VỊ MỤC TỬ VIẾT GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO
Đức Hồng Y kính mến,
Từ năm 2003, mỗi lần tháng 09 trở về, để tưởng nhớ đến Cha, con tìm một đề tài để viết về Cha, vị Mục Tử Việt-Nam đã phục vụ tại Giáo triều. Năm nay, con xin kể lại việc Cha thực hiện ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’.
I. THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG CHỌN NGƯỜI.
Ngày 13.04.1967, Cha Phanxicô Xaviê NGUYỄN VĂN THUẬN đã được Đức Giáo Hoàng Phalô VI bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Nha Trang, thay thế Đức Cha Paul Raymond Piquet, MEP. Ngày 24.06.1967, nhân lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Đức Cha do Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Cha đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II. Ngày 10.07.1967, Cha đã nhận nhiệm vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang.
Sự nhậm chức Giám mục của Cha tuy thuần túy là một sự kiện thuộc Giáo Hội Công giáo, nhưng đã gây một sự chú ý đặc biệt trong giới chính trị Việt-Nam. Thật vậy, lúc đó, gần bốn năm sau cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 và Tổng Thống Ngô đình Diệm bị thãm sát, Việt-Nam đã rơi vào khủng hoảng lãnh đạo… Quân Đội Cộng Hòa, anh dũng trong việc bảo vệ Tổ Quốc, đã bị cưỡng bách tham gia các cuộc binh biến tương tàn giữa các tướng tá. Thêm vào đó, sự hiện diện của Quân đội Hoa kỳ và Đồng minh, dù mang danh là bảo vệ Tự do cho Việt-Nam, nhưng cũng đã gây ra vô số tệ nạn xã hội và làm tổn thương Chính Nghĩa Dân Tộc.
Để tuyên bố năm 1969 là Năm Đức Tin của Giáo phận, Cha đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘Vững mạnh trong Đức Tin? Tiến lên trong An Bình’, đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo. Cha viết:
« … Tỉnh thức trong bổn phận công dân, vì lúc này hơn bao giờ cả, người Công giáo phải theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II, phải bỏ quan niệm chia đôi đời sống xã hội mà Công Đồng cho là sự sai lầm tai hại nhất của thời đại ta.
Tôi đã kêu gọi anh em cầu nguyện, chính vì thiếu cầu nguyện mà Giáo Sĩ, Tu Sĩ, Giáo Dân ngày nay gặp bao nhiêu khủng hoảng, bao nhiêu khó khăn. Thiếu cầu nguyện ta không biết chính bản thân ta nữa, ta sống ta phản ứng theo tinh thần thế tục… »
Cha nhắc lại lời dạy của Đức Thánh Cha Phaolô VI: « Đức Tin là vấn đề tiên quyết, vấn đề tối hệ, và chúng ta, các Giám mục, phải nhìn vấn đề này với tất cả mối quan hệ khẩn cấp của nó ». Tiếp theo, Cha nhận định:
« … Chưa bao giờ Đức Tin phải nguy hiểm như ngày nay. Hiểm nguy bên ngoài do vật chất, vô thần. Hiểm nguy bên trong do sự bất tuân phục Hội Thánh gây khủng hoảng trong nội bộ dân Chúa.
Để anh chị em vững mạnh trong Đức Tin, đề phòng hai hiểm họa trên, tôi trình bày cho anh chị em hai điểm sau đây: Tin tưởng ở phẩm vị con người và Tin tưởng ở Hội Thánh. »
Trong phần “Tiến Lên Trong An Bình”, Cha xác định: « Người Công giáo yêu chuộng Hòa bình, nhưng người Công giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công giáo rất thận trọng. Hòa bình theo quan niệm Công giáo:
Nhân ngày Quốc tế Hòa bình 01.01.1970, Cha đã công bố Thư luân lưu ‘Công Lý và Hòa Bình’ với lời mở đầu:
« Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà anh chị em đều cảm thấy cao đẹp mọi dân tộc đều khao khát. Hai danh từ mà mấy tháng nay đã khiến cho nhiều người bỡ ngỡ, vì nó đưa ra một đường lối mới, nó trình bày một chủ trương, một cơ cấu mà anh chị em chưa quen thuộc.
Để đáp lại thiện chí của anh chị em mong muốn hiểu biết rõ ràng hầu cùng ưu tư, cùng khắc khoải, cùng cầu nguyện và hành động với Hội Thánh, tôi xin nhắc lại đây: con đường tiến của Hội Thánh trong lịch sử, nguyện vọng của Cộng Đồng Vatican II, sự thành hình, mục đích và hoạt động của Công lý và Hòa bình. »
Thưa Cha, đây có phải là sự quan phòng của Thiên Chúa để chuẩn bị cho Cha trong chức vụ Phó Chủ tịch (24.11.1994) rồi Chủ tịch (24.06.1998) Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình ?
II. CHỌN CHÚA, CHỨ KHÔNG PHẢI NHỮNG VIỆC CỦA CHÚA
Ngày 23.04.1975, Cha được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sàigòn với quyền kế vị.
Cha quyết định đi vào Sàigòn, noi gương Đức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Cha đã biết những gì mình sẽ phải gặp tại đó như Cha viết trong ‘NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ’ :
« Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Đức Phaolô VI bồ nhiệm…Đêm ấy 07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha.
Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… »
Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản cùng các người Công giáo yêu nước. Đối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Cha đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha. Ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản bắt giam Cha. Cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23 tháng 11 năm 1988 ngài được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm ở tù không bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Đức Tin, Mục vụ, Tu đức.
Nhân dịp giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Rôma Năm Thánh 2000, trong Bài Suy Niệm thứ 5, dưới tiểu đề ‘Nền tảng đời sống Kitô‘, Cha đã nói :
« Trong 9 năm biệt giam cơ cực, có lúc tôi bị giam trong một xà lim không có cửa sổ. Có khi đèn điện bật sáng từ ngày này qua ngày nọ. Có lúc lại ở trong bóng tối từ tuần này qua tuần khác. Tôi cảm thấy bị ngộp vì nóng bức và hơi ẩm. Tôi sắp bị điên lên. Lúc bấy giờ tôi là một giám mục trẻ, với 8 năm kinh nghiệm mục vụ. Tôi không thể ngủ nổi. Tôi bị dằn vặt bởi ý nghĩ phải bỏ giáo phận, phải bỏ dở những công việc của Chúa. Tôi cảm thấy một sự phẩn uất nổi lên trong tôi.
Một đêm kia, từ trong thâm tâm có một tiếng nói với tôi : ‘Tại sao con day dứt như thế ? Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và các công việc của Chúa. Tất cả những gì ngươi đã làm và muốn tiếp tục làm, như các cuộc viếng thăm mục vụ, đào tạo chủng sinh, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giới trẻ, xây trường học, các cư xá sinh viên, cứ điểm truyền giáo… đều là việc rất tốt và đúng là công việc của Thiên Chúa chứ không phải là Thiên Chúa Nếu Chúa muốn con rời bỏ tất cả những việc đó. Hãy bỏ ngay, và hãy tín thác nơi Ngài Thiên Chúa sẽ giao việc của con cho người khác có khả năng hơn con. Con đã chọn Chúa, chứ không phải công việc của Chúa !‘
Ánh sáng ấy đã đem lại cho tôi niềm an bình mới làm thay đổi hoàn toàn cách suy tư của tôi và đã giúp tôi vượt thắng những khoảnh khắc hầu như không thể chịu nổi về phương diện thể lý. Từ đó, một sự an lành tràn ngập tâm hồn tôi và lưu lại trong tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi cảm thấy sự yếu đuối của con người mình, nhưng tôi luôn nhắc lại điều đã quyết định khi phải đối diện với nghịch cảnh. Nhờ thế, tôi không bao giờ mất sự bình an.
Chọn Chúa, chứ không phải chọn những công việc của Chúa. Đó chính là nền tảng đời sống Kitô trong mọi thời đại. Và đồng thời đó cũng là câu trả lời đích thực cho thế giới ngày nay. Và đó cũng là con đường để thực hiện những dự định của Chúa Cha đối với chúng ta, đối với Giáo Hội và nhân loại ngày nay.»
Năm 1989, Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Cha trở lại Quê Hương. Ngày 09.04.1994, Đức Thánh Cha Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24.06.1998, Cha được bổ nhiệm là chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
III. SỰ HÌNH THÀNH ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’
Đáp ứng nguyện vọng của các Đức Giám mục tham dự Thượng hội đồng Giám mục Mỹ châu năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã yêu cầu Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình thực hiện một ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’.
Khi đó, Cha đang là Phó Chủ tịch Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình và, từ ngày 24.06.1998, Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm Cha giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng này. Như vậy, vị Mục Tử Việt-Nam đã chịu nhiều bất công (13 năm tù không bản án, công dân mang hộ chiếu Việt-Nam bị cấm trở về Quê hương) nay giữ nhiệm vụ Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ Công Lý và Hoà Bình. Với trách vụ đó, tại Vatican City, ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, Cha đã ký ban hành ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’. Trong bản Sưu Tập nầy, Cha đã thu nhặt từ các văn kiện đang có trong kho tàng Giáo huấn về xã hội và viết thành 11 chương về các đề tài: Bản chất Học thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Vai trò Nhà Nước, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết. Văn kiện này được dùng làm căn bản cho việc hoàn thành ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’.
Con xin phép được ghi lại vài đoạn trong bản Sưu Tập mà Cha đã ký ban hành ngày 01.05.2000 :
Ghi chú. Các số ghi dầu mỗi đoạn là số ghi trong ‘Sưu Tập’
A. Bản chất Học thuyết Xã hội của Hội Thánh Công Giáo
1. Là người Mẹ và là nhà giáo dục tất cả các dân tộc, Giáo Hội phổ quát được Chúa Giêsu Kitô thiết lập để tất cả mọi người, qua các thời đại, gặp được trong lòng và trong tình yêu của Giáo Hội, sự viên mãn của một đời sống cao hơn và sự bảo đảm cho phần rỗi mình. Đấng Sáng Tạo thánh đã trao cho Giáo Hội này, "cột trụ và nền tảng chân lý" (x. 1 Tm 3, 15) một nhiệm vụ kép: sinh ra con cái, giáo dục và hướng dẫn chúng, bằng một sự quan phòng mẫu tử chăm lo sự sống của từng cá nhân và của các dân tộc, mà Giáo Hội đã luôn luôn tôn trọng và bảo vệ kỹ lưởng phẩm giá. (Mater et Magistra, số 1)
2. Chắc chắn, một vấn đề nghiêm trọng như thế còn đòi hỏi những tác nhân khác góp phần hoạt động và cố gắng của mình. Chúng tôi muốn nói tới những vị Nguyên thủ Quốc gia, những ông chủ và những người giàu có, chính những thợ thuyền nữa, mà vận mạng của họ có liên quan ở đây. Nhưng điều Chúng tôi khẳng định không nghi ngại, đó là sự vô ích trong hành động của họ bên ngoài hành động của Giáo Hội. Thật vậy, chính Giáo Hội múc lấy trong Tin Mừng những học thuyết có khả năng, hoăỉc chấm dứt xung đột, hoặc ít ra thoa dịu nó bằng cách cất đi tất cả những gì ác liệt và chua cay; Giáo Hội không bằng lòng với việc soi sáng lòng trí bằng những huấn giáo của mình, nhưng còn sau đó điều chỉnh sự sống và những phong tục của mỗi người; Giáo Hội, nhờ một số đông các cơ chế hữu ích phi thường, có ý cải thiện số phận giai cấp nghèo; Giáo Hội muốn và ao ước rằng tất cả các giai cấp góp chung những ánh sáng và những sức lực của mình, ngõ hầu mang đến cho vấn đề thợ thuyền một giải pháp tốt nhất; sau hết Giáo Hội cho rằng những luật pháp và công quyền phải, với chừng mực và khôn ngoan là điều chắc, góp phần hợp tác của mình cho giải pháp này. (Rerum Novarum, số 16)
3. Quả vậy, Kitô giáo, liên kết đất với trời, vì nhìn con người trong thực tại cụ thể của nó, tinh thần và vật chất, lý trí và ý chí, và kêu mời con người nâng cao tư tưởng mình từ những điều kiện hay thay đổi của cuộc sống địa cầu lên tới những đỉnh sự sống đời đời, trong một sự viên mãn hạnh phúc và bình an vô tận. (Mater et Magistra, số 2)
5. Như vậy, dưới ánh sáng học thuyết Công đồng Vatican II, Giáo Hội xuất hiện trước mắt chúng ta như có trách nhiệm về phương diện xã hội đối với chân lý thần linh. Chúng ta phải cảm động sâu xa khi nghe chính Chúa Giêsu công bố: "Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14, 24)… Do đó điều cần là Giáo Hội, khi tuyên xưng và dạy đức tin, phải bám chắc vào chân lý thần linh (Dei Verbum, nn. 5, 10, 21) và sự kiện này phải được diễn tả bằng một thái độ sống "phục tùng phù hợp với lý trí" (x. Dei Filius, chap. 3) (Redemptoris hominis. n. 19)
B. Sứ vụ của Giáo Hội
7. Phát sinh từ tình yêu của Chúa Cha muôn đời, do Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ thiết lập trong thời gian, được qui tụ trong Chúa Thánh Thần (x. Ep 1, 3; 5, 6-13-14, 23), Giáo Hội theo đuổi một mục đích cứu rỗi và cánh chung. Mục đích này chỉ có thể thành tựu trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến. Nhưng, ngay bây giờ Giáo Hội đã hiện diện trên mặt đất này rồi, được qui tụ gồm những con người, là phần tử của xã hội trầụn gian; họ được kêu gọi để hợp thành gia đình các con cái Thiên Chúa ngay trong lịch sử nhân loại, ngõ hầu tăng trưởng luôn mãi cho tới khi Chúa đến. Hiệp nhất nhằm đạt những của cải thiêng liêng, trở nên giàu có vì những của cải ấy, gia đình này như một xã hội được thiết lập qui củ trên trần gian, do Chúa Kitô, được trang bị các phương thế thích hợp để kếùt hiệp thành một xã hội hữu hình" (GS. 40). Như thế, là "một đoàn thể hữu hình và là cộng đoàn thiêng liêng", Giáo Hội đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng nhau chia sẻ một số phận trần thế với thế giới; Giáo Hội như men và hồn của xã hội loài người, sẽ được đổi mới trong Chúa Kitô và biến thành gia đình của Thiên Chúa. (Gaudium et Spes. số 40)
8. Việc dạy và phổ biến Học thuyết xã hội là thành phần của sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Và, vì đây là một học thuyết có mục đích hướng dẫn cách sống con người, nên nó đưa tới hệ quả là mỗi người tùy theo vai trò, ơn gọi và địa vị mình, mà "cam kết cổ võ công lý".
Việc hoàn thành thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng trong lãnh vực xã hội, thừa tác vụ này là thành phần của nhiệm vụ ngôn sứ của Giáo Hội, cũng gồm sự tố giác những sự dữ và những bất công. Nhưng nên nhấn mạnh rằng việc rao giảng luôn quan trọng hơn việc tố giác, và việc tố giác không thể bỏ qua việc rao giảng, vì sự rao giảng là nền tảng thật sự và là sức lực của động cơ cao nhất. (Sollicitudo Rei Socialis, số 41)
C. Phẩm Giá của Con Người
39. Thật vậy, việc dạy và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội, tuỳ thưộc sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, đó là một phần chính yếu của sứ vụ Kitô giáo, bởi vì học thuyết này trình bày những hậu quả trực tiếp của sứ điệp ấy trong đời sống xã hội và đặt việc lao động hằng ngày và sự tranh đấu cho công bình vào trong khuôn khổ của sự làm chứng cho Chúa Kitô Cứu Thế. Học thuyết đó cũng là nguồn mạch sự hiệp nhất và hoà bình trước những xung đột phát xuất chắc chắn trong lãnh vực kinh tế và xã hội. Như vậy, có thể sống những hoàn cảnh mới mà không làm giảm giá trị siêu việt của con người, không ở trong chính con người, cũng không ở nơi kẻ thù, và có thể tìm ra con đường cho những giải pháp đúng. (Centesimus Annus, số 5)
42. Nếu ta nhìn về tận nguồn gốc và vận mệnh con người, mới thấy được nét cao cả của phẩm giá con người: được sáng tạo theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và được cứu chuộc bằng Máu châu báu của Đức Kitô, con người được kêu gọi làm "con trong Người Con", và là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và được dành cho sự sống đời đời trong sự kết hiệp hồng phúc với Thiên Chúa. Do đó, mọi xúc phạm đến phẩm giá của mỗi ngôi vị con người đều kêu gào được Thiên Chúa báo oán, và là sự xúc phạm đến Đấng sáng tạo con người. (Christifideles Laici, số 37)
D. Chỗ Đứng Trung Tâm của Nhân Vị.
119. Ngay trong đời sống kinh tế và xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội. (Gaudium et Spes số 63)
120. Con người, đúng theo sự cởi mở từ bên trong trí tuệ và cũng theo biết bao nhiêu nhu cầu khác biệt của thân xác và cuộc sống tại thế, vẫn viết nên lịch sử riêng tư kia qua rất nhiều liên hệ, tiếp xúc, hoàn cảnh, cơ cấu xã hội kết mình với những người khác; và con người làm điều ấy từ giây phút đầu tiên hiện hữu trên trái đất, từ giây phút thành thai và sinh ra. Con người, trong chân lý đầy đủ của cuộc sống mình, của bản thể riêng mình, và đồng thời là của bản thể cộng đồng và xã hội của mình - trong phạm vi gia đình, bên trong những xã hội và những cảnh ngộ khác biệt, trong khuôn khổ quốc gia hay dân tộc của mình, (và có lẽ còn hơn nữa là trong khuôn khổ bộ lạc hay sắc tộc của mình), ngay cả trong khuôn khổ toàn thể nhân loại- con người đó là con đường trước tiên mà Giáo Hội phải đi qua khi thực hiện sứ mệnh của mình, con người đó là con đường trước tiên và cơ bản của Giáo Hội, con đường đã do chính Đức Kitô vạch ra, con đường đi ngang qua, một cách bất biến, mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. (Redemptor Hominis, các số 14 -43)
121. Nhân vị là nền tảng và là cùng đích của trật tự xã hội, bởi vì nhân vị là chủ thể những quyền bất khả nhượng nó không nhận từ bên ngoài, nhưng những quyền đó phát xuất từ bản tính của nó: không có gì cũng không có ai có thể phá huỷ những quyền đó, không một cưỡng bức nào bên ngoài có thể tiêu diệt chúng, bởi vì chúng đâm rễ sâu trong phần nhân bản nhất của nhân vị. Tương tự như thế, nhân vị không hạn định trong những yếu tố xã hội, văn hoá, và lịch sử của nó, bởi vì đặc tính của con người có một linh hồn thiêng liêng, là hướng về một cùng đích vượt xa những hoàn cảnh hay thay đổi của đời sống mình. Không một quyền lực nhân bản nào có thể chống lại sự phát triển của con người xét như là nhân vị. (Sứ điệp ngày thế giới hoà bình, 1988, số 1)
E. Gia Đình
90. Theo ý định của Thiên Chúa, phái tính hướng về tình yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai tín hữu, dây liên kết hôn nhân được thánh hoá bằng bí tích.
"Nhờ khả năng tình dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi dành riêng cho vợ chồng. Tình dục không chỉ là hành vi sinh lý, nhưng liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực sự xứng đáng với con người, khi nó là thành phần không thể thiếu của tình yêu giữa người nam và người nữ đã cam kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời" (Familiaris Consortio, số 11)
Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và chính đáng. Được thi hành cách thật sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn (GS, số 49). Khả năng sinh dục là nguồn vui và khoái lạc: “Chính Đấng Sáng Tạo…. đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thoả mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy vợ chồng chẳng làm điều gì xấu xa khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì Đấng Sáng Tạo đã ban cho., Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ" (Piô XII, diễn văn 29 Oct 1951).
Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai ý nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không làm biến chất đời sống tinh thần của vợ chồng cũng như phương hại đến lọi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình. Như thế tình yêu vợ chồng đòi hỏi người nam và người nữ phải chung thuỷ vừa phải sẵn sàng đón nhận con cái. (CEC các số 2360-2363)
F. Một Xã Hội Xây Dựng Trên Chân Lý
122. Đó là lý do tại sao một xã hội chỉ được chỉnh đốn đúng mức, mang phúc lợi, biết tôn trọng nhân vị, nếu nó được xây dựng trên chân lý, theo lời cảnh cáo của thánh Phaolô: "Anh em hãy cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau" (Ep 4, 25). Điều đó giả thiết rằng người ta thành thật nhìn nhận các quyền và bổn phận của nhau. (Pacem in Terris, số 35)
123. Chỉ một mình Thiên Chúa, Sự Thiện tối thượng, mới là nền tảng bất khả chuyển lay và là điều kiện bất khả thay thế của đời sống luân lý, tức của các giới răn và đặc biệt của các giới răn tiêu cực vốn luôn luôn và trong mọi trường hợp ngăn cấm những hành vi bất khả dung hợp với phẩm giá của mỗi một con người. Như thế Sự Thiện tối thượng và điều thiện luân lý giao nhau trong chân lý, chân lý của Thiên Chúa Tạo Hoá và Cứu Chuộc, chân lý của con người được Chúa tạo dựng và được Thiên Chúa cứu chuộc. Chỉ trên chân lý ấy mới có thể xây dựng một xã hội đổi mới và mới giải quyết được những vấn đề phức tạp và gay cấn đang làm cho xã hội lung lay mà vấn đề số một là làm sao thắng vượt các thứ hình thức chuyên chế chủ nghĩa dị biệt để mở lối cho tự do đích thực của con người. "Chủ nghĩa chuyên chế phát sinh từ hành động phủ nhận chân lý hiểu theo nghĩa khách quan: nếu không có chân lý siêu việt mà nhờ tuân phục nó con người có thể đạt tới căn tính tròn đầy của mình, thì trong những tình cảnh này không tài nào có được một nguyên lý vững chắc để bảo đảm cho những mối quan hệ công bằng giữa con người với nhau. Những lợi ích của họ xét theo giai cấp, theo nhóm hoặc theo quốc gia không thể nào không đưa họ đến chỗ đối nghịch với nhau (CA, n. 44).(Veritatis Splendor, số 99)
124. Những tương quan giữa các cộng đồng chính trị phải theo chân lý. Chân lý đòi hỏi trước hết là người ta phải loại trừ tất cả dấu vết kỳ thị chủng tộc trong các tương quan này; và sau đó người ta phải thi hành nguyên tắc là tất cả mọi cộng đồng chính trị đều bình đẳng trong phẩm giá nguyên thuỷ. Mỗi một cộng đồng có quyền sống, quyền phát triển, quyền chiếm hữu những phương tiện cần thiết để thực hiện điều đó, quyền lãnh trách nhiệm ưu tiên để vận dụng chúng; và mỗi cộng đồng có thể xin cách hợp lý được hưởng tiếng tốt và nhận lấy những danh dự xứng đáng cho mình. (Pacem in Terris, số 86)
G. Quyền Phần Đời
178. “Xã hội loài người sẽ không có trật tự và phồn vinh nếu thiếu những người cầm quyền hợp pháp để bảo tồn các định chế và phục vụ công ích một cách đầy đủ" (PT, n. 46). “Quyền bính" là đặc tính của những con người hay những định chế, nhờ đó, họ ban hành lề luật và mệnh lệnh cho con người, và buộc phải tuân phục.
Mọi cộng đoàn nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị nó. Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính con người. Quyền bính cần thiết để tạo ra sự thống nhất cho cộng đoàn. Vai trò của nó là bảo đảm tối đa cho công ích xã hội. Quyền bính theo trật tự luân lý đòi hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa:" Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. như vậy, ai chống đối quyền bính là chống đối lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt" (Rm 13, 1-2; x. 1 Pr 2, 13-17).
Bổn phận vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; đối với những người đang thi hành công vụ, phải tôn trọng và tuỳ công trạng của họ mà tỏ lòng biết ơn và quí mến. Hội Thánh còn giữ được bản kinh của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Roma cầu cho chính quyền (x. 1 Tm 2, 1-2): "Lạy Chúa, xin ban cho họ sức khoẻ, bình an, hoà thuận và ổn định, để họ thực thi đúng đắn quyền hành Chúa đã trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ Tể, là Vua Trời vĩnh cửu, chính Chúa ban cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền lực trên mọi vật trần thế. Xin Chúa hướng dẫn những dự định của họ theo điều thiện hảo, theo những gì hợp ý Ngài, để khi thi hành nhiệm vụ mà ngài trao cho, với lòng đạo đức, trong an bình và quảng đại, họ nhận được ơn Ngài phù hộ" (Saint Clément de Rome, Ad Cor., 61, 1-2). (CEC các số 1897 -1900)
179. Cũng thế, việc hành xử quyền bính chính trị trong chính cộng đoàn hoặc trong các cơ quan đại diện cho quốc gia luôn luôn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý để đem lại kết quả và mưu cầu công ích - công ích ở đây phải hiểu cách năng động - tuỳ theo trật tự pháp lý đã hoặc sẽ được thiết lập cách hợp pháp. Trong trường hợp đó, mọi công dân buộc phải theo lương tâm mà tuân phục. Và do đó, những người lãnh đạo đương nhiên có trách nhiệm, có thế giá và có uy quyền. (Gaudium et Spes, số 74)
H. Giáo Hội và Nhà Nước
191. Nhiệm vụ thiết yếu của quyền bính dân sự là bảo vệ và phát huy những quyền lợi bất khả xâm phạm của con người. Do đó, quyền bính dân sự phải bảo vệ cách hữu hiệu quyền tự do tôn giáo của mọi công dân bằng những đạo luật chính đáng và những phương tiện thích hợp khác, phải tạo nên những điều kiện thuận lợi giúp phát triển đời sống tôn giáo, nhờ đó các công dân có thể thực sự hưởng dụng những quyền lợi và chu toàn những nhiệm vụ đối với tôn giáo, đồng thời xã hội sẽ được hưởng nhờ những lợi ích của công lý và hoà bình, phát sinh do lòng trung thành của con người đối với Thiên Chúa và thánh ý Ngài. (Dignitatis Humanae, số 6)
I. Công Bằng Xã Hội
292. Thật vậy, ngoài phép công bằng giao hoán, cũng có phép công bằng xã hội, đặt ra những bổn phận mà chủ nhân và công nhân không có quyền tránh né. Chính nhiệm vụ của phép công bằng xã hội đặt ra cho các thành phần cộng đồng phải làm tất cả những gì cần thiết cho công ích. (Divini Redemptoris, số 51)
293. Để thoả mãn những đòi hỏi của công bằng và lẽ phải mà vẫn tôn trọng quyền lợi cá nhân và đặc tính của mỗi dân tộc, cần phải hăng hái nỗ lực để sớm chấm dứt những chênh lệch kinh tế lớn lao kèm theo sự kỳ thị cá nhân và xã hội; hiện nay những chệnh lệch ấy vẫn tồn tại và còn gia tăng mai ngày. Cũng vậy trong nhiều vùng, việc sản xuất và bán nông phẩm đang gặp nhiều trở ngại trầm trọng, do đó, cần phải nâng đỡ nông dân tăng gia và tiêu thụ được sản phẩm, lại phải thực hiện những cuộc cải tổ và canh tân cần thiết hầu thâu được lợi tức tương đương; nếu không, họ sẽ mãi là, như thường xảy ra, những công nhân hạng hai. Còn các nông dân, nhất là những người thuộc giới trẻ, phải cố gắng kiện toàn khả năng chuyên nghiệp, nếu không nông nghiệp không thể phát triển. Sự di chuyển là điều cần thiết đối với nền kinh tế đang phát triển, tuy nhiên sự công bằng và quân bình đòi hỏi phải tổ chức sự di chuyển ấy thế nào để đời sống cá nhân cũng như gia đình không bị xáo trộn và bấp bênh. Những công nhân từ một quốc gia hay một miền khác đến, cũng là những người góùp công vào việc phát triển kinh tế của một nước hay một miền, nên cần phải cố gắng tránh mọi dị biệt về điều kiện lương bổng hay việc làm. Hơn nữa, mọi người nhất lá chính quyền, phải coi họ như những nhân vị, chứ không phải là những công cụ sản xuất; phải giúp đỡ đễ họ có thể đưa gia đình đến và có thể kiếm được một nơi nương thân đàng hoàng; cũng phải cho phép họ dễ dàng gia nhập đời sống xã hội của quốc gia hay miền đất nào đón tiếp họ. Tuy nhiên, nếu có thể, nên tạo cho họ có công ăn việc làm ngay tại nguyên quán của họ. Trong những tình hình kinh tế đang biến chuyển cũng như trong những hình thái mới mẻ của xã hội kỹ nghệ chẳng hạn hệ thống tự động đang được phát triển, phải liệu sao cho mỗi người có công việc đầy đủ và thích hợp, đồng thời hấp thụ được một sự huấn luyện thích ứng về kỹ thuật và nghề nghiệp. Cũng cần phải bảo đảm sự sống và nhân phẩm, nhất là của những người vì bệnh tật, tuổi tác, phải sống trong những hoàn cảnh khó khăn hơn. (Gaudium et Spes, số 66)
294. Anh em tất cả là những người đã nghe tiếng kêu than của các dân tộc nghèo khổ, đang ra sức đáp lại tiếng gọi ấy. Có thể nói anh em là những tông đồ của công cuộc phát triển hữu ích và thật sự; nghĩa là không phải thứ phát triển chỉ nhằm có của cải một cách ích kỷ và được yêu mến vì chính nó, nhưng là một thứ phát triển dựa trên một nền kinh tế nhằm phục vụ con người, phân phối đồng đều cơm bánh hằng ngày cho mọi người, như nguồn tình thương huynh đệ và dấu chỉ của Chúa Quan Phòng. (Populorum Progressio, số 86)
295. Phép công bằng là một nhân đức luân lý đồng thời là một quan niệm pháp lý. Thỉnh thoảng người ta giới thiệu nó với cặp mắt bịt lại; trên thực tế, bản tính riêng của công bằng là chăm chú đến việc bảo đảm sự cân bằng giữa các quyền lợi và bổn phận, cũng như khuyến khích việc chia đều những phí tổn và những lợi lộc. Công bằng cải thiện thì không phá hoại; công bằng hoà giải thì không thúc đẩy việc báo thù. Gốc rễ thâm sâu nhất của nó, xét hết các thứ, nằm trong tình yêu, mà diễn tả có ý nghĩa nhất là lòng thương xót. Cho nên, công bằng mà không có tình yêu thương xót trở thành lạnh nhạt và đổ bể. (Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình, 1998, số )
296. Nhưng, như chúng tôi đã nhiều lần khẳng định, bổn phận quan trọng nhất của công bằng là cho phép mỗi quốc gia thăng tiến sự phát triển riêng của mình, trong khuôn khổ một sự hợp tác không có tinh thần thống trị về kinh tế cũng như chính trị. Tính phứùc tạp của các vấn đề được nêu lên chắc chắn thật to lớn vì sự chằng chịt hiện nay của các quốc gia tuỳ thuộc; cho nên phải có can đảm bắt tay duyệt lại những tương quan giữa các nước, dầu có phải phân phối về mặt quốc tế việc sản xuất, cấu trúc của những trao đổi, kiểm soát những tiền lời, hệ thống tài chánh – không quên những hành vi liên đới nhân bản – đặt thành vấn đề những kiểu mẫu tăng triển của các nước giàu, biến đổi những não trạng để mở chúng công nhận quyền ưu tiên của bổn phận quốc tế, đổi mới những cơ quan quốc tế để đạt hiệu quả lớn hơn. (Octogesima Adveniens, số 43)
297. Lòng thương xót chính hiệu, nói được là nguồn mạch thâm sâu nhất của công bằng. Nếu công bằng tự nó có nhiệm vụ “làm trọng tài” giữa những con người để phân chia cho họ theo đúng công bằng những của cải vật chất, thì ngược lại, tình yêu và chỉ có tình yêu (và cũng là thứ tình yêu nhân từ chúng ta gọi là “lòng thương xót”), có khả năng trả lại con người cho chính nó.
Sự thương xót thật sự Kitô giáo, trong một nghĩa nào đó, cũng là sự hiện thân hoàn hảo nhất của sự “bình đẳng” giữa những con người, và như vậy cũng là sự hiện thân hoàn hảo nhất của phép công bằng, theo mức độ mà trong phạm vi riêng, nó nhằm cũng một hậu quả. Nhưng sự bình đẳng qua phép công bằng giới hạn trong lãnh vực những của cải khách quan và bên ngoài, đang khi tình yêu và lòng thương xót cho phép những con người gặp nhau trong giá trị này là chính con người, với phẩm giá riêng biệt của nó. Đồng thời, “sự bình đẳng” phát sinh từ tình yêu “nhẫn nại và nhân từ", không tẩy xoá những khác biệt… (Dives in misericordia, số 14)
298. Những nhà chuyên môn các khoa học xã hội lớn tiếng kêu gọi một sự hợp lý hoá để tái lập trật tự trong cuộc sống kinh tế. Nhưng trật tự này mà Chúng tôi tha thiết đòi hỏi và Chúng tôi làm những gì có thể làm giúp nó xuất hiện, chắc sẽ không hoàn hảo bao lâu mà tất cả những hình thức sinh hoạt con người không cùng góp phần cách hài hoà để bắt chước và thực hiện, hết sức có thể, sự thống nhất kỳ diệu của chương trình thần linh. Chúng tôi có ý nói ở đây về trật tự hoàn hảo này mà Giáo Hội không ngừng rao giảng, và chính lý trí ngay thẳng đòi hỏi, trật tự này tin Thiên Chúa là định hạn đầu tiên và cuối cùng của mọi sinh hoạt được tạo dựng, và chỉ đánh giá những của cải đời này như là những phương tiện thuần tuý phải sử dụng trong mức độ chúng đưa tới mục tiêu này. Thay vì coi rẽ sự thực thi những nghề nghiệp có lợi này là ít phù hợp với phẩm giá con người, khoa triết học này ngược lại dạy chúng ta thấy ở đó ý muốn lành mạnh của Đấng Sáng Tạo, Người đã đặt con người trên trái đất để con người canh tác nó và bắt nó phục vụ tất cả những nhu cầu của mình. Vậy không cấm những ai sản xuất, tăng gia của cải mình cách lương thiện; ngược lại, theo lẽ công bằng là bất cứ ai phục vụ xã hội và làm giàu xã hội, thì, tùy theo hoàn cảnh của họ, hưởng dụng sự gia tăng những của cải chung, miễn là, trong việc làm giàu, họ tôn trọng luật Chúa và các quyền của tha nhân, và trong việc sử dụng những của cải đó, phải tuân theo những luật đức tin và lý trí. Nếu mọi người, mọi nơi và luôn luôn, hành động theo những luật này, thì không những việc sản xuất và chiếm hữu những của cải thế giới này, mà còn việc tiêu thụ các của cải đó, tiêu thụ rất hỗn loạn ngày nay, sẽ mau chóng được đưa về trong những giới hạn của sự bình đẳng và sự phân phối công bằng; đối lại tính ích kỷ buông lỏng, sự sỉ nhục và là tội to của thế kỷ chúng ta, tính thực tại của các sự kiện đưa ra luật điều độ Kitô giáo này vừa rất êm dịu vừa rất mãnh liệt, luật đó dạy con người phải tìm kiếm trước hết Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, trong niềm tin chắc rằng chính những của cải đời này sẽ được ban thêm cho mình, vì có một lời hứa rõ ràng về lòng rộng rãi của Chúa (Mt 6, 33). (Quadragesimo Anno, số 136)
299. Con người thời đại chúng ta càng ngày càng ý thức mãnh liệt về những chênh lệch ấy, vì họ thâm tín rằng những kỹ thuật tân tiến và những năng lực kinh tế của thế giới ngày nay có thể và phải sửa đổi được những tệ trạng kia. Muốn vậy, cần phải cải tổ đời sống kinh tế, xã hội và mọi người phải đổi mới tâm thức và thái độ của mình. Nhằm mục đích ấy, nên qua bao thế hệ, vói ánh sáng Phúc Âm, Giáo Hội đã cố gắng hết sức mình hướng dẫn những nguyên tắc về công bình và quân bình trong đời sống cá nhân, xã hội và quốc tế cho hợp với những đòi hỏi của lương tri nhân loại, nhất là trong những ngày gần đây Giáo Hội càng đưa ra những nguyên tắc ấy hơn. Trong khi đặc biệt nhìn vào những đòi hởi của sự phát triển kinh tế, Thánh Công Đồng muốn củng cố lại những nguyên tắc đã nêu trên, đồng thời vạch ra một vài hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của thời đại này. (Gaudium et Spes, số 63)
J. Đức Bác Ái và Sự Chọn Lựa Ưu Tiên Dành Cho Người Nghèo
300. Đức mến là điều răn mang tính xã hội cao nhất. Đức mến tôn trọng tha nhân và các quyền lợi của họ, đòi buộc thực thi công ích mà chỉ có đức mến mới giúp ta thực hiện được. Đức mến thúc đẩy chúng ta sống dấn thân: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống" (Lc 17, 33). (GLHTCG, số 1889)
301. Như vậy không phải là dư thừa việc xét lại và đào sâu dưới ánh sáng này những chủ đề và những hướng đặc thù mà Huấn Quyền đã nhắc lại những năm gần đây. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây một trong các điểm đó: việc lựa chọn hay là tình yêu dành cho kẻ nghèo. Đó là một sự lựa chọn, hay là một hình thức riêng biệt của sự ưu tiên trong việc thực hành đức bác ái Kitô giáo mà truyền thống của Giáo Hội minh chứng. Đức bác ái đó liên hệ tới sự sống của mỗi Kitô hữu, bao lâu họ bắt chước sự sống Chúa Kitô, nhưng cũng áp dụng cho những trách nhiệm xã hội chúng ta và như vậy là cho cách sống chúng ta, cho những quyết định chúng ta phải lấy một cách có hệ thống đối với vấn đề tư hữu và sử dụng của cải. (Sollicitudo Rei Socialis, số 42)
302. Đọc lại bức Thông Điệp Rerum Novarum trong ánh sáng của thực trạng hiện nay giúp chúng ta nhận thức được mối quan tâm thường xuyên và sự xả thân của Giáo Hội đối với những người đặc biệt được Chúa Giêsu thương mến. Nội dung của bản văn là một chứng từ tuyệt hảo nói lên việc làm liên tục trong Giáo Hội về điều được gọi là “thái độ chọn lựa ưu tiên đứng về phía người nghèo”, một lựa chọn mà tôi định nghĩa như một “hình thức đặc biệt ưu tiên trong việc thi hành công tác bác ái Kitô giáo”. (SRS, n. 42). (Centesimus Annus, số 11)
303. Trong khi tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, Giáo Hội tỏ ra ưu tiên yêu thương người nghèo và những người không có tiếng nói, vì Chúa đã tự đồng hoá mình với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25, 40). Tình thương ấy không loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ truyền thống Kitô giáo đã làm chứng. “Ưu tiên yêu thương người nghèo và có những quyết định xuất phát từ tình thương ấy không gì khác hơn là muốn rộng tay đón nhận lấy hết con số đông đảo những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư, những người không được y tế chăm sóc, và nhất là những người không hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn. (Ecclesia in Asia số 34)
304. Trong kinh Magnificat của Đức Maria, tình yêu thương ưu ái đối với người nghèo khổ được ghi lại cách tuyệt diệu. Vị Thiên Chúa của giao ước mà người Trinh Nữ Nadareth ca mừng trong niềm vui hớn hở của tâm trí cũng chính là Đấng “hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng… dẹp tan phường lòng trí kiêu căng và tình thương Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Người". Đức Maria được thấm nhuần tinh thần “người nghèo của Đức Giavê “theo lời cầu nguyện trong các Thánh Vịnh, họ mong đợi ơn cứu độ từ Thiên Chúa, và hoàn toàn tín thác nơi Ngài (x. Tv 25; 31; 35; 55). (Redemptoris Mater, số 37)
305. Thánh Giacôbê nói “Nếu có người anh em hay chị em không có áo mặc, không có cơm ăn, mà một người trong anh em chỉ nói với họ rằng: “Chúc anh em về bình an, hãy cố mặc cho ấm, cố ăn cho no, rồi không cho họ gì cần cho thân xác họ, thì lời nói đó nào ích gì” ? (Gc 2, 15-16) Ngày nay không ai mà không biết rằng, trên nhiều lục địa biết bao người đang bị nạn đói hành hạ; biết bao trẻ em thiếu ăn, đến nỗi một phần lớn phải chết lúc còn nhỏ tuổi; bao nhiêu người khác không phát triển được về vật chất lẫn tinh thần cũng vì đó. Bao nhiêu miền đất rộng lớn đang vì thế mà phải sống trong tình trạng tuyệt vọng thê thảm. (Populorum Progressio, số 45)
306. Có lẽ có một số người ngày nay, làm tiếng vọng trung thành cho các người ngoại đạo thời xưa, đi tới chỗ tự làm một binh khí tấn công Giáo Hội, bằng một đức bác ái cũng lạ lùng. Người ta đã thấy một lòng nhân từ được các luật dân sự thiết lập để thay thế đức bác ái Kitô giáo. Nhưng đức bác ái Kitô giáo này, hoàn toàn hiến mình và không có hậu ý nào khác ngoài việc phục vụ tha nhân, không thể bị thay thế bằng một tổ chức nhân loại nào khác. Chỉ duy Giáo Hội mới có nhân đức này, bởi vì người ta chỉ múc lấy được nó nơi Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu Kitô mà thôi, và đi lạc xa Chúa Giêsu Kitô là đi xa Giáo Hội của Người. (Rerum Novarum, số 30).
307. Điều hiển nhiên là người Công Giáo phải cảm thấy cách riêng bổn phận giúp đỡ người đang vùng vẫy trong cảnh thiếu thốn và bần cùng. Trở thành chi thể của Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô là một nguyên nhân cao thượng nhất cho họ. Thánh Gioan tông đồ tuyên bố: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?" (1 Ga 3, 16-17) (Mater et Magistra, số 159)
Ngày 21.01.2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Cha vào Hồng Y Đoàn và Cha vẫn tiếp tục việc thực hiện ‘Toát yếu về Học thuyết xã hội Giáo Hội’. Nhưng, lúc 18 giờ ngày 16.09.2002, Cha đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian.
Sau nhiều năm nghiên cứu và tổng hợp, ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’ hoàn thành tốt đẹp và được Đức Hồng Y Renato Martino, đương kim Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình giới thiệu trong buổi họp báo ngày 25.10.2005 tại Vatican. Trong phần ‘Giới Thiệu‘ về sách Toát Yếu này, Đức Hồng Y Renato Martino đã viết : « Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Hồng Y thương tiếc và tôn kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đã điều khiển một cách thông thạo, với sự kiên nhẫn và tiên đoán xa, giai đoạn chuẩn bị vô cùng phức tạp của tài liệu này. Bạo bệnh đã làm ngăn trở Người hoàn thành văn kiện. Công trình này được giao phó cho tôi tiếp tục và, giờ đây, được giới thiệu cho độc giả. Do đó, văn kiện này mang dấu ấn một Chứng nhân lớn của Thập giá, vững mạnh sống Đức Tin trong những năm đen tối tại Việt-Nam. Đức Hồng Y hãy chấp nhận sự tri ân của chúng tôi vì những việc làm quý giá của Đức Hồng Y, đầy tình yêu và sự trung tín, và cầu bào cho mọi người đang chờ đợi để suy nghĩ các ý tưởng được ghi trên các trang này. »
Toulouse, ngày 15.09.2006
Đức Hồng Y kính mến,
Từ năm 2003, mỗi lần tháng 09 trở về, để tưởng nhớ đến Cha, con tìm một đề tài để viết về Cha, vị Mục Tử Việt-Nam đã phục vụ tại Giáo triều. Năm nay, con xin kể lại việc Cha thực hiện ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’.
I. THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG CHỌN NGƯỜI.
Ngày 13.04.1967, Cha Phanxicô Xaviê NGUYỄN VĂN THUẬN đã được Đức Giáo Hoàng Phalô VI bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Nha Trang, thay thế Đức Cha Paul Raymond Piquet, MEP. Ngày 24.06.1967, nhân lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Đức Cha do Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Cha đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II. Ngày 10.07.1967, Cha đã nhận nhiệm vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang.
Sự nhậm chức Giám mục của Cha tuy thuần túy là một sự kiện thuộc Giáo Hội Công giáo, nhưng đã gây một sự chú ý đặc biệt trong giới chính trị Việt-Nam. Thật vậy, lúc đó, gần bốn năm sau cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 và Tổng Thống Ngô đình Diệm bị thãm sát, Việt-Nam đã rơi vào khủng hoảng lãnh đạo… Quân Đội Cộng Hòa, anh dũng trong việc bảo vệ Tổ Quốc, đã bị cưỡng bách tham gia các cuộc binh biến tương tàn giữa các tướng tá. Thêm vào đó, sự hiện diện của Quân đội Hoa kỳ và Đồng minh, dù mang danh là bảo vệ Tự do cho Việt-Nam, nhưng cũng đã gây ra vô số tệ nạn xã hội và làm tổn thương Chính Nghĩa Dân Tộc.
Để tuyên bố năm 1969 là Năm Đức Tin của Giáo phận, Cha đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘Vững mạnh trong Đức Tin? Tiến lên trong An Bình’, đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo. Cha viết:
« … Tỉnh thức trong bổn phận công dân, vì lúc này hơn bao giờ cả, người Công giáo phải theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II, phải bỏ quan niệm chia đôi đời sống xã hội mà Công Đồng cho là sự sai lầm tai hại nhất của thời đại ta.
Tôi đã kêu gọi anh em cầu nguyện, chính vì thiếu cầu nguyện mà Giáo Sĩ, Tu Sĩ, Giáo Dân ngày nay gặp bao nhiêu khủng hoảng, bao nhiêu khó khăn. Thiếu cầu nguyện ta không biết chính bản thân ta nữa, ta sống ta phản ứng theo tinh thần thế tục… »
Cha nhắc lại lời dạy của Đức Thánh Cha Phaolô VI: « Đức Tin là vấn đề tiên quyết, vấn đề tối hệ, và chúng ta, các Giám mục, phải nhìn vấn đề này với tất cả mối quan hệ khẩn cấp của nó ». Tiếp theo, Cha nhận định:
« … Chưa bao giờ Đức Tin phải nguy hiểm như ngày nay. Hiểm nguy bên ngoài do vật chất, vô thần. Hiểm nguy bên trong do sự bất tuân phục Hội Thánh gây khủng hoảng trong nội bộ dân Chúa.
Để anh chị em vững mạnh trong Đức Tin, đề phòng hai hiểm họa trên, tôi trình bày cho anh chị em hai điểm sau đây: Tin tưởng ở phẩm vị con người và Tin tưởng ở Hội Thánh. »
Trong phần “Tiến Lên Trong An Bình”, Cha xác định: « Người Công giáo yêu chuộng Hòa bình, nhưng người Công giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công giáo rất thận trọng. Hòa bình theo quan niệm Công giáo:
- - Hòa bình không có nghĩa là không chiến tranh.
- - Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.
- - Hòa bình chân chính không phải là Hòa bình chiến lược.
- - Hòa bình là con đường duy nhất đi đến tiến bộ nhân loại.
- - Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Chân lý, Công bằng, Tự do và Bác ái.
- - Hòa bình phải được xây dựng trên tinh thần mới: Kích động đời sống cộng đồng các dân tộc.
- - Hòa bình phải được xây dựng trên não trạng mới: Tôn trọng mối bang giao giữa các quốc gia, quí trọng tình huynh đệ giữa các dân tộc, cộng tác giữa các sắc tộc vì tiến bộ chung; nhìn nhận và tin tưởng các tổ chức Hòa bình quốc tế.
- - Hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng và nhìn nhận những quyền lợi của con người và nền độc lập của mỗi quốc gia. »
Nhân ngày Quốc tế Hòa bình 01.01.1970, Cha đã công bố Thư luân lưu ‘Công Lý và Hòa Bình’ với lời mở đầu:
« Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà anh chị em đều cảm thấy cao đẹp mọi dân tộc đều khao khát. Hai danh từ mà mấy tháng nay đã khiến cho nhiều người bỡ ngỡ, vì nó đưa ra một đường lối mới, nó trình bày một chủ trương, một cơ cấu mà anh chị em chưa quen thuộc.
Để đáp lại thiện chí của anh chị em mong muốn hiểu biết rõ ràng hầu cùng ưu tư, cùng khắc khoải, cùng cầu nguyện và hành động với Hội Thánh, tôi xin nhắc lại đây: con đường tiến của Hội Thánh trong lịch sử, nguyện vọng của Cộng Đồng Vatican II, sự thành hình, mục đích và hoạt động của Công lý và Hòa bình. »
Thưa Cha, đây có phải là sự quan phòng của Thiên Chúa để chuẩn bị cho Cha trong chức vụ Phó Chủ tịch (24.11.1994) rồi Chủ tịch (24.06.1998) Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình ?
II. CHỌN CHÚA, CHỨ KHÔNG PHẢI NHỮNG VIỆC CỦA CHÚA
Ngày 23.04.1975, Cha được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sàigòn với quyền kế vị.
Cha quyết định đi vào Sàigòn, noi gương Đức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Cha đã biết những gì mình sẽ phải gặp tại đó như Cha viết trong ‘NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ’ :
« Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Đức Phaolô VI bồ nhiệm…Đêm ấy 07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha.
Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… »
Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản cùng các người Công giáo yêu nước. Đối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Cha đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha. Ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản bắt giam Cha. Cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23 tháng 11 năm 1988 ngài được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm ở tù không bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Đức Tin, Mục vụ, Tu đức.
Nhân dịp giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Rôma Năm Thánh 2000, trong Bài Suy Niệm thứ 5, dưới tiểu đề ‘Nền tảng đời sống Kitô‘, Cha đã nói :
« Trong 9 năm biệt giam cơ cực, có lúc tôi bị giam trong một xà lim không có cửa sổ. Có khi đèn điện bật sáng từ ngày này qua ngày nọ. Có lúc lại ở trong bóng tối từ tuần này qua tuần khác. Tôi cảm thấy bị ngộp vì nóng bức và hơi ẩm. Tôi sắp bị điên lên. Lúc bấy giờ tôi là một giám mục trẻ, với 8 năm kinh nghiệm mục vụ. Tôi không thể ngủ nổi. Tôi bị dằn vặt bởi ý nghĩ phải bỏ giáo phận, phải bỏ dở những công việc của Chúa. Tôi cảm thấy một sự phẩn uất nổi lên trong tôi.
Một đêm kia, từ trong thâm tâm có một tiếng nói với tôi : ‘Tại sao con day dứt như thế ? Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và các công việc của Chúa. Tất cả những gì ngươi đã làm và muốn tiếp tục làm, như các cuộc viếng thăm mục vụ, đào tạo chủng sinh, tu sĩ nam nữ, giáo dân, giới trẻ, xây trường học, các cư xá sinh viên, cứ điểm truyền giáo… đều là việc rất tốt và đúng là công việc của Thiên Chúa chứ không phải là Thiên Chúa Nếu Chúa muốn con rời bỏ tất cả những việc đó. Hãy bỏ ngay, và hãy tín thác nơi Ngài Thiên Chúa sẽ giao việc của con cho người khác có khả năng hơn con. Con đã chọn Chúa, chứ không phải công việc của Chúa !‘
Ánh sáng ấy đã đem lại cho tôi niềm an bình mới làm thay đổi hoàn toàn cách suy tư của tôi và đã giúp tôi vượt thắng những khoảnh khắc hầu như không thể chịu nổi về phương diện thể lý. Từ đó, một sự an lành tràn ngập tâm hồn tôi và lưu lại trong tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi cảm thấy sự yếu đuối của con người mình, nhưng tôi luôn nhắc lại điều đã quyết định khi phải đối diện với nghịch cảnh. Nhờ thế, tôi không bao giờ mất sự bình an.
Chọn Chúa, chứ không phải chọn những công việc của Chúa. Đó chính là nền tảng đời sống Kitô trong mọi thời đại. Và đồng thời đó cũng là câu trả lời đích thực cho thế giới ngày nay. Và đó cũng là con đường để thực hiện những dự định của Chúa Cha đối với chúng ta, đối với Giáo Hội và nhân loại ngày nay.»
Năm 1989, Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Cha trở lại Quê Hương. Ngày 09.04.1994, Đức Thánh Cha Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24.06.1998, Cha được bổ nhiệm là chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
III. SỰ HÌNH THÀNH ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’
Đáp ứng nguyện vọng của các Đức Giám mục tham dự Thượng hội đồng Giám mục Mỹ châu năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã yêu cầu Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình thực hiện một ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’.
Khi đó, Cha đang là Phó Chủ tịch Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hoà Bình và, từ ngày 24.06.1998, Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm Cha giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng này. Như vậy, vị Mục Tử Việt-Nam đã chịu nhiều bất công (13 năm tù không bản án, công dân mang hộ chiếu Việt-Nam bị cấm trở về Quê hương) nay giữ nhiệm vụ Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ Công Lý và Hoà Bình. Với trách vụ đó, tại Vatican City, ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, Cha đã ký ban hành ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’. Trong bản Sưu Tập nầy, Cha đã thu nhặt từ các văn kiện đang có trong kho tàng Giáo huấn về xã hội và viết thành 11 chương về các đề tài: Bản chất Học thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Vai trò Nhà Nước, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết. Văn kiện này được dùng làm căn bản cho việc hoàn thành ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’.
Con xin phép được ghi lại vài đoạn trong bản Sưu Tập mà Cha đã ký ban hành ngày 01.05.2000 :
Ghi chú. Các số ghi dầu mỗi đoạn là số ghi trong ‘Sưu Tập’
A. Bản chất Học thuyết Xã hội của Hội Thánh Công Giáo
1. Là người Mẹ và là nhà giáo dục tất cả các dân tộc, Giáo Hội phổ quát được Chúa Giêsu Kitô thiết lập để tất cả mọi người, qua các thời đại, gặp được trong lòng và trong tình yêu của Giáo Hội, sự viên mãn của một đời sống cao hơn và sự bảo đảm cho phần rỗi mình. Đấng Sáng Tạo thánh đã trao cho Giáo Hội này, "cột trụ và nền tảng chân lý" (x. 1 Tm 3, 15) một nhiệm vụ kép: sinh ra con cái, giáo dục và hướng dẫn chúng, bằng một sự quan phòng mẫu tử chăm lo sự sống của từng cá nhân và của các dân tộc, mà Giáo Hội đã luôn luôn tôn trọng và bảo vệ kỹ lưởng phẩm giá. (Mater et Magistra, số 1)
2. Chắc chắn, một vấn đề nghiêm trọng như thế còn đòi hỏi những tác nhân khác góp phần hoạt động và cố gắng của mình. Chúng tôi muốn nói tới những vị Nguyên thủ Quốc gia, những ông chủ và những người giàu có, chính những thợ thuyền nữa, mà vận mạng của họ có liên quan ở đây. Nhưng điều Chúng tôi khẳng định không nghi ngại, đó là sự vô ích trong hành động của họ bên ngoài hành động của Giáo Hội. Thật vậy, chính Giáo Hội múc lấy trong Tin Mừng những học thuyết có khả năng, hoăỉc chấm dứt xung đột, hoặc ít ra thoa dịu nó bằng cách cất đi tất cả những gì ác liệt và chua cay; Giáo Hội không bằng lòng với việc soi sáng lòng trí bằng những huấn giáo của mình, nhưng còn sau đó điều chỉnh sự sống và những phong tục của mỗi người; Giáo Hội, nhờ một số đông các cơ chế hữu ích phi thường, có ý cải thiện số phận giai cấp nghèo; Giáo Hội muốn và ao ước rằng tất cả các giai cấp góp chung những ánh sáng và những sức lực của mình, ngõ hầu mang đến cho vấn đề thợ thuyền một giải pháp tốt nhất; sau hết Giáo Hội cho rằng những luật pháp và công quyền phải, với chừng mực và khôn ngoan là điều chắc, góp phần hợp tác của mình cho giải pháp này. (Rerum Novarum, số 16)
3. Quả vậy, Kitô giáo, liên kết đất với trời, vì nhìn con người trong thực tại cụ thể của nó, tinh thần và vật chất, lý trí và ý chí, và kêu mời con người nâng cao tư tưởng mình từ những điều kiện hay thay đổi của cuộc sống địa cầu lên tới những đỉnh sự sống đời đời, trong một sự viên mãn hạnh phúc và bình an vô tận. (Mater et Magistra, số 2)
5. Như vậy, dưới ánh sáng học thuyết Công đồng Vatican II, Giáo Hội xuất hiện trước mắt chúng ta như có trách nhiệm về phương diện xã hội đối với chân lý thần linh. Chúng ta phải cảm động sâu xa khi nghe chính Chúa Giêsu công bố: "Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14, 24)… Do đó điều cần là Giáo Hội, khi tuyên xưng và dạy đức tin, phải bám chắc vào chân lý thần linh (Dei Verbum, nn. 5, 10, 21) và sự kiện này phải được diễn tả bằng một thái độ sống "phục tùng phù hợp với lý trí" (x. Dei Filius, chap. 3) (Redemptoris hominis. n. 19)
B. Sứ vụ của Giáo Hội
7. Phát sinh từ tình yêu của Chúa Cha muôn đời, do Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ thiết lập trong thời gian, được qui tụ trong Chúa Thánh Thần (x. Ep 1, 3; 5, 6-13-14, 23), Giáo Hội theo đuổi một mục đích cứu rỗi và cánh chung. Mục đích này chỉ có thể thành tựu trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến. Nhưng, ngay bây giờ Giáo Hội đã hiện diện trên mặt đất này rồi, được qui tụ gồm những con người, là phần tử của xã hội trầụn gian; họ được kêu gọi để hợp thành gia đình các con cái Thiên Chúa ngay trong lịch sử nhân loại, ngõ hầu tăng trưởng luôn mãi cho tới khi Chúa đến. Hiệp nhất nhằm đạt những của cải thiêng liêng, trở nên giàu có vì những của cải ấy, gia đình này như một xã hội được thiết lập qui củ trên trần gian, do Chúa Kitô, được trang bị các phương thế thích hợp để kếùt hiệp thành một xã hội hữu hình" (GS. 40). Như thế, là "một đoàn thể hữu hình và là cộng đoàn thiêng liêng", Giáo Hội đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng nhau chia sẻ một số phận trần thế với thế giới; Giáo Hội như men và hồn của xã hội loài người, sẽ được đổi mới trong Chúa Kitô và biến thành gia đình của Thiên Chúa. (Gaudium et Spes. số 40)
8. Việc dạy và phổ biến Học thuyết xã hội là thành phần của sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Và, vì đây là một học thuyết có mục đích hướng dẫn cách sống con người, nên nó đưa tới hệ quả là mỗi người tùy theo vai trò, ơn gọi và địa vị mình, mà "cam kết cổ võ công lý".
Việc hoàn thành thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng trong lãnh vực xã hội, thừa tác vụ này là thành phần của nhiệm vụ ngôn sứ của Giáo Hội, cũng gồm sự tố giác những sự dữ và những bất công. Nhưng nên nhấn mạnh rằng việc rao giảng luôn quan trọng hơn việc tố giác, và việc tố giác không thể bỏ qua việc rao giảng, vì sự rao giảng là nền tảng thật sự và là sức lực của động cơ cao nhất. (Sollicitudo Rei Socialis, số 41)
C. Phẩm Giá của Con Người
39. Thật vậy, việc dạy và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội, tuỳ thưộc sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, đó là một phần chính yếu của sứ vụ Kitô giáo, bởi vì học thuyết này trình bày những hậu quả trực tiếp của sứ điệp ấy trong đời sống xã hội và đặt việc lao động hằng ngày và sự tranh đấu cho công bình vào trong khuôn khổ của sự làm chứng cho Chúa Kitô Cứu Thế. Học thuyết đó cũng là nguồn mạch sự hiệp nhất và hoà bình trước những xung đột phát xuất chắc chắn trong lãnh vực kinh tế và xã hội. Như vậy, có thể sống những hoàn cảnh mới mà không làm giảm giá trị siêu việt của con người, không ở trong chính con người, cũng không ở nơi kẻ thù, và có thể tìm ra con đường cho những giải pháp đúng. (Centesimus Annus, số 5)
42. Nếu ta nhìn về tận nguồn gốc và vận mệnh con người, mới thấy được nét cao cả của phẩm giá con người: được sáng tạo theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và được cứu chuộc bằng Máu châu báu của Đức Kitô, con người được kêu gọi làm "con trong Người Con", và là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và được dành cho sự sống đời đời trong sự kết hiệp hồng phúc với Thiên Chúa. Do đó, mọi xúc phạm đến phẩm giá của mỗi ngôi vị con người đều kêu gào được Thiên Chúa báo oán, và là sự xúc phạm đến Đấng sáng tạo con người. (Christifideles Laici, số 37)
D. Chỗ Đứng Trung Tâm của Nhân Vị.
119. Ngay trong đời sống kinh tế và xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội. (Gaudium et Spes số 63)
120. Con người, đúng theo sự cởi mở từ bên trong trí tuệ và cũng theo biết bao nhiêu nhu cầu khác biệt của thân xác và cuộc sống tại thế, vẫn viết nên lịch sử riêng tư kia qua rất nhiều liên hệ, tiếp xúc, hoàn cảnh, cơ cấu xã hội kết mình với những người khác; và con người làm điều ấy từ giây phút đầu tiên hiện hữu trên trái đất, từ giây phút thành thai và sinh ra. Con người, trong chân lý đầy đủ của cuộc sống mình, của bản thể riêng mình, và đồng thời là của bản thể cộng đồng và xã hội của mình - trong phạm vi gia đình, bên trong những xã hội và những cảnh ngộ khác biệt, trong khuôn khổ quốc gia hay dân tộc của mình, (và có lẽ còn hơn nữa là trong khuôn khổ bộ lạc hay sắc tộc của mình), ngay cả trong khuôn khổ toàn thể nhân loại- con người đó là con đường trước tiên mà Giáo Hội phải đi qua khi thực hiện sứ mệnh của mình, con người đó là con đường trước tiên và cơ bản của Giáo Hội, con đường đã do chính Đức Kitô vạch ra, con đường đi ngang qua, một cách bất biến, mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. (Redemptor Hominis, các số 14 -43)
121. Nhân vị là nền tảng và là cùng đích của trật tự xã hội, bởi vì nhân vị là chủ thể những quyền bất khả nhượng nó không nhận từ bên ngoài, nhưng những quyền đó phát xuất từ bản tính của nó: không có gì cũng không có ai có thể phá huỷ những quyền đó, không một cưỡng bức nào bên ngoài có thể tiêu diệt chúng, bởi vì chúng đâm rễ sâu trong phần nhân bản nhất của nhân vị. Tương tự như thế, nhân vị không hạn định trong những yếu tố xã hội, văn hoá, và lịch sử của nó, bởi vì đặc tính của con người có một linh hồn thiêng liêng, là hướng về một cùng đích vượt xa những hoàn cảnh hay thay đổi của đời sống mình. Không một quyền lực nhân bản nào có thể chống lại sự phát triển của con người xét như là nhân vị. (Sứ điệp ngày thế giới hoà bình, 1988, số 1)
E. Gia Đình
90. Theo ý định của Thiên Chúa, phái tính hướng về tình yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai tín hữu, dây liên kết hôn nhân được thánh hoá bằng bí tích.
"Nhờ khả năng tình dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi dành riêng cho vợ chồng. Tình dục không chỉ là hành vi sinh lý, nhưng liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực sự xứng đáng với con người, khi nó là thành phần không thể thiếu của tình yêu giữa người nam và người nữ đã cam kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời" (Familiaris Consortio, số 11)
Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và chính đáng. Được thi hành cách thật sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn (GS, số 49). Khả năng sinh dục là nguồn vui và khoái lạc: “Chính Đấng Sáng Tạo…. đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thoả mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy vợ chồng chẳng làm điều gì xấu xa khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì Đấng Sáng Tạo đã ban cho., Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ" (Piô XII, diễn văn 29 Oct 1951).
Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai ý nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không làm biến chất đời sống tinh thần của vợ chồng cũng như phương hại đến lọi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình. Như thế tình yêu vợ chồng đòi hỏi người nam và người nữ phải chung thuỷ vừa phải sẵn sàng đón nhận con cái. (CEC các số 2360-2363)
F. Một Xã Hội Xây Dựng Trên Chân Lý
122. Đó là lý do tại sao một xã hội chỉ được chỉnh đốn đúng mức, mang phúc lợi, biết tôn trọng nhân vị, nếu nó được xây dựng trên chân lý, theo lời cảnh cáo của thánh Phaolô: "Anh em hãy cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau" (Ep 4, 25). Điều đó giả thiết rằng người ta thành thật nhìn nhận các quyền và bổn phận của nhau. (Pacem in Terris, số 35)
123. Chỉ một mình Thiên Chúa, Sự Thiện tối thượng, mới là nền tảng bất khả chuyển lay và là điều kiện bất khả thay thế của đời sống luân lý, tức của các giới răn và đặc biệt của các giới răn tiêu cực vốn luôn luôn và trong mọi trường hợp ngăn cấm những hành vi bất khả dung hợp với phẩm giá của mỗi một con người. Như thế Sự Thiện tối thượng và điều thiện luân lý giao nhau trong chân lý, chân lý của Thiên Chúa Tạo Hoá và Cứu Chuộc, chân lý của con người được Chúa tạo dựng và được Thiên Chúa cứu chuộc. Chỉ trên chân lý ấy mới có thể xây dựng một xã hội đổi mới và mới giải quyết được những vấn đề phức tạp và gay cấn đang làm cho xã hội lung lay mà vấn đề số một là làm sao thắng vượt các thứ hình thức chuyên chế chủ nghĩa dị biệt để mở lối cho tự do đích thực của con người. "Chủ nghĩa chuyên chế phát sinh từ hành động phủ nhận chân lý hiểu theo nghĩa khách quan: nếu không có chân lý siêu việt mà nhờ tuân phục nó con người có thể đạt tới căn tính tròn đầy của mình, thì trong những tình cảnh này không tài nào có được một nguyên lý vững chắc để bảo đảm cho những mối quan hệ công bằng giữa con người với nhau. Những lợi ích của họ xét theo giai cấp, theo nhóm hoặc theo quốc gia không thể nào không đưa họ đến chỗ đối nghịch với nhau (CA, n. 44).(Veritatis Splendor, số 99)
124. Những tương quan giữa các cộng đồng chính trị phải theo chân lý. Chân lý đòi hỏi trước hết là người ta phải loại trừ tất cả dấu vết kỳ thị chủng tộc trong các tương quan này; và sau đó người ta phải thi hành nguyên tắc là tất cả mọi cộng đồng chính trị đều bình đẳng trong phẩm giá nguyên thuỷ. Mỗi một cộng đồng có quyền sống, quyền phát triển, quyền chiếm hữu những phương tiện cần thiết để thực hiện điều đó, quyền lãnh trách nhiệm ưu tiên để vận dụng chúng; và mỗi cộng đồng có thể xin cách hợp lý được hưởng tiếng tốt và nhận lấy những danh dự xứng đáng cho mình. (Pacem in Terris, số 86)
G. Quyền Phần Đời
178. “Xã hội loài người sẽ không có trật tự và phồn vinh nếu thiếu những người cầm quyền hợp pháp để bảo tồn các định chế và phục vụ công ích một cách đầy đủ" (PT, n. 46). “Quyền bính" là đặc tính của những con người hay những định chế, nhờ đó, họ ban hành lề luật và mệnh lệnh cho con người, và buộc phải tuân phục.
Mọi cộng đoàn nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị nó. Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính con người. Quyền bính cần thiết để tạo ra sự thống nhất cho cộng đoàn. Vai trò của nó là bảo đảm tối đa cho công ích xã hội. Quyền bính theo trật tự luân lý đòi hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa:" Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. như vậy, ai chống đối quyền bính là chống đối lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt" (Rm 13, 1-2; x. 1 Pr 2, 13-17).
Bổn phận vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; đối với những người đang thi hành công vụ, phải tôn trọng và tuỳ công trạng của họ mà tỏ lòng biết ơn và quí mến. Hội Thánh còn giữ được bản kinh của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Roma cầu cho chính quyền (x. 1 Tm 2, 1-2): "Lạy Chúa, xin ban cho họ sức khoẻ, bình an, hoà thuận và ổn định, để họ thực thi đúng đắn quyền hành Chúa đã trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ Tể, là Vua Trời vĩnh cửu, chính Chúa ban cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền lực trên mọi vật trần thế. Xin Chúa hướng dẫn những dự định của họ theo điều thiện hảo, theo những gì hợp ý Ngài, để khi thi hành nhiệm vụ mà ngài trao cho, với lòng đạo đức, trong an bình và quảng đại, họ nhận được ơn Ngài phù hộ" (Saint Clément de Rome, Ad Cor., 61, 1-2). (CEC các số 1897 -1900)
179. Cũng thế, việc hành xử quyền bính chính trị trong chính cộng đoàn hoặc trong các cơ quan đại diện cho quốc gia luôn luôn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý để đem lại kết quả và mưu cầu công ích - công ích ở đây phải hiểu cách năng động - tuỳ theo trật tự pháp lý đã hoặc sẽ được thiết lập cách hợp pháp. Trong trường hợp đó, mọi công dân buộc phải theo lương tâm mà tuân phục. Và do đó, những người lãnh đạo đương nhiên có trách nhiệm, có thế giá và có uy quyền. (Gaudium et Spes, số 74)
H. Giáo Hội và Nhà Nước
191. Nhiệm vụ thiết yếu của quyền bính dân sự là bảo vệ và phát huy những quyền lợi bất khả xâm phạm của con người. Do đó, quyền bính dân sự phải bảo vệ cách hữu hiệu quyền tự do tôn giáo của mọi công dân bằng những đạo luật chính đáng và những phương tiện thích hợp khác, phải tạo nên những điều kiện thuận lợi giúp phát triển đời sống tôn giáo, nhờ đó các công dân có thể thực sự hưởng dụng những quyền lợi và chu toàn những nhiệm vụ đối với tôn giáo, đồng thời xã hội sẽ được hưởng nhờ những lợi ích của công lý và hoà bình, phát sinh do lòng trung thành của con người đối với Thiên Chúa và thánh ý Ngài. (Dignitatis Humanae, số 6)
I. Công Bằng Xã Hội
292. Thật vậy, ngoài phép công bằng giao hoán, cũng có phép công bằng xã hội, đặt ra những bổn phận mà chủ nhân và công nhân không có quyền tránh né. Chính nhiệm vụ của phép công bằng xã hội đặt ra cho các thành phần cộng đồng phải làm tất cả những gì cần thiết cho công ích. (Divini Redemptoris, số 51)
293. Để thoả mãn những đòi hỏi của công bằng và lẽ phải mà vẫn tôn trọng quyền lợi cá nhân và đặc tính của mỗi dân tộc, cần phải hăng hái nỗ lực để sớm chấm dứt những chênh lệch kinh tế lớn lao kèm theo sự kỳ thị cá nhân và xã hội; hiện nay những chệnh lệch ấy vẫn tồn tại và còn gia tăng mai ngày. Cũng vậy trong nhiều vùng, việc sản xuất và bán nông phẩm đang gặp nhiều trở ngại trầm trọng, do đó, cần phải nâng đỡ nông dân tăng gia và tiêu thụ được sản phẩm, lại phải thực hiện những cuộc cải tổ và canh tân cần thiết hầu thâu được lợi tức tương đương; nếu không, họ sẽ mãi là, như thường xảy ra, những công nhân hạng hai. Còn các nông dân, nhất là những người thuộc giới trẻ, phải cố gắng kiện toàn khả năng chuyên nghiệp, nếu không nông nghiệp không thể phát triển. Sự di chuyển là điều cần thiết đối với nền kinh tế đang phát triển, tuy nhiên sự công bằng và quân bình đòi hỏi phải tổ chức sự di chuyển ấy thế nào để đời sống cá nhân cũng như gia đình không bị xáo trộn và bấp bênh. Những công nhân từ một quốc gia hay một miền khác đến, cũng là những người góùp công vào việc phát triển kinh tế của một nước hay một miền, nên cần phải cố gắng tránh mọi dị biệt về điều kiện lương bổng hay việc làm. Hơn nữa, mọi người nhất lá chính quyền, phải coi họ như những nhân vị, chứ không phải là những công cụ sản xuất; phải giúp đỡ đễ họ có thể đưa gia đình đến và có thể kiếm được một nơi nương thân đàng hoàng; cũng phải cho phép họ dễ dàng gia nhập đời sống xã hội của quốc gia hay miền đất nào đón tiếp họ. Tuy nhiên, nếu có thể, nên tạo cho họ có công ăn việc làm ngay tại nguyên quán của họ. Trong những tình hình kinh tế đang biến chuyển cũng như trong những hình thái mới mẻ của xã hội kỹ nghệ chẳng hạn hệ thống tự động đang được phát triển, phải liệu sao cho mỗi người có công việc đầy đủ và thích hợp, đồng thời hấp thụ được một sự huấn luyện thích ứng về kỹ thuật và nghề nghiệp. Cũng cần phải bảo đảm sự sống và nhân phẩm, nhất là của những người vì bệnh tật, tuổi tác, phải sống trong những hoàn cảnh khó khăn hơn. (Gaudium et Spes, số 66)
294. Anh em tất cả là những người đã nghe tiếng kêu than của các dân tộc nghèo khổ, đang ra sức đáp lại tiếng gọi ấy. Có thể nói anh em là những tông đồ của công cuộc phát triển hữu ích và thật sự; nghĩa là không phải thứ phát triển chỉ nhằm có của cải một cách ích kỷ và được yêu mến vì chính nó, nhưng là một thứ phát triển dựa trên một nền kinh tế nhằm phục vụ con người, phân phối đồng đều cơm bánh hằng ngày cho mọi người, như nguồn tình thương huynh đệ và dấu chỉ của Chúa Quan Phòng. (Populorum Progressio, số 86)
295. Phép công bằng là một nhân đức luân lý đồng thời là một quan niệm pháp lý. Thỉnh thoảng người ta giới thiệu nó với cặp mắt bịt lại; trên thực tế, bản tính riêng của công bằng là chăm chú đến việc bảo đảm sự cân bằng giữa các quyền lợi và bổn phận, cũng như khuyến khích việc chia đều những phí tổn và những lợi lộc. Công bằng cải thiện thì không phá hoại; công bằng hoà giải thì không thúc đẩy việc báo thù. Gốc rễ thâm sâu nhất của nó, xét hết các thứ, nằm trong tình yêu, mà diễn tả có ý nghĩa nhất là lòng thương xót. Cho nên, công bằng mà không có tình yêu thương xót trở thành lạnh nhạt và đổ bể. (Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình, 1998, số )
296. Nhưng, như chúng tôi đã nhiều lần khẳng định, bổn phận quan trọng nhất của công bằng là cho phép mỗi quốc gia thăng tiến sự phát triển riêng của mình, trong khuôn khổ một sự hợp tác không có tinh thần thống trị về kinh tế cũng như chính trị. Tính phứùc tạp của các vấn đề được nêu lên chắc chắn thật to lớn vì sự chằng chịt hiện nay của các quốc gia tuỳ thuộc; cho nên phải có can đảm bắt tay duyệt lại những tương quan giữa các nước, dầu có phải phân phối về mặt quốc tế việc sản xuất, cấu trúc của những trao đổi, kiểm soát những tiền lời, hệ thống tài chánh – không quên những hành vi liên đới nhân bản – đặt thành vấn đề những kiểu mẫu tăng triển của các nước giàu, biến đổi những não trạng để mở chúng công nhận quyền ưu tiên của bổn phận quốc tế, đổi mới những cơ quan quốc tế để đạt hiệu quả lớn hơn. (Octogesima Adveniens, số 43)
297. Lòng thương xót chính hiệu, nói được là nguồn mạch thâm sâu nhất của công bằng. Nếu công bằng tự nó có nhiệm vụ “làm trọng tài” giữa những con người để phân chia cho họ theo đúng công bằng những của cải vật chất, thì ngược lại, tình yêu và chỉ có tình yêu (và cũng là thứ tình yêu nhân từ chúng ta gọi là “lòng thương xót”), có khả năng trả lại con người cho chính nó.
Sự thương xót thật sự Kitô giáo, trong một nghĩa nào đó, cũng là sự hiện thân hoàn hảo nhất của sự “bình đẳng” giữa những con người, và như vậy cũng là sự hiện thân hoàn hảo nhất của phép công bằng, theo mức độ mà trong phạm vi riêng, nó nhằm cũng một hậu quả. Nhưng sự bình đẳng qua phép công bằng giới hạn trong lãnh vực những của cải khách quan và bên ngoài, đang khi tình yêu và lòng thương xót cho phép những con người gặp nhau trong giá trị này là chính con người, với phẩm giá riêng biệt của nó. Đồng thời, “sự bình đẳng” phát sinh từ tình yêu “nhẫn nại và nhân từ", không tẩy xoá những khác biệt… (Dives in misericordia, số 14)
298. Những nhà chuyên môn các khoa học xã hội lớn tiếng kêu gọi một sự hợp lý hoá để tái lập trật tự trong cuộc sống kinh tế. Nhưng trật tự này mà Chúng tôi tha thiết đòi hỏi và Chúng tôi làm những gì có thể làm giúp nó xuất hiện, chắc sẽ không hoàn hảo bao lâu mà tất cả những hình thức sinh hoạt con người không cùng góp phần cách hài hoà để bắt chước và thực hiện, hết sức có thể, sự thống nhất kỳ diệu của chương trình thần linh. Chúng tôi có ý nói ở đây về trật tự hoàn hảo này mà Giáo Hội không ngừng rao giảng, và chính lý trí ngay thẳng đòi hỏi, trật tự này tin Thiên Chúa là định hạn đầu tiên và cuối cùng của mọi sinh hoạt được tạo dựng, và chỉ đánh giá những của cải đời này như là những phương tiện thuần tuý phải sử dụng trong mức độ chúng đưa tới mục tiêu này. Thay vì coi rẽ sự thực thi những nghề nghiệp có lợi này là ít phù hợp với phẩm giá con người, khoa triết học này ngược lại dạy chúng ta thấy ở đó ý muốn lành mạnh của Đấng Sáng Tạo, Người đã đặt con người trên trái đất để con người canh tác nó và bắt nó phục vụ tất cả những nhu cầu của mình. Vậy không cấm những ai sản xuất, tăng gia của cải mình cách lương thiện; ngược lại, theo lẽ công bằng là bất cứ ai phục vụ xã hội và làm giàu xã hội, thì, tùy theo hoàn cảnh của họ, hưởng dụng sự gia tăng những của cải chung, miễn là, trong việc làm giàu, họ tôn trọng luật Chúa và các quyền của tha nhân, và trong việc sử dụng những của cải đó, phải tuân theo những luật đức tin và lý trí. Nếu mọi người, mọi nơi và luôn luôn, hành động theo những luật này, thì không những việc sản xuất và chiếm hữu những của cải thế giới này, mà còn việc tiêu thụ các của cải đó, tiêu thụ rất hỗn loạn ngày nay, sẽ mau chóng được đưa về trong những giới hạn của sự bình đẳng và sự phân phối công bằng; đối lại tính ích kỷ buông lỏng, sự sỉ nhục và là tội to của thế kỷ chúng ta, tính thực tại của các sự kiện đưa ra luật điều độ Kitô giáo này vừa rất êm dịu vừa rất mãnh liệt, luật đó dạy con người phải tìm kiếm trước hết Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, trong niềm tin chắc rằng chính những của cải đời này sẽ được ban thêm cho mình, vì có một lời hứa rõ ràng về lòng rộng rãi của Chúa (Mt 6, 33). (Quadragesimo Anno, số 136)
299. Con người thời đại chúng ta càng ngày càng ý thức mãnh liệt về những chênh lệch ấy, vì họ thâm tín rằng những kỹ thuật tân tiến và những năng lực kinh tế của thế giới ngày nay có thể và phải sửa đổi được những tệ trạng kia. Muốn vậy, cần phải cải tổ đời sống kinh tế, xã hội và mọi người phải đổi mới tâm thức và thái độ của mình. Nhằm mục đích ấy, nên qua bao thế hệ, vói ánh sáng Phúc Âm, Giáo Hội đã cố gắng hết sức mình hướng dẫn những nguyên tắc về công bình và quân bình trong đời sống cá nhân, xã hội và quốc tế cho hợp với những đòi hỏi của lương tri nhân loại, nhất là trong những ngày gần đây Giáo Hội càng đưa ra những nguyên tắc ấy hơn. Trong khi đặc biệt nhìn vào những đòi hởi của sự phát triển kinh tế, Thánh Công Đồng muốn củng cố lại những nguyên tắc đã nêu trên, đồng thời vạch ra một vài hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của thời đại này. (Gaudium et Spes, số 63)
J. Đức Bác Ái và Sự Chọn Lựa Ưu Tiên Dành Cho Người Nghèo
300. Đức mến là điều răn mang tính xã hội cao nhất. Đức mến tôn trọng tha nhân và các quyền lợi của họ, đòi buộc thực thi công ích mà chỉ có đức mến mới giúp ta thực hiện được. Đức mến thúc đẩy chúng ta sống dấn thân: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống" (Lc 17, 33). (GLHTCG, số 1889)
301. Như vậy không phải là dư thừa việc xét lại và đào sâu dưới ánh sáng này những chủ đề và những hướng đặc thù mà Huấn Quyền đã nhắc lại những năm gần đây. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây một trong các điểm đó: việc lựa chọn hay là tình yêu dành cho kẻ nghèo. Đó là một sự lựa chọn, hay là một hình thức riêng biệt của sự ưu tiên trong việc thực hành đức bác ái Kitô giáo mà truyền thống của Giáo Hội minh chứng. Đức bác ái đó liên hệ tới sự sống của mỗi Kitô hữu, bao lâu họ bắt chước sự sống Chúa Kitô, nhưng cũng áp dụng cho những trách nhiệm xã hội chúng ta và như vậy là cho cách sống chúng ta, cho những quyết định chúng ta phải lấy một cách có hệ thống đối với vấn đề tư hữu và sử dụng của cải. (Sollicitudo Rei Socialis, số 42)
302. Đọc lại bức Thông Điệp Rerum Novarum trong ánh sáng của thực trạng hiện nay giúp chúng ta nhận thức được mối quan tâm thường xuyên và sự xả thân của Giáo Hội đối với những người đặc biệt được Chúa Giêsu thương mến. Nội dung của bản văn là một chứng từ tuyệt hảo nói lên việc làm liên tục trong Giáo Hội về điều được gọi là “thái độ chọn lựa ưu tiên đứng về phía người nghèo”, một lựa chọn mà tôi định nghĩa như một “hình thức đặc biệt ưu tiên trong việc thi hành công tác bác ái Kitô giáo”. (SRS, n. 42). (Centesimus Annus, số 11)
303. Trong khi tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, Giáo Hội tỏ ra ưu tiên yêu thương người nghèo và những người không có tiếng nói, vì Chúa đã tự đồng hoá mình với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25, 40). Tình thương ấy không loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ truyền thống Kitô giáo đã làm chứng. “Ưu tiên yêu thương người nghèo và có những quyết định xuất phát từ tình thương ấy không gì khác hơn là muốn rộng tay đón nhận lấy hết con số đông đảo những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư, những người không được y tế chăm sóc, và nhất là những người không hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn. (Ecclesia in Asia số 34)
304. Trong kinh Magnificat của Đức Maria, tình yêu thương ưu ái đối với người nghèo khổ được ghi lại cách tuyệt diệu. Vị Thiên Chúa của giao ước mà người Trinh Nữ Nadareth ca mừng trong niềm vui hớn hở của tâm trí cũng chính là Đấng “hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng… dẹp tan phường lòng trí kiêu căng và tình thương Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Người". Đức Maria được thấm nhuần tinh thần “người nghèo của Đức Giavê “theo lời cầu nguyện trong các Thánh Vịnh, họ mong đợi ơn cứu độ từ Thiên Chúa, và hoàn toàn tín thác nơi Ngài (x. Tv 25; 31; 35; 55). (Redemptoris Mater, số 37)
305. Thánh Giacôbê nói “Nếu có người anh em hay chị em không có áo mặc, không có cơm ăn, mà một người trong anh em chỉ nói với họ rằng: “Chúc anh em về bình an, hãy cố mặc cho ấm, cố ăn cho no, rồi không cho họ gì cần cho thân xác họ, thì lời nói đó nào ích gì” ? (Gc 2, 15-16) Ngày nay không ai mà không biết rằng, trên nhiều lục địa biết bao người đang bị nạn đói hành hạ; biết bao trẻ em thiếu ăn, đến nỗi một phần lớn phải chết lúc còn nhỏ tuổi; bao nhiêu người khác không phát triển được về vật chất lẫn tinh thần cũng vì đó. Bao nhiêu miền đất rộng lớn đang vì thế mà phải sống trong tình trạng tuyệt vọng thê thảm. (Populorum Progressio, số 45)
306. Có lẽ có một số người ngày nay, làm tiếng vọng trung thành cho các người ngoại đạo thời xưa, đi tới chỗ tự làm một binh khí tấn công Giáo Hội, bằng một đức bác ái cũng lạ lùng. Người ta đã thấy một lòng nhân từ được các luật dân sự thiết lập để thay thế đức bác ái Kitô giáo. Nhưng đức bác ái Kitô giáo này, hoàn toàn hiến mình và không có hậu ý nào khác ngoài việc phục vụ tha nhân, không thể bị thay thế bằng một tổ chức nhân loại nào khác. Chỉ duy Giáo Hội mới có nhân đức này, bởi vì người ta chỉ múc lấy được nó nơi Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu Kitô mà thôi, và đi lạc xa Chúa Giêsu Kitô là đi xa Giáo Hội của Người. (Rerum Novarum, số 30).
307. Điều hiển nhiên là người Công Giáo phải cảm thấy cách riêng bổn phận giúp đỡ người đang vùng vẫy trong cảnh thiếu thốn và bần cùng. Trở thành chi thể của Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô là một nguyên nhân cao thượng nhất cho họ. Thánh Gioan tông đồ tuyên bố: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?" (1 Ga 3, 16-17) (Mater et Magistra, số 159)
Ngày 21.01.2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Cha vào Hồng Y Đoàn và Cha vẫn tiếp tục việc thực hiện ‘Toát yếu về Học thuyết xã hội Giáo Hội’. Nhưng, lúc 18 giờ ngày 16.09.2002, Cha đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian.
Sau nhiều năm nghiên cứu và tổng hợp, ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’ hoàn thành tốt đẹp và được Đức Hồng Y Renato Martino, đương kim Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình giới thiệu trong buổi họp báo ngày 25.10.2005 tại Vatican. Trong phần ‘Giới Thiệu‘ về sách Toát Yếu này, Đức Hồng Y Renato Martino đã viết : « Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Hồng Y thương tiếc và tôn kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đã điều khiển một cách thông thạo, với sự kiên nhẫn và tiên đoán xa, giai đoạn chuẩn bị vô cùng phức tạp của tài liệu này. Bạo bệnh đã làm ngăn trở Người hoàn thành văn kiện. Công trình này được giao phó cho tôi tiếp tục và, giờ đây, được giới thiệu cho độc giả. Do đó, văn kiện này mang dấu ấn một Chứng nhân lớn của Thập giá, vững mạnh sống Đức Tin trong những năm đen tối tại Việt-Nam. Đức Hồng Y hãy chấp nhận sự tri ân của chúng tôi vì những việc làm quý giá của Đức Hồng Y, đầy tình yêu và sự trung tín, và cầu bào cho mọi người đang chờ đợi để suy nghĩ các ý tưởng được ghi trên các trang này. »
Toulouse, ngày 15.09.2006