việc làm thoái hóa và tương phản với đạo đức”. Cicéron đã viết rằng: “Tất cả mọi nghề nghiệp của giới thủ công đều đáng khinh bỉ, không thể có sự gì là cao thượng tại các nơi làm nghề chân tay”.

b. Người ta đã gặp những tư tưởng miệt thị cần lao nơi những giới triết gia và bác học, nơi những người đại diện va lãnh đạo tôn giáo. Sứ giả Svetonio có kể lại rằng: tại La mã, khi vị đạo trưởng cử hành lễ nghi xá tội thì tất cả những người lao động đều bị đuổi ra khỏi công trường cùng với những người nô lệ.

2. Trong thực hành.

Nếu trong lý thuyết, cần lao đã bị khinh rẻ, thì trong thực hành giới này càng bị bạc đãi hơn nữa.

a. Trong thời đại Chúa Cứu thế, trên toàn lãnh thổ La mã, những công việc thủ công, những nghề nghiệp máy móc, phần nhiều đều do những dân nô lệ đảm nhiệm. Tập tục đó đã thành phổ thông đến độ mọi người đều cho việc chân tay là việc nô lệ.

Giới nô lệ đã không được đối xử như những người thường, nhưng như những con vật, tệ hơn nữa, như những máy móc và hàng hóa. Suốt đời họ bị hiến thân vào những công việc nặng nhọc qúa sức lực của họ. Mặc dầu bị lao lung cực khổ, họ không được lĩnh nhận công xá gì ngoài những bữa ăn đủ để sống, để có thể lại lăn mình vào những việc nặng nhọc liên tiếp khác.

b. Pháp luật đời thượng cổ không công nhận cho giới nô lệ được có quyền lợi gì. Nô lệ phải hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ nhà. Chủ nhân muốn sử dụng nô lệ thế nào cũng được, họ có quyền đem nô lê cho thuê hoặc bán cho người khác, hoặc đem giết đi. Lịch sử còn kể lại nhiều trường hợp trong đó chủ nhân đem nô lệ đi thuê khoán, cùng một thể thức như những loài vật kéo xe, những dụng cụ chuyên chở.

Người ta còn thuật lại truyện một bà qúi phái La mã xưa đã dùng dao nhọn giết chết người nữ tỳ chải tóc cho bà, vì đã không biết sửa sang mái tóc trên chỏm đầu hợp theo ý bà. Người ta cũng còn nhớ nhiều đọan văn đã kể lại trường hợp đau thương của nhiều nô lệ đã bị giết để vất làm mồi cho các murene ăn (một thứ cá thả làm cảnh ở La mã xưa).

c. Nô lệ không có quyền được ký khế ước Hôn phối và thành lập gia đình. Họ chỉ được phép kết hôn tùy theo lợi ích và ý muốn của chủ họ. Những đôi vợ chồng nô lệ không có giá thú đích thực, nhưng chỉ là những sự phối hiệp nhất thời, nay hợp mai tan, tùy theo sự định đọat của người chủ.

Hôn phối của nô lệ chỉ có tính cách tạm thời, vì khi chủ nhân họ chết, hoặc do nhiều hoàn cảnh khác, người chồng và người vợ sẽ phải làm giấy ly hôn để chủ nhân đem gả bán chồng cho người mối lái khác.

Hôn nhân của nô lệ lại thiếu hẳn mọi phẩm giá và bảo đảm. Luật La mã minh nhiên ấn định rằng giữa các nô lệ không thể có tội gian dâm. Mọi người đều có quyền san sẻ tình yêu đối với những đôi phu phụ nô lệ, chồng không có quyền phản đối khi thấy vợ mình bị người khác xúc phạm tới.

Con cái của các gia đình nô lệ cũng phải thuộc quyền sở hữu của các chủ nhà, chớ không thuộc quyền cha mẹ sinh ra chúng. Các chủ nhân xem con cái của nô lệ như những hoa quả của vườn mình, hoặc như một bầy gia súc mà họ được toàn quyền sử dụng. Plautus một thi hào thời xưa, đã viết rằng: “Đã là nô lệ mà lại muốn được quyền làm cha mẹ ư?” Nhà văn hào Ulpianus, cũng đã ghi chép rằng: “Các chủ nhân, để khuyến khích nô lệ làm việc, vốn thừơng nói rằng: chúng bay hãy cần mẫn làm việc, để thưởng công, trong tờ di chúc, ta sẽ truyền cho con ta nhường lại cho mỗi người con cái của chúng bay”.

CHÚA CỨU THẾ VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG.

Việc cải tạo chế độ cần lao là một vấn đề cực kỳ nhiêu khê mà hầu như chỉ có Con Thiên Chúa mới thực hiện nổi, vì cần lao và nô lệ là hai chế độ đính liền với nhau đã gieo rắc biết bao đau khổ cho đại chúng ở thời xưa.

Chúa Cứu thế đã thực hiện một công cuộc cải cách vĩ đại bằng lời giảng dậy và bằng gương sáng của Ngài.

1. Bằng lời giảng dậy.

Cựu ước đã diễn tả cần lao không phải như những việc làm bất xứng, nhưng như là những bổn phận mà mọi người phải thi hành. Sách Sáng thế ký có chép rằng: “Thiên Chúa đã đặt con người trong vườn địa đàng để con người làm việc và canh giữ vừơn đó” (Gen. II, 15).

Học thuyết cổ truyền đó đã được Chúa Kitô đặt lại trên đài danh dự và hoàn thiện hóa nó.

Trước hết, để nâng cao giá trị của giới cần lao, Chúa Cứu thế đã rao giảng về tình phụ hệ Thiên Chúa, về nghĩa huynh đệ đại đồng, về quyền bình đẳng tự nhiên giữa mọi người trong xã hội. Bất luận là qúi phái hay bình dân, chủ nhân hay thợ thuyền, mặc dầu là khác nhau về giai cấp xã hội, nhưng tất cả đều bình đẳng với nhau, vì mọi người đều phải cùng nhau thờ kính: “Cha cả trên trời”. Học thuyết của Chúa lên án kết tội thể chế nô lệ, lên án mọi thứ loại bất bình đẳng về bản thể giữa loài người.

Giải thích về tư tưởng của Thầy chí thánh, thánh Phêrô đã nói lên rằng: “Thiên Chúa không thiên vị bất cứ người nào” (Act. Apost. X, 34) và thánh Phaolô đã viết: “Không có sự phân biệt giữa người nô lệ và người tự do” (Gal III, 28).

2. Bằng gương sáng.

Không những chỉ bằng lời giảng dạy, Chúa Kitô còn dùng những hành vi đặc biệt để đề cao phẩm giá của giới cần lao.

a. Chính Con Thiên Chúa đã trở thành “Con của người thợ mộc” (Mat XIII, 55) không những làm con người thợ mộc mà thôi, Chúa Kitô còn tự tình làm nghề thợ mộc để trợ giúp Cha nuôi của Người là thánh Giuse. Phúc Âm theo thánh Marcô có thuật lại việc khi Chúa Cứu thế giảng lần đầu tiên tại Nazareth quê hương Ngài thì những người đồng hương, vì vốn thường xem thấy Ngài làm việc tại xưởng gỗ nơi gia đình Ngài, “nên khi nghe Ngài nói, mọi người đều bị sửng sốt vì sự khôn ngoan của Ngài và nói rằng: “Bởi đâu mà Ngài được những sự này? Ai đã ban cho Ngài sự khôn ngoan như thế? Ngài không phải là người thợ mộc ư? Và mọi người đều lấy làm ngạc nhiên về Ngài” (Mac. VI, 2-3).

Như trên đã nói, nhiều người đã lấy làm lạ vì sao Chúa Cứu thế đã cam chịu sống 30 năm trong xưởng thợ Nazareth và vì sao Chúa đã không dùng những thời giờ đó vào những công việc cao cả và lợi ích hơn? Hỏi như thế là vì họ đã quên một chân lý trọng đại này: Trong xưởng thợ Nazareth, Chúa Cứu thế đã thực hiện một cuộc cải cách xã hội quan trọng và lợi ích nhất mà thế gian từng được biết, tức là việc cải cách giá trị cần lao. Con Thiên Chúa đã phải dùng cả lời nói lẫn việc làm để phá đổ hệ thống nô lệ, một chế độ đã ăn sâu vào toàn thể cơ cấu xã hội thời thượng cổ.

Một khi Chúa Cứu thế đã sinh sống bằng nghề chàng đục thì người thợ không phải là một vật đáng khinh rẻ nữa, trái lại họ phải trở thành một nhân vật đáng tôn trọng. Vinh dự thay cho giới cần lao vì tự nay về sau họ có thể coi Chúa Cứu thế là một người đồng bạn cùng một giai cấp và nghề nghiệp như họ.

b. Sau thời kỳ hành nghề nơi xưởng thợ Nazareth, Chúa Kitô bắt đầu công việc giảng giáo công khai. Để có người trợ giúp trong công việc truyền đạo, Ngài đã tuyển chọn các nhân viên cộng tác, các môn đồ. Ngài tuyển chọn môn đồ ở giai cấp nào? Hầu hết môn đồ của Ngài là những người xuất thân ở giới cần lao. Bốn tông đồ đầu tiên Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan- đều là những người chài lưới. Cử chỉ đó đã cải chính một cách hùng hồn những quan niệm cho giai cấp cần lao là những thành phần đáng khinh rẻ.

Phúc Âm theo thánh Mathêu đã để lại một đoạn văn đầy ý nghĩa, diễn tả việc Chúa tuyển chọn 4 môn đồ đầu tiên: “Khi Chúa Giêsu đang đi dọc theo mé biển Galilê thì thấy hai anh em kia là Simon, cũng gọi là Phêrô với em là Andrê, đương thả lưới dưới biển, vì hai anh em vốn là người đánh cá. Ngài phán cùng hai người rằng: “Các người hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các người trở nên những tay đánh lưới người”. Hai anh em liền bỏ lưới mà theo Ngài. Từ đó đi một chặng xa nữa, Ngài thấy hai anh em khác là Giacôbê con của Zébédée với em là Gioan, đang cùng cha mình là Zébédée vá lưới trong thuyền. Ngài liền gọi 2 người. Tức thì hai người đó bỏ thuyền và cha mình mà theo Ngài” (Mat IV, 18-22).

GIÁO HỘI VỚI VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG

Học thuyết cũng như hành động của Chúa Cứu thế trải qua các thế kỷ, đã có những ảnh hưởng sâu rộng và phổ biến trong thế giới công giáo. Ơ đây chúng tôi chỉ xin ghi lại ít nhiều công việc mà Giáo Hội đã thực hiện để cải tạo chế độ cần lao và nâng cao giai cấp lao động, những vấn đề liên quan khác, chúng tôi sẽ đề cập đến ở những chương sau.

1. Cần lao là một bổn phận của mọi người: Ngay sau khi mới được thành lập, giữa một xã hội tràn ngập những giai cấp ăn không ngồi rồi, Giáo Hội đã lớn tiếng tuyên ngôn rằng: “Cần lao là một bổn phận của mọi người”. Trong thư gởi cho tín hữu thành Thessalonica, thánh Phalô đã viết những lời minh xác rằng: “Ai không làm việc, người đó đừng có ăn” (II, Thess, III, 10).

Đã hẳn, lời đó không có một ý nghĩa hạn hẹp. Thánh Tông đồ không nguyên chỉ nói về công việc chân tay, nhưng về bất cứ một hoạt động nào thuộc phạm vi luân lý cũng như tinh thần, bất cứ một công việc gì mà- tùy theo trình độ và thể cách- có thể đem lại lợi ích cho con người.

Giới răn buộc phải làm việc đã được chính Thiên Chúa ban truyền cho tổ tông loài người khi Ngài phán rằng: “Mày phải đổ mồ hôi ra mới được của ăn” (Gen III, 19). Lệnh truyền đó Chúa đã ban hành cho Ađam, đại diện cho toàn thể nhân lọai.

2. Cần lao là một vinh dự cho con người: Đàng khác, theo chủ trương của Giáo Hội, thì cần lao không những là một nghĩa vụ, nhưng lại là một vinh dự cho loài người nữa. Luôn luôn Giáo Hội nhắc nhủ đến giá trị của việc lao động chân tay, thể theo gương lành của Chúa Cứu thế và các thánh Tông đồ. Với tôn chỉ tôn trọng cần lao như thế, Giáo Hội đã góp phần một cách hữu hiệu vào việc bãi bỏ chết độ nô lệ, một trong những hoạt động xã hội rực rỡ nhất của đạo Công giáo.

Vị Giám mục thời danh thành Constantinople, thánh Gioan Kim khẩu, giữa một thế kỷ mà tệ đoan nô lệ còn đang hoành hành trong xã hội đã lên tiếng khuyên nhủ giáo dân rằng: “Khi chúng con xem thấy một người làm nghề đầu gỗ, hoặc một người mặt mũi xám đen, làm nghề thợ nguội cùng với kìm búa, thì chúng con không được khinh rẻ họ. Thánh Tông đồ Phêrô sau khi Chúa đã sống lại, vốn làm nghề thả lưới và đánh cá. Thánh Tông đồ Phalô, sau khi đã đi khắp đó đây rao giảng đạo Chúa, vốn còn giữ nghề đóng giầy (dệt thảm?)

Với sức lôi cuốn của biết bao gương lành như thế, nhiều tín hữu thuộc nhiều gia đình qúi phái đã tự mình hiến thân làm thợ. Mọi người còn nhớ truyện thánh Crispinô và thánh Crispinianô, hồi thế kỷ thứ II, sinh trửơng trong một gia đình quyền qúi tại La mã, cả hai lúc thiếu thời đã được nuôi dưỡng trong nhung lụa. Sau khi trở thành người công giáo, cả hai đã từ bỏ La mã để đi truyền giáo tại đất Pháp. Các ngài đặt trú qúan tại Soissans và sinh sống bằng nghề đóng giầy.

3. Cần lao là cách để đền tội và thánh hóa: Hơn nữa, luôn luôn Giáo Hội khuyên răn rằng: Cần lao không những là một phương tiện để sinh sống nhưng còn là một thể cách để đền tội và thánh hóa. Cần lao là một lợi khí để phát triển đời sống thể chất và thiêng liêng.

Thật thế, thánh hóa là gì, nếu không là bắt chứơc đời sống của Chúa Cứu thế. Mà Chúa Cứu thế đã hiện diện giữa loài người dưới hình thức một người thợ.

Cũng vì những lý do cao cả đó mà thánh Bernađô, vị tổ phụ của các dòng Tây phương, đã ấn định chương trình tu đức cho các thầy dòng bằng 2 lời đơn giản và thời danh này là: cầu nguyện và làm việc (ora et labora). Tu sĩ phải tự thánh hóa bằng 2 phương pháp: kinh nguyện và cần lao. Cần lao như thế đã được chuyển biến thành lời kinh nguyện cầu.

Cần lao có thể và trở thành một phương thế để nên thánh, ngay cả cho giới lao động ngoài nội vi của tu viện. Bởi vì, bất luận một công việc gì, nếu được thể hiện vì Chúa và do Chúa- nghĩa là bằng ân sủng và lòng mến Chúa- thì cũng có thể là một hình thức Phụng vụ với giá trị lời cầu nguyện. Như thế, một giọt mồ hôi đổ ra vì lao động sẽ có tác dụng vừa gia tăng sức sản xuất vật chất, vừa gia tăng hồng phúc trên trời. Xưởng thợ, do đó, có thể chuyển biến thành dòng tu.

4. Phản đối những chính sách bất công của các chế độ tư bản: Trong các thế kỷ mới đây, các Đức giáo hoàng luôn luôn lên tiếng để phản đối những chính sách bất công của các chế độ tư bản và độc tài, đã lợi dụng cần lao như một món hàng hóa để trục lợi, mà không đếm xỉa gì đến phẩm giá của giới thợ thuyền. Trong thông điệp “Tân sự” Đức Lêô XIII đã viết rằng: “Đây là bổn phận của giới tư bản và giới chủ nhân: Đừng coi người thợ như những nô lệ, hãy tôn trọng giá trị nhân vị nơi con người họ, một phẩm giá đã được siêu việt hóa do đặc tính công giáo. Với con mắt của lý trí và đức tin thì cần lao không phải là một cái gì hạ thấp giá trị con người, nhưng trái lại là một lợi khí để nâng cao địa vị con người lên, vì đã trù liệu cho con người có phương tiện để mưu đồ sự sống một cách chân chính. Cần lao chỉ trở nên bất xứng với con người khi người ta lợi dụng nó như một phương thế để trục lợi, khi người ta yêu sách nó quá mức độ mà sức lực và khả năng cho phép đòi hỏi. Trong thông điệp “Tứ thập niên” (Quadrgesimo Anno), Đức Piô XI đã than phiền về thái độ của những chủ nhân khi họ đối xử với những người thợ “như những cái máy, không đếm xỉa gì tới nhân vị của họ, không tưởng nghĩ gì tới những lợi ích siêu việt của họ”.

Để bài trừ những tệ đoan hà khắc của chế độ tư bản qúa khích, các Đức giáo hoàng lại lên tiếng đòi hỏi cho giới thợ thuyền những quyền lợi về thể chế lao động. Đức Lêô XIII đã nói rằng: “duy trì đời sống là một bổn phận mà không một ai có quyền được khiếm khuyết mà không bị trách cứ. Do đó, mọi người phải có quyền được sử dụng những phương thế để sinh sống”. (thông điệp Tân sự ) và Đức Piô XII, trong bài diễn văn vô tuyến truyền thanh đọc trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày ban hành thông điệp Tân sự lại đã nhấn mạnh rằng: “Nếu Tạo Hóa đã truyền buộc cho mỗi người phải làm việc để sinh sống thì mỗi cá nhân phải được quyền sử dụng sức cần lao của mình như những phương thế để bảo đảm đời sống cho mình và cho con cái”.

Nói tóm lại, nếu đời sống phải có giá trị như một thực thể thần thánh thì cần lao cũng phải có một đặc tính siêu việt, vì nhờ có cần lao mà con người mới có thể phát huy và bảo tồn đời sống của mình.

Do những lý lẽ vừa trình bày trên đây, chúng ta có thể rút ra mấy kết luận thực hành: Chúa Cứu thế cũng như Giáo Hội của Ngài đã có công rất lớn trong việc cải tiến chế độ cần lao và giải phóng giai cấp lao động. Chính nhờ có Chúa Kitô mà giới lao động đã có đủ mọi khả năng và phương thế để đạt tới đời sống tốt đẹp trên trần gian và đời sống vĩnh cửu ở vị lai.

Để bảo tồn công ơn cứu chuộc, một đàng giới lao động phải tỏ lòng tri ân với Chúa Kitô và trung thành với Giáo Hội, đàng khác họ phải cố gắng tham dự vào việc cải tạo xã hội và phát triển đời sống cần lao thể theo tinh thần của Chúa Kitô và lời giáo huấn của Giáo Hội.