NHƯ CHIẾC ĐÈN NÀO TA CHỌN SỐNG ?
(Chúa Nhật IV MÙA CHAY NĂM A 2017)
Mở đầu sách Tin Mừng thứ 4, Thánh Tông Đồ Gioan đã viết : “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng…Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người…” (Ga 1,5.9).
Sau nầy, trong cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định chính Ngài là ánh sáng : “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
Trong khi đó cả 3 Tin Mừng Nhất lãm, khi tường thuật giây phút “lâm chung” của Chúa Giêsu đều đồng thanh nhắc đến sự cố “bóng tối bao trùm mặt đất từ giờ thứ sáu tới giờ thứ chín” : Chúa chết, dấu chỉ của “ánh sáng vụt tắt” và “bóng tối lên ngôi” !
Quả thật, Ánh Sáng – Bóng Tối đó là hai đối cực tượng trưng cho hai cuộc sống, hai thế giới, hai lãnh vực hoàn toàn đối nghịch nhau, cách xa nhau, triệt tiêu nhau. Và trong ngữ nghĩa Kinh Thánh, Ánh Sáng là tượng trưng cho chân lý và sự sống, cho vinh quang Thiên Chúa, cho niềm tin yêu hy vọng, cho ơn cứu độ, cho chính Đức Kitô…Còn Bóng Tối là quê hương của lầm lạc, tội lối, gian ác, xấu xa, ma quỷ….
Thật vậy, khi đưa mắt nhìn lại chiều dài của con đường cứu độ thì chúng ta thấy rõ điều nầy : nếu nguyên khởi của công trình Thiên Chúa tạo dựng chính là ánh sáng ; thì vào chiều Thứ Sáu, đỉnh cao của chối từ, xúc phạm, của bội phản vong ân, của hận thù quỷ quyệt…tất cả hùa nhau đóng đinh Con Chúa trên Đồi Sọ, thì lập tức, bóng tối đã bao phủ địa cầu !
Sứ điệp phụng vụ hôm nay tập chú vào “huyền nhiệm ánh sáng” để vừa dẫn lối đưa đường các anh chị em dự tòng đến một chọn lựa nghiêm túc : hoặc là ở lại trong bóng tối của lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, hoặc là bước tới ngưỡng cửa của đời sống mới trong ánh quang của con cái sự sáng qua bí tích Rửa tội ; đồng thời cũng gọi mời tất cả cộng đoàn tín hữu hãy mạnh mẽ tiến bước trên con đường của chân lý phúc âm và loại trừ mọi biểu hiện của cuộc sống ù lỳ trong bóng tối của tội lỗi.
Thế nhưng, để nhìn thấy ánh sáng, tiên quyết, cần có “đôi mắt của Thiên Chúa”.
Ánh sáng có rực sáng bao nhiêu, ban ngày có rạng rỡ thế nào, thì đối với người mang đôi mắt mù, tất cả cũng chỉ là bóng tối.
Trong đời thường cuộc sống, chính cái “hội chứng mù tâm linh”, mù tình người, mù nhân bản …sẽ biến xã hội thành tối tăm, cuộc đời chìm trong bóng đêm lạnh giá !
Câu chuyện ngụ ngôn “khi nào là đêm tối” hay những câu thơ trong bài thơ ngụ ngôn “Nhật vấn” của Đinh Kim Chung sau đây phần nào chuyển tải ý nghĩa nội dung trên :
Một hôm ta hỏi bóng đêm
Bao giờ trăng sẽ bỏ quên mặt trời?
Bóng đêm tối mặt trả lời
Khi nào cõi thực sống hời hợt thêm.
Cũng vậy, trong lãnh vực thiêng liêng, niềm tin cũng thế. Người ta sẽ không thể nhận ra Thiên Chúa, các công trình tuyệt diệu của Ngài, tình yêu cứu độ của Ngài, khi người ta bị mù loà tâm hồn. Lời Chúa hôm nay đề nghị chúng ta cần Thiên Chúa ban cho đôi mắt sáng thiêng liêng để nhìn bằng đôi mắt của chính Ngài. Nếu đôi mắt của I-sai ngày xưa chỉ nhìn thấy “diện mạo bên ngoài” thì với cái nhìn của Thiên Chúa, tiên tri Samuel đã “nhìn sâu tận đáy lòng” ; và vì thế, cậu con trai út Đa-Vít đã được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (BĐ 1). Đối với các anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo, thì việc trang bị “đôi mắt thiêng” đó chính là những tháng ngày chăm chuyên học hỏi giáo lý, kinh nguyện, sống đạo... Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, để có được đôi mắt sáng của Thiên Chúa thì phải sám hối, thanh lọc cõi lòng, ăn năn trở lại. Gỡ bỏ đi những cái nhìn đầy thiên kiến, ghét ghen, ích kỷ ; lột bỏ đi những chiếc gương đen của kết án, xét đoán, hoài nghi, thù hận ; vứt xa đi những chiếc mặt nạ giã hình, môi mép, vụ hình thức của những anh chàng biệt phái như trong chuyện kể Tin Mừng về phép lạ chữa khỏi chàng mù hôm nay…để thay bằng đôi mắt đức tin tinh ròng của người mù tự thuở mới sinh, mà lần đầu tiên diện kiến Đức Kitô, đã quỳ xuống thân thưa với tất cả tấm lòng đơn sơ khiêm hạ : “Lạy Ngài Con Tin”. (TM).
Đó cũng chính là điều mà trong BĐ 2, Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô đã nhắc bảo chúng ta : “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công bình chân thật…”
Chính khi được trang bị với đôi mắt mới ấy, một thế giới mới sẽ được hồi sinh trong ta và chung quanh ta. Nói cách khác, một khi tâm hồn ta tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ có nhiều sức mạnh, nghị lực và tình yêu để đẩy lùi những mãnh lực của bóng tối tội lỗi và sự chết.
Và công việc nầy lại không phải chỉ là cuộc chiến đấu tiêu cực, những lời nói suông, những dự định hay ho nhưng rỗng tuếch ; mà phải luôn là những hành động tích cực, như ngụ ý của một chuyện ngụ ngôn Ấn Độ sau đây :
Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich bên Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?
Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo. Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ. Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy đập bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.
Sau cùng thầy bảo các môn sinh : “Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến”.
Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.
Và giờ đây, “Ánh sáng cứu độ” đang ở giữa chúng ta, Đức Kitô đang thầm nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với anh chàng mù vừa được sáng mắt : “Người đó chính là kẻ anh đang nhìn thấy và đang nói với anh” (TM). Chúng ta hãy cầu xin cho các anh chị em dự tòng trên khăp thế giới và cho chính ta thật sự được gặp gỡ và đón nhận Đức Kitô, để ngay trong Thánh lễ nầy, có được lòng tin đơn sơ chân thành như anh chàng mù thuở trước và trên độ đường Mùa Chay thánh tiến về lễ Phục Sinh, tâm hồn chúng ta luôn rạng ngời ánh sáng niềm tin và chân lý, tình yêu và ân sủng.
Bởi vì, nếu chúng ta không mang lấy ánh sáng Chúa Kitô trên đôi tay để phục vụ, không giữ được ánh sáng của Chúa Kitô trong trái tim để yêu thương, thì danh xưng “anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14) mà Đức Kitô đã ước mong và dành cho mỗi người Kitô hữu chúng ta mãi mãi sẽ chẳng bao giờ hiện thực ; hay như cách ví von của chính Ngài : mãi mãi sẽ chỉ là “chiếc đèn nằm dưới đáy thùng” (Mt 5,15).
GiuseTrương Đình Hiền
(Chúa Nhật IV MÙA CHAY NĂM A 2017)
Mở đầu sách Tin Mừng thứ 4, Thánh Tông Đồ Gioan đã viết : “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng…Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người…” (Ga 1,5.9).
Sau nầy, trong cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định chính Ngài là ánh sáng : “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
Trong khi đó cả 3 Tin Mừng Nhất lãm, khi tường thuật giây phút “lâm chung” của Chúa Giêsu đều đồng thanh nhắc đến sự cố “bóng tối bao trùm mặt đất từ giờ thứ sáu tới giờ thứ chín” : Chúa chết, dấu chỉ của “ánh sáng vụt tắt” và “bóng tối lên ngôi” !
Quả thật, Ánh Sáng – Bóng Tối đó là hai đối cực tượng trưng cho hai cuộc sống, hai thế giới, hai lãnh vực hoàn toàn đối nghịch nhau, cách xa nhau, triệt tiêu nhau. Và trong ngữ nghĩa Kinh Thánh, Ánh Sáng là tượng trưng cho chân lý và sự sống, cho vinh quang Thiên Chúa, cho niềm tin yêu hy vọng, cho ơn cứu độ, cho chính Đức Kitô…Còn Bóng Tối là quê hương của lầm lạc, tội lối, gian ác, xấu xa, ma quỷ….
Thật vậy, khi đưa mắt nhìn lại chiều dài của con đường cứu độ thì chúng ta thấy rõ điều nầy : nếu nguyên khởi của công trình Thiên Chúa tạo dựng chính là ánh sáng ; thì vào chiều Thứ Sáu, đỉnh cao của chối từ, xúc phạm, của bội phản vong ân, của hận thù quỷ quyệt…tất cả hùa nhau đóng đinh Con Chúa trên Đồi Sọ, thì lập tức, bóng tối đã bao phủ địa cầu !
Sứ điệp phụng vụ hôm nay tập chú vào “huyền nhiệm ánh sáng” để vừa dẫn lối đưa đường các anh chị em dự tòng đến một chọn lựa nghiêm túc : hoặc là ở lại trong bóng tối của lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, hoặc là bước tới ngưỡng cửa của đời sống mới trong ánh quang của con cái sự sáng qua bí tích Rửa tội ; đồng thời cũng gọi mời tất cả cộng đoàn tín hữu hãy mạnh mẽ tiến bước trên con đường của chân lý phúc âm và loại trừ mọi biểu hiện của cuộc sống ù lỳ trong bóng tối của tội lỗi.
Thế nhưng, để nhìn thấy ánh sáng, tiên quyết, cần có “đôi mắt của Thiên Chúa”.
Ánh sáng có rực sáng bao nhiêu, ban ngày có rạng rỡ thế nào, thì đối với người mang đôi mắt mù, tất cả cũng chỉ là bóng tối.
Trong đời thường cuộc sống, chính cái “hội chứng mù tâm linh”, mù tình người, mù nhân bản …sẽ biến xã hội thành tối tăm, cuộc đời chìm trong bóng đêm lạnh giá !
Câu chuyện ngụ ngôn “khi nào là đêm tối” hay những câu thơ trong bài thơ ngụ ngôn “Nhật vấn” của Đinh Kim Chung sau đây phần nào chuyển tải ý nghĩa nội dung trên :
Một hôm ta hỏi bóng đêm
Bao giờ trăng sẽ bỏ quên mặt trời?
Bóng đêm tối mặt trả lời
Khi nào cõi thực sống hời hợt thêm.
Cũng vậy, trong lãnh vực thiêng liêng, niềm tin cũng thế. Người ta sẽ không thể nhận ra Thiên Chúa, các công trình tuyệt diệu của Ngài, tình yêu cứu độ của Ngài, khi người ta bị mù loà tâm hồn. Lời Chúa hôm nay đề nghị chúng ta cần Thiên Chúa ban cho đôi mắt sáng thiêng liêng để nhìn bằng đôi mắt của chính Ngài. Nếu đôi mắt của I-sai ngày xưa chỉ nhìn thấy “diện mạo bên ngoài” thì với cái nhìn của Thiên Chúa, tiên tri Samuel đã “nhìn sâu tận đáy lòng” ; và vì thế, cậu con trai út Đa-Vít đã được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (BĐ 1). Đối với các anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo, thì việc trang bị “đôi mắt thiêng” đó chính là những tháng ngày chăm chuyên học hỏi giáo lý, kinh nguyện, sống đạo... Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, để có được đôi mắt sáng của Thiên Chúa thì phải sám hối, thanh lọc cõi lòng, ăn năn trở lại. Gỡ bỏ đi những cái nhìn đầy thiên kiến, ghét ghen, ích kỷ ; lột bỏ đi những chiếc gương đen của kết án, xét đoán, hoài nghi, thù hận ; vứt xa đi những chiếc mặt nạ giã hình, môi mép, vụ hình thức của những anh chàng biệt phái như trong chuyện kể Tin Mừng về phép lạ chữa khỏi chàng mù hôm nay…để thay bằng đôi mắt đức tin tinh ròng của người mù tự thuở mới sinh, mà lần đầu tiên diện kiến Đức Kitô, đã quỳ xuống thân thưa với tất cả tấm lòng đơn sơ khiêm hạ : “Lạy Ngài Con Tin”. (TM).
Đó cũng chính là điều mà trong BĐ 2, Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô đã nhắc bảo chúng ta : “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công bình chân thật…”
Chính khi được trang bị với đôi mắt mới ấy, một thế giới mới sẽ được hồi sinh trong ta và chung quanh ta. Nói cách khác, một khi tâm hồn ta tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ có nhiều sức mạnh, nghị lực và tình yêu để đẩy lùi những mãnh lực của bóng tối tội lỗi và sự chết.
Và công việc nầy lại không phải chỉ là cuộc chiến đấu tiêu cực, những lời nói suông, những dự định hay ho nhưng rỗng tuếch ; mà phải luôn là những hành động tích cực, như ngụ ý của một chuyện ngụ ngôn Ấn Độ sau đây :
Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich bên Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?
Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo. Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ. Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy đập bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.
Sau cùng thầy bảo các môn sinh : “Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến”.
Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.
Và giờ đây, “Ánh sáng cứu độ” đang ở giữa chúng ta, Đức Kitô đang thầm nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với anh chàng mù vừa được sáng mắt : “Người đó chính là kẻ anh đang nhìn thấy và đang nói với anh” (TM). Chúng ta hãy cầu xin cho các anh chị em dự tòng trên khăp thế giới và cho chính ta thật sự được gặp gỡ và đón nhận Đức Kitô, để ngay trong Thánh lễ nầy, có được lòng tin đơn sơ chân thành như anh chàng mù thuở trước và trên độ đường Mùa Chay thánh tiến về lễ Phục Sinh, tâm hồn chúng ta luôn rạng ngời ánh sáng niềm tin và chân lý, tình yêu và ân sủng.
Bởi vì, nếu chúng ta không mang lấy ánh sáng Chúa Kitô trên đôi tay để phục vụ, không giữ được ánh sáng của Chúa Kitô trong trái tim để yêu thương, thì danh xưng “anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14) mà Đức Kitô đã ước mong và dành cho mỗi người Kitô hữu chúng ta mãi mãi sẽ chẳng bao giờ hiện thực ; hay như cách ví von của chính Ngài : mãi mãi sẽ chỉ là “chiếc đèn nằm dưới đáy thùng” (Mt 5,15).
GiuseTrương Đình Hiền