ROMA - Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ tranh luận lớn nào trong Thượng Hội đồng Giám mục tháng này về những người trẻ, nhưng khi một nhóm 300 giám mục khác tụ tập về Roma vào năm tới để tham dự Hội nghị thượng đỉnh về khu vực Amazon, một số dự báo nói đến sự căng thẳng xung quanh một điểm đã bùng nổ lâu dài trong cuộc tranh luận Công Giáo: Các linh mục kết hôn.
Thiếu linh mục thường cực kỳ cấp bách ở các vùng của Amazon, và một số giám mục từ khu vực này từ lâu đã ủng hộ ý tưởng về việc phong chức cho viri probati, nghĩa những người đàn ông lập gia đình đã được thử thách.
Trong khi đó ở phương Tây, một số tiếng nói đã khơi lại ý tưởng về một chức tư tế có kết hôn, như là một đáp trả đối với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ, cho rằng hôn nhân sẽ cung cấp cho các linh mục cơ hội thể hiện tính dục của họ theo những cách thế lành mạnh và không lạm dụng.
Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk của Giáo Hội Công Giáo Ukraina Hy Lạp, lớn nhất trong số 22 Giáo Hội Công Giáo Đông phương hiệp thông với Rôma, mang nhiều thế kỷ kinh nghiệm về các linh mục kết hôn, có một thông điệp cơ bản cho các đối tác phương Tây của ngài: “Đừng nhanh như thế!”
“Nếu chúng tôi phải đưa ra lời khuyên, tôi sẽ nói rằng gỡ bỏ luật độc thân khỏi chức linh mục sẽ không giải quyết được vấn đề. Kinh nghiệm của tôi là quả thực có những linh mục thánh thiện đã lập gia đình. .. sự thánh thiện này, sự trưởng thành này, là một kho báu lớn, nhưng nó không phải là hậu quả trực tiếp của lối sống (status of life),” Shevchuk nói trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Crux.
Khi được hỏi ngài sẽ đưa ra lời khuyên gì, vị giám chức người Ukraina, được gọi chính thức là “Thượng phụ” (“His Beatitude”), nói ngắn gọn: “Hãy thận trọng!”
Hơn nữa, Shevchuk nói, các linh mục đã lập gia đình tạo ra những thách thức hoàn toàn mới trong việc huấn luyện và cuộc sống linh mục, những cuộc tranh luận hoàn toàn tập trung vào một câu trả lời “có” hoặc “không” thường bỏ qua điều đó.
“Thông thường, các giám mục của chúng tôi lo lắng không chỉ về chủng sinh mà còn về bạn gái của anh ấy, và chúng tôi cũng đã lập một chương trình huấn luyện cho những phụ nữ này”, ngài nói. “Đôi khi sau hai hoặc ba lần gặp gỡ, họ nhận ra rằng họ không muốn là vợ của một linh mục. Điều này cũng có thể khiến mọi thứ phức tạp hơn. “
Về những vấn đề khác, Shevchuk khen ngợi sự hiện diện của những người trẻ tại Thượng hội đồng: “Họ là những hạt nhân sôi nổi nhất trong nhóm chúng tôi, tạo ra những ý tưởng và giải pháp mới nhất. Vì vậy, đó là một thực tế rất quan trọng cho sự thành công của Thượng hội đồng. “
Ngài nói rằng có rất ít căng thẳng thực sự trong hội trường của Thượng Hội đồng: “Khi bạn đứng trước mặt một người có nhu cầu, những người cần được đồng hành, thấu hiểu, chăm sóc, một người mà Giáo Hội ngày nay, là một người mẹ tốt, được mời gọi trao ban tinh thần của mình, sự ấm áp của người mẹ, điều đó kết hợp tất cả chúng ta. “
Ngài nói rằng các Giáo hội Đông phương chưa bị các vụ bê bối lạm dụng tình dục lớn: “Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đã được bảo vệ khỏi sự lạm dụng quyền lực và tinh thần giáo sĩ trị bởi thực tế là, trong Khối Xô Viết, Giáo hội của chúng tôi không có quyền gì cả. “
Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng không có lý do gì để tự mãn: “Chúng tôi phải cẩn thận không để mất quyền lực đạo đức của mình, bởi vì nó là kho báu duy nhất của chúng tôi. Nếu Giáo hội mất quyền lực đạo đức tại Ukraina, thì sự mất mát của chúng tôi sẽ còn bi đát hơn nữa. “
Cuộc phỏng vấn với Shevchuk diễn ra vào ngày 13 tháng 10 bằng tiếng Ý, và được dịch sang tiếng Anh bởi Tạp chí Crux.
Đâu là ấn tượng của ngài về Thượng hội đồng?
Đây đã là lần thứ tư của tôi. Lần đầu tiên là về Tân Phúc âm hoá, dưới thời của Đức Giáo Hoàng Benedictô. Vào thời điểm đó, tôi được chỉ định trong hội đồng thường trực của Thượng hội đồng, vì vậy tôi là một trong những người chuẩn bị Thượng hội đồng, cả cho khoá bình thường lẫn bất thường. Và bây giờ tôi tham gia vào Thượng hội đồng này trong tư cách người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Ucraina.
Tôi phải nói rằng ấn tượng của tôi rất tích cực. Đặc biệt là Tài liệu làm việc, so với những tài liệu của các Thượng hội đồng khác, đây là một trong những tài liệu tốt nhất. Rõ ràng, đây là một bản văn sẽ biến đi, sẽ chết. Hôm nay chúng ta tranh luận, chỉ trích, làm việc trong các nhóm nhỏ, nhưng như một sự khởi đầu nó rất tốt.
Điều rất thú vị khác là sự tham gia tuyệt vời của những người trẻ, họ cảm thấy mình như những nhân vật chính trong Thượng hội đồng này. Trong nhóm nhỏ của tôi, chúng tôi có bốn người trẻ, một đến từ Úc, một từ Nigeria, một cô gái đến từ Nga và một cô gái đến từ Hà Lan. Họ là những hạt nhân sôi nổi nhất trong nhóm chúng tôi, tạo ra những ý tưởng và giải pháp mới nhất. Vì vậy, đó là một thực tế rất quan trọng cho sự thành công của Thượng hội đồng.
Phần mà Đức Giáo Hoàng đã dành ra như một khoảnh khắc lắng nghe đã diễn ra. Nhưng bây giờ chúng ta phải tiến lên phía trước, bởi vì chỉ đơn giản lắng nghe là quá ít. Chúng ta cần biện biệt và đưa ra một số quyết định cụ thể và hành động.
Ấn tượng của tôi là trong Thượng hội đồng này không có những căng thẳng lớn, những tranh luận lớn. Đó có phải là ấn tượng của ngài không?
Chắc chắn rồi. Tự chủ đề, bao gồm cả tính chủ quan của những người trẻ, đang thức tỉnh một cảm thức của người cha trong trái tim của Giáo Hội và cũng trong số các nghị phụ. Nó không phải là tranh cãi về ý tưởng, bởi vì điều này tạo ra những căng thẳng, bởi vì mọi người đều có những ý tưởng khác nhau. Nhưng khi bạn đứng trước mặt một người có nhu cầu, những người cần được đồng hành, thấu hiểu, chăm sóc, một người mà Giáo Hội ngày nay, là một người mẹ tốt, được mời gọi trao ban tinh thần của mình, sự ấm áp của người mẹ, điều đó kết hợp tất cả chúng ta.
Rõ ràng là chúng ta đến từ các bối cảnh khác nhau. Điều ở một nơi là một trường hợp khẩn cấp mục vụ thì không phải là như vậy ở Nigeria, hoặc ở Ukraina. Nhưng thực tế là không có những căng thẳng lớn. Thượng hội đồng nhất trí, có cảm giác như một trái tim và một tinh thần. Vì lý do này, tôi phải nói rằng tinh thần tham dự vào sự hiệp thông cũng rất tuyệt vời. Chúng tôi chia sẻ ý kiến của mình. Và cũng thú vị là những người trẻ có mặt trong phòng phản ứng lại với từng bài phát biểu và lấy lập trường. Bạn có thể cảm nhận được rằng điều chúng ta nói và suy nghĩ có tương ứng với những mong chờ của họ không. Có đáp trả ngay lập tức, có phản hồi. Và điều này thực sự đã tạo ra một bầu khí rất tích cực.
Theo ngài, đâu là các chủ đề lớn của Thượng hội đồng dựa vào đó cần đưa ra những quyết định?
Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho Thượng hội đồng là một câu hỏi liên quan giáo hội học. Giáo hội là một tổ chức như thế nào?Tại sao?
Bởi vì có một sự ngờ vực nào đó từ những người trẻ đối với các thể chế ngày nay. Điều này chúng ta thấy ở Ukraina khi họ đến với chính phủ và các tổ chức khác. Những gì người trẻ ngày nay cần là cộng đoàn. Rõ ràng, hình thức thể chế phải được giải thích lại, bởi vì thể chế là một công cụ để phục vụ cộng đoàn. Nhiều người trẻ cảm thấy bị bỏ rơi bởi gia đình, bởi xã hội, và có kỳ vọng lớn lao này là Giáo Hội sẽ không từ bỏ họ. Giáo Hội phải là một cộng đoàn nơi bạn có thể có các điều kiện để trưởng thành và phát triển, với giáo dục và đào tạo cả về kitô hữu lẫn nhân bản.
Đây là một thời gian rất thú vị. Tôi phải nói rằng trong một thời gian dài trong đời linh mục của tôi, tôi là người đào tạo trong chủng viện. Vấn đề biện biệt ơn gọi là trung tâm không chỉ cho việc đào tạo trong chủng viện, mà còn đối với thừa tác vụ cho người trẻ.
Người làm công tác đồng hành, người cha linh hướng, người cố vấn về mặt tâm linh này phải có mặt trong đời sống của mọi người trẻ. Nhiều giám mục đã phát biểu rằng chúng ta thấy ít người có khả năng đồng hành. Làm thế nào để cổ võ sứ vụ này vốn là một ơn gọi trong thừa tác vụ của Giáo Hội? Theo tôi, những lựa chọn về cách thức đồng hành phải có tính cách mục vụ.
Theo ý kiến của tôi, Giáo Hội phải luôn đào sâu khái niệm về Giáo Hội như một cộng đoàn mang tính sinh sản. Có một phần của tài liệu nói về Giáo Hội như một người sinh sản, bởi vì Giáo Hội là một người mẹ có khả năng sinh sản. Nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sinh ra con cái của Thiên Chúa và của Giáo Hội. Nhưng ngày nay, vì nhiều lý do, chúng ta ngày càng trở thành một xã hội của những kẻ mồ côi. Đó là điều cơ bản để tái khám phá khuôn mặt mẫu tử của Giáo Hội, chăm sóc con cái một cách nghiêm túc.
Nói về khuôn mặt mẫu tử của Giáo Hội, ngài biết rất rõ rằng, ở nhiều nơi trên thế giới, rất khó cho những người trẻ nhìn thấy khuôn mặt này vì những vụ bê bối, đặc biệt là những chuyện liên quan đến tình dục. Đó có phải là một vấn đề cho Giáo hội của ngài không?
Tôi nghĩ rằng đó là một vấn đề có liên quan đến tất cả mọi người bởi vì, liên quan đến vấn đề lạm dụng, lạm dụng tình dục chỉ là một hình thức. Có nhiều loại lạm dụng: lạm dụng quyền lực, tiền bạc, tin cậy, không chỉ trong Giáo Hội mà trong văn hóa mà chúng ta đang sống. Chúng tôi không miễn dịch với những vấn đề này. Hiện tại, trong Giáo Hội của chúng tôi, nói chung, vấn đề lạm dụng tình dục không bi đát như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của Giáo Hội ở Ai-len, Chi-lê hay Hoa Kỳ. Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đã được bảo vệ khỏi sự lạm dụng quyền lực và tinh thần giáo sĩ trị bởi thực tế là, trong Khối Xô Viết, Giáo hội của chúng tôi không có quyền gì cả.
Quyền bính duy nhất chúng tôi có, và chúng tôi tiếp tục có nó cho đến ngày nay, là một quyền bính đạo đức. Tại sao? Bởi vì chúng tôi bị bức hại vì đức tin của chúng tôi. Chúng tôi đã bị bức hại vì điều chúng tôi là. Trong cuộc bức hại này, hôm nay chúng ta thấy tính xác thực đang nổi lên. Bởi vì là một Kitô hữu trong một quốc gia vô thần không phải là phổ biến, nó đi ngược lại với dòng đời.
Có lẽ hôm nay, là một người Công Giáo ở Ukraina không phải là thời trang, nhưng chúng tôi là người Công Giáo. Chúng tôi thật sự tin rằng chúng tôi có một sứ mệnh, là nhân chứng của sự hiệp nhất của Giáo Hội. Nếu chúng ta nói về Ukraina, trong thế kỷ 20 đã có rất nhiều lạm dụng quyền lực và tin tưởng, ngay cả trong Giáo Hội, trong khi tại xã hội phương Tây, chúng ta đã được Chúa đặt trong một hoàn cảnh khác.
Nhưng tôi phải nói rằng chúng tôi cũng là những kẻ tội lỗi được tha thứ. Chúng tôi không thể nói rằng chúng tôi sẽ mãi mãi miễn dịch với một số vấn đề nhất định.
Phải chăng có một nỗi lo sợ rằng hiện tình Giáo hội Ucraina đã thay đổi, bởi vì ngài có thể công khai là người Công Giáo ở Ukraina, sẽ có một “chậm trễ” và tất cả những vấn đề này đã ảnh hưởng đến Giáo hội phổ quát trong 100 năm qua giờ đây cũng sẽ trở thành một vấn đề cho Giáo hội ngài?
Vâng. Tôi tin rằng chúng tôi có nhiều điều để học hỏi từ Giáo Hội Latinh ở nhiều nước trên thế giới. Tôi đồng ý rằng tất cả những cách sống hiện đại ấy đang bắt đầu đến Ukraina. Ukraina là một xã hội trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ. Ví dụ, cuộc cách mạng tình dục mà phương Tây đã có trong những năm 1960 mới chỉ đến ở Ukraina. Chúng tôi ý thức rằng, với tư cách là Kitô hữu và là một Giáo hội, chúng tôi đang bị thách thức.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể học hỏi từ kinh nghiệm của Giáo Hội ở các nước phương Tây. Có thể xem đó như là một cảnh báo cho chúng tôi, không chỉ áp dụng một số thực hành và kỷ luật nhất định, mà còn đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ trẻ vị thành niên, và cổ võ việc huấn luyện toàn diện về đạo đức tính dục của Giáo Hội. Chúng tôi phải cẩn thận để không mất quyền lực đạo đức của chúng tôi, bởi vì nó là kho báu duy nhất của chúng tôi.
Nhưng, nếu Giáo hội mất quyền lực đạo đức ở Ukraina, thì sự mất mát của chúng tôi sẽ còn bi đát hơn.
Có thể nói rằng cũng tại Ukraina chính sách của Giáo hội khi nói đến lạm dụng tình dục của giáo sĩ là không khoan dung?
Vâng. Chúng tôi cũng đã thảo luận điều này tại Hội đồng của chúng tôi, vào tháng Chín. Chúng tôi đã viết một lá thư gởi cho Đức Giáo Hoàng, ủng hộ Đấng kế vị Thánh Phêrô trong sứ vụ của ngài và chia sẻ nỗi đau khổ của ngài dành cho Giáo Hội. Chúng tôi tuyên bố không khoan dung cho những hành vi lạm dụng đó và cam kết bảo vệ, hành động cho những ai có thể là nạn nhân của bất kỳ loại lạm dụng nào: quyền lực, lòng tin, lương tâm, lạm dụng tình dục, trong bàn tay của bất kỳ người đại diện nào của Giáo Hội.
Ngoài ra, ở mỗi nơi trên thế giới, các giám mục của chúng tôi thuộc về các hội đồng giám mục theo nghi lễ Latinh, vì vậy họ áp dụng các biện pháp bảo vệ này trong giáo phận của họ, theo kỷ luật của đất nước.
Đối với chúng tôi ở Ukraina, cùng với hội đồng giám mục La tinh, chúng tôi đã ban hành một hướng dẫn về cách tiến hành nếu một trường hợp ấu dâm được phát hiện. Tài liệu này được ra đời theo yêu cầu rõ ràng của Thánh bộ Giáo lý Đức Tin. Tôi muốn cảm ơn Thánh bộ vì đã yêu cầu chúng tôi làm điều này, ngay cả khi hiện tại chúng tôi chưa nhận thấy nhu cầu thực tế ở Ukraine. Chúng tôi phải học hỏi từ Giáo Hội Tây phương. Chúng tôi phải được chuẩn bị, cảnh báo và nhạy cảm về vấn đề này.
Vào tháng Hai, sẽ có một cuộc họp ở Roma quy tụ tất cả các Chủ tịch Hội đồng giám mục từ khắp nơi trên thế giới về lạm dụng tình dục. Có những kinh nghiệm mà các Giáo hội phương Đông có thể chia sẻ với Giáo hội Latinh không?
Vâng. Tôi sẽ tham gia cuộc gặp gỡ này. Đối với tôi, đó sẽ là một dịp tuyệt vời để lắng nghe, để chia sẻ với người khác. Tôi sẽ tham gia vì cuộc họp này là một phần của chính sách không khoan nhượng mà Đức Thánh Cha muốn áp dụng một cách minh bạch nhất. Đó cũng là điều mà chúng tôi muốn áp dụng, không chỉ như một chính sách, mà còn thông qua các biện pháp cụ thể.
Tất cả những vị đứng đầu các Giáo hội Đông Phương sẽ tham dự?
Tôi hy vọng như vậy bởi vì trong mọi cơ quan của Toà thánh, các vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục và người đứng đầu các Giáo Hội Đông Phương đều bình đẳng. Vì lý do này, tôi nghĩ rằng tôi sẽ phải tham gia ex-ufficio (theo chức vụ).
Tôi phải nói rằng Giáo Hội của chúng tôi cũng có một số kinh nghiệm để chia sẻ, bởi vì đại đa số linh mục của chúng tôi đều đã kết hôn. Sự kiện là có các linh mục kết hôn không có nghĩa là chúng tôi được miễn dịch chống lại sự ác này. Chúng ta biết rằng, trên thế giới, đại đa số các trường hợp ấu dâm xảy ra trong gia đình. Chúng tôi cần tạo ra một nền văn hóa bảo vệ, không khoan dung, không phải là một hệ thống che giấu sự ác này.
Tôi phải nói rằng, bởi thực tế là họ có con riêng của họ, các linh mục của chúng tôi có một mối quan hệ tự nhiên hơn với trẻ em. Họ thường là những người giáo dục cho con cái của họ và cũng cho con cái của những người tham gia các giáo xứ của họ. Kinh nghiệm làm cha của gia đình riêng giúp họ đối xử với trẻ một cách lành mạnh. Và Giáo Hội được kêu gọi để giúp những đứa trẻ này trưởng thành.
Như ngài đã nói, ơn gọi linh mục trong Giáo hội Ucraina hơi khác một chút bởi vì các linh mục có thể kết hôn. Ngài có lời khuyên nào cho những người ngày nay yêu cầu Giáo hội Latinh cho phép các linh mục kết hôn không?
Hãy thận trọng! Nếu chúng tôi phải đưa ra lời khuyên, tôi sẽ nói rằng việc gỡ bỏ luật độc thân khỏi chức linh mục sẽ không giải quyết được vấn đề. Kinh nghiệm của tôi là quả thực có những linh mục thánh thiện đã lập gia đình. .. sự thánh thiện này, sự trưởng thành này, là một kho báu lớn, nhưng nó không phải là hậu quả trực tiếp của lối sống.
Trong quá trình phân định ơn gọi, có một thách thức khác. Không phải là việc dễ dàng khi đồng hành một chủng sinh về tình trạng nào, kết hôn hoặc độc thân, anh ta nên chọn khi tiến gần chức linh mục.
Vào thời điểm nào theo quy luật của ngài, các chủng sinh phải đưa ra quyết định này?
Hiện nay, trong lúc họ đang ở chủng viện. Rõ ràng, có những ngoại lệ. Các chủng viện của chúng tôi chỉ chấp nhận những thanh niên chưa kết hôn. Sở dĩ vậy là bởi vì hầu như không thể đảm bảo một giai đoạn thanh thản để biện biệt trong quá trình đào tạo [sau khi kết hôn]. Nếu một người đã lập gia đình bước vào chủng viện, về cơ bản họ phải rời bỏ gia đình của họ trong sáu năm.
Tôi nhớ vào đầu những năm 1990, khi Giáo hội chúng tôi nổi lên từ hầm trú, chúng tôi chấp nhận tất cả mọi người trong các chủng viện, bởi vì có nhu cầu rất lớn về các linh mục. Mỗi tuần, tôi thấy tận mắt mình sự đau khổ của những gia đình thiếu vắng người cha. Đây là một bi kịch từ viễn tượng nhân bản, thiêng liêng, và cũng từ viễn tượng kinh tế.
Khi tôi là Giám đốc chủng viện, với sự đồng ý của giám mục, tôi đã soạn ra một chương trình cho các ơn gọi muộn. Nếu một người cha của đứa trẻ muốn bắt đầu con đường đào tạo tiến tới chức linh mục, sau khi đã có một nền giáo dục đại học, chúng tôi đã giúp anh ta sống đời sống cộng đoàn trong chủng viện mà không bắt anh ta rời khỏi gia đình. Chúng tôi đã giúp anh ta học tập và được đào tạo mà không rời bỏ nghề nghiệp của anh ấy, bởi vì anh ta phải hỗ trợ gia đình của mình. Đó là một tiến trình rất cá nhân, điều mà chúng tôi có thể làm trong chủng viện của chúng tôi. Chúng tôi đã thành công một phần, bởi vì chương trình này đã sản xuất sáu linh mục.
Các chủng sinh không thể kết hôn khi họ đang ở trong chủng viện. Tuy nhiên, trong nửa sau của chương trình học, họ thường có bạn gái. Đây cũng là một thời kỳ rất tế nhị. Mối quan hệ qua email và skype rất mạnh, đôi khi trong quá trình đào tạo, khó có thể tập trung sự chú ý của chủng sinh trong cộng đoàn, bởi vì có ai đó từ bên ngoài kéo anh ta.
Họ phải lựa chọn kết hôn hoặc sống độc thân trước khi thụ phong chức phó tế. Thường xảy ra là một ứng sinh được mời gọi kết hôn, một người cha, phải chờ một vài năm để tìm đúng người. Nhiều chủng sinh của chúng tôi không được thụ phong vì sau khi hoàn tất việc học tại chủng viện, họ đến Roma để học cao hơn. Chỉ sau khi hoàn thành việc học này, họ mới có thể được thụ phong. Bạn không thể sống như một linh mục đã lập gia đình ở một trường đại học Roma.
Cuộc khủng hoảng của gia đình cũng dính dáng đến các gia đình linh mục. Thông thường, các giám mục của chúng tôi lo lắng không chỉ về chủng sinh mà còn bạn gái của anh ấy, và chúng tôi cũng đã lập một chương trình cho những người phụ nữ này. Thông thường, sau hai hoặc ba lần gặp gỡ, họ nhận ra rằng họ không muốn làm vợ của một linh mục. Điều này cũng có thể khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn.
Vì vậy, để trả lời câu hỏi của anh, chúng tôi sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của chúng tôi, nhưng quyết định phải được thực hiện bởi Giáo hội Latinh. Tôi phải nói rằng đây không phải là chủ đề của Thượng hội đồng này, vấn đề độc thân không được thảo luận trong hội trường hay trong các nhóm nhỏ.
Thiếu linh mục thường cực kỳ cấp bách ở các vùng của Amazon, và một số giám mục từ khu vực này từ lâu đã ủng hộ ý tưởng về việc phong chức cho viri probati, nghĩa những người đàn ông lập gia đình đã được thử thách.
Trong khi đó ở phương Tây, một số tiếng nói đã khơi lại ý tưởng về một chức tư tế có kết hôn, như là một đáp trả đối với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ, cho rằng hôn nhân sẽ cung cấp cho các linh mục cơ hội thể hiện tính dục của họ theo những cách thế lành mạnh và không lạm dụng.
Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk của Giáo Hội Công Giáo Ukraina Hy Lạp, lớn nhất trong số 22 Giáo Hội Công Giáo Đông phương hiệp thông với Rôma, mang nhiều thế kỷ kinh nghiệm về các linh mục kết hôn, có một thông điệp cơ bản cho các đối tác phương Tây của ngài: “Đừng nhanh như thế!”
“Nếu chúng tôi phải đưa ra lời khuyên, tôi sẽ nói rằng gỡ bỏ luật độc thân khỏi chức linh mục sẽ không giải quyết được vấn đề. Kinh nghiệm của tôi là quả thực có những linh mục thánh thiện đã lập gia đình. .. sự thánh thiện này, sự trưởng thành này, là một kho báu lớn, nhưng nó không phải là hậu quả trực tiếp của lối sống (status of life),” Shevchuk nói trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Crux.
Khi được hỏi ngài sẽ đưa ra lời khuyên gì, vị giám chức người Ukraina, được gọi chính thức là “Thượng phụ” (“His Beatitude”), nói ngắn gọn: “Hãy thận trọng!”
Hơn nữa, Shevchuk nói, các linh mục đã lập gia đình tạo ra những thách thức hoàn toàn mới trong việc huấn luyện và cuộc sống linh mục, những cuộc tranh luận hoàn toàn tập trung vào một câu trả lời “có” hoặc “không” thường bỏ qua điều đó.
“Thông thường, các giám mục của chúng tôi lo lắng không chỉ về chủng sinh mà còn về bạn gái của anh ấy, và chúng tôi cũng đã lập một chương trình huấn luyện cho những phụ nữ này”, ngài nói. “Đôi khi sau hai hoặc ba lần gặp gỡ, họ nhận ra rằng họ không muốn là vợ của một linh mục. Điều này cũng có thể khiến mọi thứ phức tạp hơn. “
Về những vấn đề khác, Shevchuk khen ngợi sự hiện diện của những người trẻ tại Thượng hội đồng: “Họ là những hạt nhân sôi nổi nhất trong nhóm chúng tôi, tạo ra những ý tưởng và giải pháp mới nhất. Vì vậy, đó là một thực tế rất quan trọng cho sự thành công của Thượng hội đồng. “
Ngài nói rằng có rất ít căng thẳng thực sự trong hội trường của Thượng Hội đồng: “Khi bạn đứng trước mặt một người có nhu cầu, những người cần được đồng hành, thấu hiểu, chăm sóc, một người mà Giáo Hội ngày nay, là một người mẹ tốt, được mời gọi trao ban tinh thần của mình, sự ấm áp của người mẹ, điều đó kết hợp tất cả chúng ta. “
Ngài nói rằng các Giáo hội Đông phương chưa bị các vụ bê bối lạm dụng tình dục lớn: “Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đã được bảo vệ khỏi sự lạm dụng quyền lực và tinh thần giáo sĩ trị bởi thực tế là, trong Khối Xô Viết, Giáo hội của chúng tôi không có quyền gì cả. “
Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng không có lý do gì để tự mãn: “Chúng tôi phải cẩn thận không để mất quyền lực đạo đức của mình, bởi vì nó là kho báu duy nhất của chúng tôi. Nếu Giáo hội mất quyền lực đạo đức tại Ukraina, thì sự mất mát của chúng tôi sẽ còn bi đát hơn nữa. “
Cuộc phỏng vấn với Shevchuk diễn ra vào ngày 13 tháng 10 bằng tiếng Ý, và được dịch sang tiếng Anh bởi Tạp chí Crux.
Đâu là ấn tượng của ngài về Thượng hội đồng?
Đây đã là lần thứ tư của tôi. Lần đầu tiên là về Tân Phúc âm hoá, dưới thời của Đức Giáo Hoàng Benedictô. Vào thời điểm đó, tôi được chỉ định trong hội đồng thường trực của Thượng hội đồng, vì vậy tôi là một trong những người chuẩn bị Thượng hội đồng, cả cho khoá bình thường lẫn bất thường. Và bây giờ tôi tham gia vào Thượng hội đồng này trong tư cách người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Ucraina.
Tôi phải nói rằng ấn tượng của tôi rất tích cực. Đặc biệt là Tài liệu làm việc, so với những tài liệu của các Thượng hội đồng khác, đây là một trong những tài liệu tốt nhất. Rõ ràng, đây là một bản văn sẽ biến đi, sẽ chết. Hôm nay chúng ta tranh luận, chỉ trích, làm việc trong các nhóm nhỏ, nhưng như một sự khởi đầu nó rất tốt.
Điều rất thú vị khác là sự tham gia tuyệt vời của những người trẻ, họ cảm thấy mình như những nhân vật chính trong Thượng hội đồng này. Trong nhóm nhỏ của tôi, chúng tôi có bốn người trẻ, một đến từ Úc, một từ Nigeria, một cô gái đến từ Nga và một cô gái đến từ Hà Lan. Họ là những hạt nhân sôi nổi nhất trong nhóm chúng tôi, tạo ra những ý tưởng và giải pháp mới nhất. Vì vậy, đó là một thực tế rất quan trọng cho sự thành công của Thượng hội đồng.
Phần mà Đức Giáo Hoàng đã dành ra như một khoảnh khắc lắng nghe đã diễn ra. Nhưng bây giờ chúng ta phải tiến lên phía trước, bởi vì chỉ đơn giản lắng nghe là quá ít. Chúng ta cần biện biệt và đưa ra một số quyết định cụ thể và hành động.
Ấn tượng của tôi là trong Thượng hội đồng này không có những căng thẳng lớn, những tranh luận lớn. Đó có phải là ấn tượng của ngài không?
Chắc chắn rồi. Tự chủ đề, bao gồm cả tính chủ quan của những người trẻ, đang thức tỉnh một cảm thức của người cha trong trái tim của Giáo Hội và cũng trong số các nghị phụ. Nó không phải là tranh cãi về ý tưởng, bởi vì điều này tạo ra những căng thẳng, bởi vì mọi người đều có những ý tưởng khác nhau. Nhưng khi bạn đứng trước mặt một người có nhu cầu, những người cần được đồng hành, thấu hiểu, chăm sóc, một người mà Giáo Hội ngày nay, là một người mẹ tốt, được mời gọi trao ban tinh thần của mình, sự ấm áp của người mẹ, điều đó kết hợp tất cả chúng ta.
Rõ ràng là chúng ta đến từ các bối cảnh khác nhau. Điều ở một nơi là một trường hợp khẩn cấp mục vụ thì không phải là như vậy ở Nigeria, hoặc ở Ukraina. Nhưng thực tế là không có những căng thẳng lớn. Thượng hội đồng nhất trí, có cảm giác như một trái tim và một tinh thần. Vì lý do này, tôi phải nói rằng tinh thần tham dự vào sự hiệp thông cũng rất tuyệt vời. Chúng tôi chia sẻ ý kiến của mình. Và cũng thú vị là những người trẻ có mặt trong phòng phản ứng lại với từng bài phát biểu và lấy lập trường. Bạn có thể cảm nhận được rằng điều chúng ta nói và suy nghĩ có tương ứng với những mong chờ của họ không. Có đáp trả ngay lập tức, có phản hồi. Và điều này thực sự đã tạo ra một bầu khí rất tích cực.
Theo ngài, đâu là các chủ đề lớn của Thượng hội đồng dựa vào đó cần đưa ra những quyết định?
Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho Thượng hội đồng là một câu hỏi liên quan giáo hội học. Giáo hội là một tổ chức như thế nào?Tại sao?
Bởi vì có một sự ngờ vực nào đó từ những người trẻ đối với các thể chế ngày nay. Điều này chúng ta thấy ở Ukraina khi họ đến với chính phủ và các tổ chức khác. Những gì người trẻ ngày nay cần là cộng đoàn. Rõ ràng, hình thức thể chế phải được giải thích lại, bởi vì thể chế là một công cụ để phục vụ cộng đoàn. Nhiều người trẻ cảm thấy bị bỏ rơi bởi gia đình, bởi xã hội, và có kỳ vọng lớn lao này là Giáo Hội sẽ không từ bỏ họ. Giáo Hội phải là một cộng đoàn nơi bạn có thể có các điều kiện để trưởng thành và phát triển, với giáo dục và đào tạo cả về kitô hữu lẫn nhân bản.
Đây là một thời gian rất thú vị. Tôi phải nói rằng trong một thời gian dài trong đời linh mục của tôi, tôi là người đào tạo trong chủng viện. Vấn đề biện biệt ơn gọi là trung tâm không chỉ cho việc đào tạo trong chủng viện, mà còn đối với thừa tác vụ cho người trẻ.
Người làm công tác đồng hành, người cha linh hướng, người cố vấn về mặt tâm linh này phải có mặt trong đời sống của mọi người trẻ. Nhiều giám mục đã phát biểu rằng chúng ta thấy ít người có khả năng đồng hành. Làm thế nào để cổ võ sứ vụ này vốn là một ơn gọi trong thừa tác vụ của Giáo Hội? Theo tôi, những lựa chọn về cách thức đồng hành phải có tính cách mục vụ.
Theo ý kiến của tôi, Giáo Hội phải luôn đào sâu khái niệm về Giáo Hội như một cộng đoàn mang tính sinh sản. Có một phần của tài liệu nói về Giáo Hội như một người sinh sản, bởi vì Giáo Hội là một người mẹ có khả năng sinh sản. Nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sinh ra con cái của Thiên Chúa và của Giáo Hội. Nhưng ngày nay, vì nhiều lý do, chúng ta ngày càng trở thành một xã hội của những kẻ mồ côi. Đó là điều cơ bản để tái khám phá khuôn mặt mẫu tử của Giáo Hội, chăm sóc con cái một cách nghiêm túc.
Nói về khuôn mặt mẫu tử của Giáo Hội, ngài biết rất rõ rằng, ở nhiều nơi trên thế giới, rất khó cho những người trẻ nhìn thấy khuôn mặt này vì những vụ bê bối, đặc biệt là những chuyện liên quan đến tình dục. Đó có phải là một vấn đề cho Giáo hội của ngài không?
Tôi nghĩ rằng đó là một vấn đề có liên quan đến tất cả mọi người bởi vì, liên quan đến vấn đề lạm dụng, lạm dụng tình dục chỉ là một hình thức. Có nhiều loại lạm dụng: lạm dụng quyền lực, tiền bạc, tin cậy, không chỉ trong Giáo Hội mà trong văn hóa mà chúng ta đang sống. Chúng tôi không miễn dịch với những vấn đề này. Hiện tại, trong Giáo Hội của chúng tôi, nói chung, vấn đề lạm dụng tình dục không bi đát như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của Giáo Hội ở Ai-len, Chi-lê hay Hoa Kỳ. Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đã được bảo vệ khỏi sự lạm dụng quyền lực và tinh thần giáo sĩ trị bởi thực tế là, trong Khối Xô Viết, Giáo hội của chúng tôi không có quyền gì cả.
Quyền bính duy nhất chúng tôi có, và chúng tôi tiếp tục có nó cho đến ngày nay, là một quyền bính đạo đức. Tại sao? Bởi vì chúng tôi bị bức hại vì đức tin của chúng tôi. Chúng tôi đã bị bức hại vì điều chúng tôi là. Trong cuộc bức hại này, hôm nay chúng ta thấy tính xác thực đang nổi lên. Bởi vì là một Kitô hữu trong một quốc gia vô thần không phải là phổ biến, nó đi ngược lại với dòng đời.
Có lẽ hôm nay, là một người Công Giáo ở Ukraina không phải là thời trang, nhưng chúng tôi là người Công Giáo. Chúng tôi thật sự tin rằng chúng tôi có một sứ mệnh, là nhân chứng của sự hiệp nhất của Giáo Hội. Nếu chúng ta nói về Ukraina, trong thế kỷ 20 đã có rất nhiều lạm dụng quyền lực và tin tưởng, ngay cả trong Giáo Hội, trong khi tại xã hội phương Tây, chúng ta đã được Chúa đặt trong một hoàn cảnh khác.
Nhưng tôi phải nói rằng chúng tôi cũng là những kẻ tội lỗi được tha thứ. Chúng tôi không thể nói rằng chúng tôi sẽ mãi mãi miễn dịch với một số vấn đề nhất định.
Phải chăng có một nỗi lo sợ rằng hiện tình Giáo hội Ucraina đã thay đổi, bởi vì ngài có thể công khai là người Công Giáo ở Ukraina, sẽ có một “chậm trễ” và tất cả những vấn đề này đã ảnh hưởng đến Giáo hội phổ quát trong 100 năm qua giờ đây cũng sẽ trở thành một vấn đề cho Giáo hội ngài?
Vâng. Tôi tin rằng chúng tôi có nhiều điều để học hỏi từ Giáo Hội Latinh ở nhiều nước trên thế giới. Tôi đồng ý rằng tất cả những cách sống hiện đại ấy đang bắt đầu đến Ukraina. Ukraina là một xã hội trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ. Ví dụ, cuộc cách mạng tình dục mà phương Tây đã có trong những năm 1960 mới chỉ đến ở Ukraina. Chúng tôi ý thức rằng, với tư cách là Kitô hữu và là một Giáo hội, chúng tôi đang bị thách thức.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể học hỏi từ kinh nghiệm của Giáo Hội ở các nước phương Tây. Có thể xem đó như là một cảnh báo cho chúng tôi, không chỉ áp dụng một số thực hành và kỷ luật nhất định, mà còn đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ trẻ vị thành niên, và cổ võ việc huấn luyện toàn diện về đạo đức tính dục của Giáo Hội. Chúng tôi phải cẩn thận để không mất quyền lực đạo đức của chúng tôi, bởi vì nó là kho báu duy nhất của chúng tôi.
Nhưng, nếu Giáo hội mất quyền lực đạo đức ở Ukraina, thì sự mất mát của chúng tôi sẽ còn bi đát hơn.
Có thể nói rằng cũng tại Ukraina chính sách của Giáo hội khi nói đến lạm dụng tình dục của giáo sĩ là không khoan dung?
Vâng. Chúng tôi cũng đã thảo luận điều này tại Hội đồng của chúng tôi, vào tháng Chín. Chúng tôi đã viết một lá thư gởi cho Đức Giáo Hoàng, ủng hộ Đấng kế vị Thánh Phêrô trong sứ vụ của ngài và chia sẻ nỗi đau khổ của ngài dành cho Giáo Hội. Chúng tôi tuyên bố không khoan dung cho những hành vi lạm dụng đó và cam kết bảo vệ, hành động cho những ai có thể là nạn nhân của bất kỳ loại lạm dụng nào: quyền lực, lòng tin, lương tâm, lạm dụng tình dục, trong bàn tay của bất kỳ người đại diện nào của Giáo Hội.
Ngoài ra, ở mỗi nơi trên thế giới, các giám mục của chúng tôi thuộc về các hội đồng giám mục theo nghi lễ Latinh, vì vậy họ áp dụng các biện pháp bảo vệ này trong giáo phận của họ, theo kỷ luật của đất nước.
Đối với chúng tôi ở Ukraina, cùng với hội đồng giám mục La tinh, chúng tôi đã ban hành một hướng dẫn về cách tiến hành nếu một trường hợp ấu dâm được phát hiện. Tài liệu này được ra đời theo yêu cầu rõ ràng của Thánh bộ Giáo lý Đức Tin. Tôi muốn cảm ơn Thánh bộ vì đã yêu cầu chúng tôi làm điều này, ngay cả khi hiện tại chúng tôi chưa nhận thấy nhu cầu thực tế ở Ukraine. Chúng tôi phải học hỏi từ Giáo Hội Tây phương. Chúng tôi phải được chuẩn bị, cảnh báo và nhạy cảm về vấn đề này.
Vào tháng Hai, sẽ có một cuộc họp ở Roma quy tụ tất cả các Chủ tịch Hội đồng giám mục từ khắp nơi trên thế giới về lạm dụng tình dục. Có những kinh nghiệm mà các Giáo hội phương Đông có thể chia sẻ với Giáo hội Latinh không?
Vâng. Tôi sẽ tham gia cuộc gặp gỡ này. Đối với tôi, đó sẽ là một dịp tuyệt vời để lắng nghe, để chia sẻ với người khác. Tôi sẽ tham gia vì cuộc họp này là một phần của chính sách không khoan nhượng mà Đức Thánh Cha muốn áp dụng một cách minh bạch nhất. Đó cũng là điều mà chúng tôi muốn áp dụng, không chỉ như một chính sách, mà còn thông qua các biện pháp cụ thể.
Tất cả những vị đứng đầu các Giáo hội Đông Phương sẽ tham dự?
Tôi hy vọng như vậy bởi vì trong mọi cơ quan của Toà thánh, các vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục và người đứng đầu các Giáo Hội Đông Phương đều bình đẳng. Vì lý do này, tôi nghĩ rằng tôi sẽ phải tham gia ex-ufficio (theo chức vụ).
Tôi phải nói rằng Giáo Hội của chúng tôi cũng có một số kinh nghiệm để chia sẻ, bởi vì đại đa số linh mục của chúng tôi đều đã kết hôn. Sự kiện là có các linh mục kết hôn không có nghĩa là chúng tôi được miễn dịch chống lại sự ác này. Chúng ta biết rằng, trên thế giới, đại đa số các trường hợp ấu dâm xảy ra trong gia đình. Chúng tôi cần tạo ra một nền văn hóa bảo vệ, không khoan dung, không phải là một hệ thống che giấu sự ác này.
Tôi phải nói rằng, bởi thực tế là họ có con riêng của họ, các linh mục của chúng tôi có một mối quan hệ tự nhiên hơn với trẻ em. Họ thường là những người giáo dục cho con cái của họ và cũng cho con cái của những người tham gia các giáo xứ của họ. Kinh nghiệm làm cha của gia đình riêng giúp họ đối xử với trẻ một cách lành mạnh. Và Giáo Hội được kêu gọi để giúp những đứa trẻ này trưởng thành.
Như ngài đã nói, ơn gọi linh mục trong Giáo hội Ucraina hơi khác một chút bởi vì các linh mục có thể kết hôn. Ngài có lời khuyên nào cho những người ngày nay yêu cầu Giáo hội Latinh cho phép các linh mục kết hôn không?
Hãy thận trọng! Nếu chúng tôi phải đưa ra lời khuyên, tôi sẽ nói rằng việc gỡ bỏ luật độc thân khỏi chức linh mục sẽ không giải quyết được vấn đề. Kinh nghiệm của tôi là quả thực có những linh mục thánh thiện đã lập gia đình. .. sự thánh thiện này, sự trưởng thành này, là một kho báu lớn, nhưng nó không phải là hậu quả trực tiếp của lối sống.
Trong quá trình phân định ơn gọi, có một thách thức khác. Không phải là việc dễ dàng khi đồng hành một chủng sinh về tình trạng nào, kết hôn hoặc độc thân, anh ta nên chọn khi tiến gần chức linh mục.
Vào thời điểm nào theo quy luật của ngài, các chủng sinh phải đưa ra quyết định này?
Hiện nay, trong lúc họ đang ở chủng viện. Rõ ràng, có những ngoại lệ. Các chủng viện của chúng tôi chỉ chấp nhận những thanh niên chưa kết hôn. Sở dĩ vậy là bởi vì hầu như không thể đảm bảo một giai đoạn thanh thản để biện biệt trong quá trình đào tạo [sau khi kết hôn]. Nếu một người đã lập gia đình bước vào chủng viện, về cơ bản họ phải rời bỏ gia đình của họ trong sáu năm.
Tôi nhớ vào đầu những năm 1990, khi Giáo hội chúng tôi nổi lên từ hầm trú, chúng tôi chấp nhận tất cả mọi người trong các chủng viện, bởi vì có nhu cầu rất lớn về các linh mục. Mỗi tuần, tôi thấy tận mắt mình sự đau khổ của những gia đình thiếu vắng người cha. Đây là một bi kịch từ viễn tượng nhân bản, thiêng liêng, và cũng từ viễn tượng kinh tế.
Khi tôi là Giám đốc chủng viện, với sự đồng ý của giám mục, tôi đã soạn ra một chương trình cho các ơn gọi muộn. Nếu một người cha của đứa trẻ muốn bắt đầu con đường đào tạo tiến tới chức linh mục, sau khi đã có một nền giáo dục đại học, chúng tôi đã giúp anh ta sống đời sống cộng đoàn trong chủng viện mà không bắt anh ta rời khỏi gia đình. Chúng tôi đã giúp anh ta học tập và được đào tạo mà không rời bỏ nghề nghiệp của anh ấy, bởi vì anh ta phải hỗ trợ gia đình của mình. Đó là một tiến trình rất cá nhân, điều mà chúng tôi có thể làm trong chủng viện của chúng tôi. Chúng tôi đã thành công một phần, bởi vì chương trình này đã sản xuất sáu linh mục.
Các chủng sinh không thể kết hôn khi họ đang ở trong chủng viện. Tuy nhiên, trong nửa sau của chương trình học, họ thường có bạn gái. Đây cũng là một thời kỳ rất tế nhị. Mối quan hệ qua email và skype rất mạnh, đôi khi trong quá trình đào tạo, khó có thể tập trung sự chú ý của chủng sinh trong cộng đoàn, bởi vì có ai đó từ bên ngoài kéo anh ta.
Họ phải lựa chọn kết hôn hoặc sống độc thân trước khi thụ phong chức phó tế. Thường xảy ra là một ứng sinh được mời gọi kết hôn, một người cha, phải chờ một vài năm để tìm đúng người. Nhiều chủng sinh của chúng tôi không được thụ phong vì sau khi hoàn tất việc học tại chủng viện, họ đến Roma để học cao hơn. Chỉ sau khi hoàn thành việc học này, họ mới có thể được thụ phong. Bạn không thể sống như một linh mục đã lập gia đình ở một trường đại học Roma.
Cuộc khủng hoảng của gia đình cũng dính dáng đến các gia đình linh mục. Thông thường, các giám mục của chúng tôi lo lắng không chỉ về chủng sinh mà còn bạn gái của anh ấy, và chúng tôi cũng đã lập một chương trình cho những người phụ nữ này. Thông thường, sau hai hoặc ba lần gặp gỡ, họ nhận ra rằng họ không muốn làm vợ của một linh mục. Điều này cũng có thể khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn.
Vì vậy, để trả lời câu hỏi của anh, chúng tôi sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của chúng tôi, nhưng quyết định phải được thực hiện bởi Giáo hội Latinh. Tôi phải nói rằng đây không phải là chủ đề của Thượng hội đồng này, vấn đề độc thân không được thảo luận trong hội trường hay trong các nhóm nhỏ.