PHAN THIẾT -- Theo chương trình Năm Thánh Truyền Giáo của giáo phận Phan Thiết, giáo xứ Bình An tổ chức buổi họp mặt Anh Chị Em Tân Tòng vào Chúa Nhật truyền giáo 24.10.2004.
Lần đầu tiên có cuộc gặp gở thân tình để chia sẻ kinh nghiệm sống đạo, những thuận lợi và khó khăn khi trở thành tín hữu, 88 Tân Tòng, những người được rửa tội từ năm 1960 đến 2004 rất phấn khởi khi được mời và tham dự tích cực 2 giờ 30 phút trà đàm. Tuy còn ngại ngùng, có người thú thật rất “gun”(run) khi nói, nhưng những lời tâm tình rất thân thiện và hữu ích cho nhau.
Ông Antôn Lê Hồng Việt, sinh 1947, được rửa tội trong đêm vọng Phục Sinh 2003 phát biểu : “Trong cuộc đời con có 2 lần phấn đấu, đó là vào Đảng Cộng Sản năm 1972 và nay quyết tâm vào đạo. Con cám ơn Chúa, cám ơn giáo xứ Bình An giúp đỡ để gia đình con vào đạo và nay tuy còn nghèo, nhưng chúng con vẫn hạnh phúc và an vui. Con xin mỗi tuần giáo xứ xếp cho con học thêm giáo lý để hiểu đạo rõ hơn.”
Một khó khăn chung là vấn đề có được đi chùa, được thắp nhang... biểu lộ lòng hiếu kính không ? Anh Hảo phát biểu : ngày lễ Phật Đản con đưa gia đình đi chùa chơi, thế mà vợ con không cho. Còn Anh Linh thì nói : con thì là trai trưởng, mới rửa tội năm 2004, cứ ưu tư sau này cha mẹ chết, về tổ chức tang lễ mà gia tộc đều là người không phải Công Giáo thì có được thắp nhang, xá lạy, dâng cơm, trái cây lên bàn thờ theo phong tục không ?
Những trăn trở chính đáng của những tín hữu mà gia đình ruột thịt của họ chưa tin nhận Đức Kitô làm chúng ta suy nghĩ đến hai vấn đề là ĐẠO HIẾU và LIÊN TÔN.
ĐẠO HIẾU
Phải công nhận người Á Châu nói chung, và Việt Nam ta nói riêng rất trọng chữ hiếu. Có như vậy nên thờ kính ông bà tổ tiên gần như trở nên một tôn giáo theo nghĩa rộng và ta thường gọi là “Đạo Ong Bà”. Trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng công nhận đặc tính này : “Dân Á Châu... quí trọng những giá trị của sự nễ trọng sự sống, của sự thương xót người, của sự gần gũi với thiên nhiên, của sự hiếu thảo với cha mẹ, đàn anh và tổ tiên... ” (số 6)
Tới giờ này mà vẫn không ít người quan niệm theo đạo là bỏ ông bà tổ tiên. Có người còn nói mạnh : Tôi chấp nhận xuống hỏa ngục cùng tổ tiên tôi nếu theo đạo mà không được thờ Ong Bà Tổ Tiên.
Thật ra có một sự ngộ nhận khi cho rằng người Công Giáo bỏ ông bà tổ tiên. Từ Thánh Kinh, đời sống Giáo Hội và kinh nghiệm thực tế, chúng ta sẽ cho thấy đều đó.
Thánh Kinh
Trước khi có Mười Điều Răn-Luật Giavê Thiên Chúa minh định về bổn phận thảo hiếu, thì tổ phụ Dân Chúa đã biết sống hiếu thảo rồi. Chúng ta dễ dàng gặp thấy một Giuse khi đã là tể tướng Aicập biết rơi lệ khi nhớ về quê hương nơi cha già đang sống (x. St 42, 1-24). Và khi quyết định tỏ mình ra cho anh em, Giuse “đã khóc lớn tiếng các người Aicập cũng nghe được; đến Pharaô cũng đã nghe. Giuse nói : Tôi là Giuse, cha còn sống không ?” (St 45,2-3). Câu hỏi đầu tiên Giuse thốt lên từ tình cảm dành cho người cha. Rồi Giuse mời cha già và toàn thể gia tộc đến sống tại Aicập. Pharaô cũng vui lòng về việc đó và tạo điều kiện cho Giuse báo hiếu. (x. St 45, 9-20)
Đối lại với lòng thảo hiếu của Giuse, 400 năm sau, khi đưa dân thoát ách nô lệ Aicập tiến về đất hứa “Môsê đã đem hài cốt Giuse với mình” (Xh 13, 19) để tỏ lòng tôn kính và vâng lời.
Luật thảo hiếu được định rõ nơi giới răn thứ 4 trong 10 giới răn Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai :“Hãy trọng kính cha mẹ ngươi ngõ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên mảnh đất Giavê Thiên Chúa của ngươi sắp ban cho ngươi.” (Xh 20,12). Điều đặc biệt là Chúa ban 10 điều răn thì 3 điều đầu tiên là bổn phận đối với Chúa, còn 7 điều còn lại là liên quan đến con người. Có thể nói Chúa quan tâm đến con ngươi cách riêng, nhất là đạo hiếu, vì Người đặt giới răn thảo hiếu đứng đầu các giới răn liên quan đến con người.
Sách Lêvi cũng nhắc lại “Mỗi người các ngươi hãy kính sợ cha mẹ” (Lv 19, 3) và phạt nặng ai xúc phạm cha mẹ “Bởi chưng, người nào bất cứ ai mà rủa cha mẹ mình tất phải chết. Nó đã rủa cha mẹ nó : máu nó đổ xuống trên mình nó !” (Lv 20, 9)
Sách Châm Ngôn dạy : “Hởi con, hãy nghe lời huấn dục của cha, đừng khinh rẻ giáo huấn của mẹ. Đó chính là triều thiên duyên dáng trên đầu con, kiềng đeo nơi cổ con.” (Cn 1, 8-9). “Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân.” (x. Cn 6, 20. 23)
Bổn phận thờ cha kính mẹ còn được sách Huấn Ca nói rõ : “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” (Hc 3,2-6) và “Hãy hết lòng tôn kính cha con, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục, sinh thành, công ơn ấy con lấy chi đền đáp cho cân xứng” (Hc 7, 27-28)
Chúa Giêsu ủng hộ hết mình đạo hiếu thảo. Việc Người chấp nhận thân phận làm người trong một gia đình, sống “ hằng vâng phục các ngài” (Đức Mẹ và Thánh Giuse) (Lc 2, 51) là một bằng chứng. Khi rao giảng, Chúa Giêsu đã bênh vực đạo hiếu rất mạnh. Người nhắc lại luật từ Xh 20, 12 và Lv 20,9 trên để bày tỏ thái độ không chấp nhận người ta trốn tránh việc phụng dưỡng cha mẹ lấy lý do, dù quan trọng, là phải dâng cúng vào đền thờ. Lập trường của Người là phải hy sinh cả việc dâng cho đền thờ để chăm sóc cha mẹ già yếu : “Còn các ông lại nói : Ai nói với cha mẹ rằng : những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Như vậy các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hữu bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt 15, 5-6; Mc 7, 10-13)
Thánh Phaolô trong thư Ephêsô viết : “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ là giới răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.” (Eph 6, 1-3). Ngài còn nhắc lại một lần nữa : “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20)
Vậy có thể nói : Chúa muốn, Chúa yêu thích, và buộc con người phải sống đạo hiếu cho nên.
Đời Sống Giáo Hội
Triển khai mạc khải của Chúa, Giáo Hội dạy phải thảo hiếu cha mẹ tổ tiên. “Lòng tôn kính của con cái đối với cha mẹ (hiếu thảo) phát xuất từ sự biết ơn đối với những người đã cho chúng được sống và nhờ tình yêu và công lao của họ, giúp chúng lớn lên về tầm vóc, khôn ngoan và ân sủng.” (Giáo Lý Tòan Cầu, số 2215).
Ap dụng việc sống đức ái theo hiến chế Anh Sáng Muôn Dân số 48, ngày 14.01.1979, Đức Cha Nicolas Huynh Văn Nghi, đã giáo huấn con cái giáo phận Phan Thiết : “Con cái đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo, tin cậy và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hành Trình với Dân Chúa, trang 11)Cụ thể hóa bộn phận này đó là “thảo kính với ông bà cha mẹ khi còn sống cũng như đã qua đời bằng những nghĩa vụ :
- Một là tôn kính biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng; hai là lo cho cha mẹ khi các ngài con sống được đầy đủ về phần xác cũng như phần hồn; ba là khi cha mẹ qua đời phải lo việc an táng, hương khói, làm các việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài” (Giáo Lý Công Giáo, câu 396-397).
Như thế chúng ta quá rõ Hội Thánh Công Giáo buộc ngặt con cái mình phải chu toàn đạo hiếu.
Khi cha mẹ còn sống thì nghĩa cử hiếu thảo của người Công Giáo và không Công Giáo có thể coi như giống nhau : yêu mến, kính trọng, vâng lời, giúp đỡ... Nhưng đạo hiếu đối với người đã khuất có thể khác nhau. Một người không tôn giáo sẽ dành bàn thờ tổ tiên nơi trang trọng nhất trong nhà. Người Công Giáo dành nơi trang trọng nhất cho Thiên Chúa, vì Ngài là Cha, “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Eph 3, 14) và theo niềm tin của người Công Giáo thì “Khi ngắm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên : chim có tổ, nước có nguồn, con người sinh ra có cha có mẹ. Nhưng nhờ ơn Cha mạc khải chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng ban cho các ngài ân huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Cha.” (Lời Tiền Tụng lễ Mùng Hai Tết, kính nhớ Tổ Tiên Ong Bà Cha Mẹ).
Một người theo "đạo ông bà” sẽ rất dị ứng, khó chịu, đôi khi cho là xúc phạm khi phải dời bàn thờ tổ tiên nơi trọng tâm gia đình sang một bên. Nhưng với tinh thần tôn thờ Thiên Chúa là “Tổ Tiên của tổ tiên”, người tín hữu, và cả tổ tiên mình cũng vui mừng dành cho Thiên Chúa nơi thờ tự cao trọng nhất. Người Công Giáo vẫn có bàn thờ gia tiên theo chỉ dẫn : “Bên cạnh bàn thờ Chúa có thể đặt một bên một bàn nhỏ hay một kệ trên đó có ảnh cha mẹ ông bà hay tổ tiên đã qua đời để kính nhớ và tỏ lòng hiếu thảo. Có thể đót nến, nhang, hay dâng hoa trái trước ảnh tượng các ngài.” (Đức Cha Nicolas, Thư Mục Vụ số 101-1.4.2003). Và tôi đã thấy bàn thờ gia tiên trong phòng của một Giám Mục.
Còn việc dâng hương, xá lạy... ta hãy đọc lại chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục :
“Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa Khóa Hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 thánh 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Giáo Phúa Âm ngày 19 tháng 4 năm 1972, chiếu theo Thư Chung của Hội Đồng Giám mục Việt Nam ngày 14.6.1965, về các nghi lễ tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định:“Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi (sau đây) có tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ; Nên Được Thi Hành Và Tham Dự Cách Chủ Động” (Thông cáo HĐGMVN, 14.06.1965).
- Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn bạch...
- Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ Tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
- Ngày giỗ cũng là ngày “Kị nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã...và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương 8đèn.
- Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
- Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
- Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm. nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm...
Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “Phải thảo kính cha mẹ”, là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang, ngày 14 tháng 11 năm 1974
Ký tên:
- Philipphê Nguyễn Kim Điền Tổng Giám mục Huế
- Giuse Trần Văn Thiện Giám mục Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu Giám mục Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang Giám mục Cần Thơ
- Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận Giám mục Nha Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai Giám mục Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các Giám mục Qui Nhơn
(trích báo SACERDOS)
Có thể nói, người Công Giáo nhớ đến tổ tiên, những người đã khuất nhiều lần trong ngày. Thánh lễ nào cũng có phần cầu cho người sống : “Lạy Cha xin nhớ đến các tôi tớ Cha là... và mọi người sum họp nơi đây : Cha biết rõ lòng tin kính và tôn sùng của họ. Chúng con dâng lễ này để cầu cho họ, hoặc chính họ dâng để cầu cho mình và mọi người thân thuộc được cứu chuộc và được an lành hồn xác như lòng mong ước.” (Kinh Tạ Ơn I) và kẻ chết : “Xin Cha cũng nhớ đến anh chị em tín hữu chúng con đang an nghỉ chờ ngày sống lại, và những người đã qua đời mà chỉ còn biết nhờ vào lòng thương xót của Cha. Đặc biệt xin Cha nhớ đến các bậc tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đã lìa cõi thế. Xin cho hết thảy được vui hưởng ánh sáng Tôn Nhan.” (Kinh Tạ Ơn II). Tổ tiên ông bà cha mẹ chúng ta dù còn sống hay đã qua đời, đều được hưởng nhờ lời cầu nguyện từ con cháu.
Lời cầu của kinh chiều mà các giáo sĩ và tu sĩ đọc hằng ngày luôn dành lời cuối cho người đã khuất.
Đặc biệt, Giáo Hội còn dành tháng 11, quen gọi là Tháng Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, để con cháu báo hiếu. Có thể nói tháng 11 là “tháng Vu Lan-Báo Hiếu” của người Công Giáo. “Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh (x. 2 Mcb 12, 45). Hãy dâng thánh lễ và việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.” (Lời nhắn nhủ tháng 11 trong Lịch Công Giáo).
Đáp lời dạy trên của Giáo Hội, cộng đoàn Dân Chúa đã có truyền thống đến nghĩa trang dâng lễ vào sáng mùng 2 tháng 11 hàng năm. Đẹp làm sao hình ảnh con cháu đứng cạnh mộ ông bà tổ tiên nghi ngút khói hương, trên tay với ngọn nến lung linh, ngọn nến nhắc tới niềm niềm hy vọng phục sinh của Anh Sáng Chúa Kitô, để cùng dâng lễ, cầu nguyện cho tổ tiên. Đã có một bức ảnh nghệ thuật chụp cảnh đầm ấm này tại nghĩa trang Công Giáo đoạt giải.
Giáo dân Việt Nam tự hào với Phêrô Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký), nhà bác ngữ học biết 26 thứ tiếng, đứng thứ 17 trong “thế giới thập bát văn hào”, người mà Ban Tuyên Giáo tỉnh Bến Tre đã khen ngợi khi Ong trở về quê Cái Mơn thọ tang mẹ hơn là học tiếp tại Pênang để làm linh mục dù đã tốt nghiệp rất xuất sắc. “Trương Vĩnh Ký là một người thường vì việc về quê để tang mẹ là một điều dễ hiểu. Nhưng ông là một tín đồ Thiên Chúa, chủng sinh của một trường Dòng lớn vừa tốt nghiệp, hành sử của Trương Vĩnh Ký quả là lối hành xử theo cung cách văn hóa Việt Nam.” (x. Thế kỷ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, trang 41). Là người Kitô hữu không bao giờ đánh mất đạo hiếu Việt Nam, mà có thể nói, nhờ Lời Chúa chỉ dạy, người Công Giáo càng phải làm trọn đạo hiếu cách tốt đẹp hơn nữa.
LIÊN TÔN
Theo nguyên tắc chỉ dẫn việc tôn kính Thần Hoàng của HĐGM đã nêu, thì nếu đi chùa như là đến với một di tích văn hóa giá trị, tôn kính Đức Phật như là một vĩ nhân thì không sao cả. Cha Piô Ngô Phúc Hậu tâm sự trong Nhật Ký Truyền Giáo khi trả lời cho một bà già chuẩn bị theo đạo hỏi : “Cha ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ. Tôi thương Đức Phật quá. Bây giờ tôi theo Chúa, cha cho tôi giữ bàn thờ Đức Phật nha ! Mới 29 tuổi đời và một tuổi mục tử, mình thấy bối rối trước một yêu cầu như thế. Bổng mình nhớ đến thầy Luca Huy. Thầy Luca Huy dạy mình rằng : Phải tôn trọng đạo Phật, phải kính trọng Đức Phật”. Chính thầy Huy cũng có một tượng Phật để trên bàn viết. Bà Cụ năn nỉ : “ Đức Phật tốt lắm cha ạ. Tôi thương Ngài lắm.”- Tôi đề nghị với bà thế này : Chúa thì để trong lồng kiếng, còn Đức Phật là hiền nhân thì để kế bên Chúa. Bà chịu không ?-Tôi chịu vậy đó- Bà cứ thương Đức Phật đi. Tôi cũng thương ngài nữa.” ( Nhật Ký Truyền Giáo, trang 39)
Cách ứng xử của cha được Đức Cha khen, vì nó hợp với tinh thần của Công Đồng Vatican II : “-“Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chây Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người.” (NA. 2)
Tôn trọng tôn giáo bạn, các nền văn hóa, các bậc vĩ nhân... còn phát xuất từ một nguyên lý sâu hơn là “tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1, 17) và việc Chúa Cha dùng Thần Khí cải tạo môi trường để hạt giống Tin Mừng nẩy mầm : “Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng công nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hoá và tôn giáo Á Châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á Châu đón nhận đầy đủ sự sống trong Chúa Kitô.” (Giáo Hội tại Á Châu, Số 20)
Nhưng chúng ta không theo quan điểm thông thường hòa đồng tôn giáo “đạo nào cũng tốt” để bằng lòng với việc thụ động trong nhiệm vụ rao giảng Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để cảnh tỉnh : “ Ở đây tôi lập lại điều tôi đã viết gởi đến khóa họp khoáng đại lần thứ năm của Liên Đoàn các Hội Đồng Giám Mục Á Châu : “Cho dù Giáo Hội vui mừng công nhận bất cứ cái gì là chân thật và thánh thiệng trong các truyền thống đạo Phật, đạo Hindu và đạo Hồi như là một phải ánh của chân lý soi sáng cho muôn dân, điều đó không làm giảm nhẹ bổn phận của Giáo Hội và không đưa tới việc rao giảng không sai lầm về Chúa Giêsu Kitô, Người “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Sự kiện những kẻ theo các tôn giao khác có thể lãnh nhân ân sủng Chúa và được Chúa Kitô cứu vớt mà không bằng những phương cách mà Người đã sáng lập, sự kiện đó không bãi bỏ sự kêu gọi phải tin và chịu bí tích rửa tội mà Chúa muốn cho mọi người.” (Giáo Hội tại Á Châu, số 31)
Thật hữu ích khi giáo phận có chương trình cho những người Tân Tòng họp mặt để chia sẻ đời sống đạo, tìm lời giải đáp cho những ưu tư làm sao cho gia đình mình thấy Đạo Chúa Trời không xóa bỏ nhưng thăng hoa Đạo Hiếu. Đây cũng là cơ hội người tín hữu nhìn lại những chỉ dạy của Hội Thánh trong việc liên tôn. Đối thọai liên tôn là một vấn đề nhạy cảm. Đừng bới tìm những khác biệt mâu thuẩn trong giáo lý hay lịch sử, mà hãy tìm điểm chung để cùng liên kết với nhau trong mưu sinh cho nhân loại.
Có thể lấy những lời chỉ dạy của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kết thúc thông điệp “Để Họ Nên Một”, hướng dẫn vấn đề đại kết, để thích ứng cho liên tôn : “Tôi nhớ đến nhũng lời mà thánh Cyprianô dùng để chú giải Kinh Lạy Cha, kinh nguyện của mọi Kitô hữu : “Thiên Chúa không nhận lễ hy sinh của người sống trong tranh chấp... Tôi, Gioan Phaolô II, đầy tớ thấp hèn của các đầy tớ Chúa, tôi xin phép mượn những lời của thánh Tông Đồ Phaolô, mà cuộc tử đạo gắn liền với cuộc tử đạo của thánh Tông Đồ Phêrô và đã cho Tòa Tông Đồ này tại Rôma chính ánh vinh quang chứng từ của nài, và tôi xin nới với anh chị em tín hữu thuộc các Giáo Hội Công Giáo và các anh chị em thuộc các Giáo Hội và cộng đoàn giáo hôi khác : “Anh chị em hãy tìm kiếm sự hoàn thiện, hãy củng cố nhau, hãy khuyến khích nhau. Hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Và Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh chị em. Ơn sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.” (2 Cr 13, 11-13)
Bình An, 26.10.2004
Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy
Lần đầu tiên có cuộc gặp gở thân tình để chia sẻ kinh nghiệm sống đạo, những thuận lợi và khó khăn khi trở thành tín hữu, 88 Tân Tòng, những người được rửa tội từ năm 1960 đến 2004 rất phấn khởi khi được mời và tham dự tích cực 2 giờ 30 phút trà đàm. Tuy còn ngại ngùng, có người thú thật rất “gun”(run) khi nói, nhưng những lời tâm tình rất thân thiện và hữu ích cho nhau.
Ông Antôn Lê Hồng Việt, sinh 1947, được rửa tội trong đêm vọng Phục Sinh 2003 phát biểu : “Trong cuộc đời con có 2 lần phấn đấu, đó là vào Đảng Cộng Sản năm 1972 và nay quyết tâm vào đạo. Con cám ơn Chúa, cám ơn giáo xứ Bình An giúp đỡ để gia đình con vào đạo và nay tuy còn nghèo, nhưng chúng con vẫn hạnh phúc và an vui. Con xin mỗi tuần giáo xứ xếp cho con học thêm giáo lý để hiểu đạo rõ hơn.”
Một khó khăn chung là vấn đề có được đi chùa, được thắp nhang... biểu lộ lòng hiếu kính không ? Anh Hảo phát biểu : ngày lễ Phật Đản con đưa gia đình đi chùa chơi, thế mà vợ con không cho. Còn Anh Linh thì nói : con thì là trai trưởng, mới rửa tội năm 2004, cứ ưu tư sau này cha mẹ chết, về tổ chức tang lễ mà gia tộc đều là người không phải Công Giáo thì có được thắp nhang, xá lạy, dâng cơm, trái cây lên bàn thờ theo phong tục không ?
Những trăn trở chính đáng của những tín hữu mà gia đình ruột thịt của họ chưa tin nhận Đức Kitô làm chúng ta suy nghĩ đến hai vấn đề là ĐẠO HIẾU và LIÊN TÔN.
ĐẠO HIẾU
Phải công nhận người Á Châu nói chung, và Việt Nam ta nói riêng rất trọng chữ hiếu. Có như vậy nên thờ kính ông bà tổ tiên gần như trở nên một tôn giáo theo nghĩa rộng và ta thường gọi là “Đạo Ong Bà”. Trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng công nhận đặc tính này : “Dân Á Châu... quí trọng những giá trị của sự nễ trọng sự sống, của sự thương xót người, của sự gần gũi với thiên nhiên, của sự hiếu thảo với cha mẹ, đàn anh và tổ tiên... ” (số 6)
Tới giờ này mà vẫn không ít người quan niệm theo đạo là bỏ ông bà tổ tiên. Có người còn nói mạnh : Tôi chấp nhận xuống hỏa ngục cùng tổ tiên tôi nếu theo đạo mà không được thờ Ong Bà Tổ Tiên.
Thật ra có một sự ngộ nhận khi cho rằng người Công Giáo bỏ ông bà tổ tiên. Từ Thánh Kinh, đời sống Giáo Hội và kinh nghiệm thực tế, chúng ta sẽ cho thấy đều đó.
Thánh Kinh
Trước khi có Mười Điều Răn-Luật Giavê Thiên Chúa minh định về bổn phận thảo hiếu, thì tổ phụ Dân Chúa đã biết sống hiếu thảo rồi. Chúng ta dễ dàng gặp thấy một Giuse khi đã là tể tướng Aicập biết rơi lệ khi nhớ về quê hương nơi cha già đang sống (x. St 42, 1-24). Và khi quyết định tỏ mình ra cho anh em, Giuse “đã khóc lớn tiếng các người Aicập cũng nghe được; đến Pharaô cũng đã nghe. Giuse nói : Tôi là Giuse, cha còn sống không ?” (St 45,2-3). Câu hỏi đầu tiên Giuse thốt lên từ tình cảm dành cho người cha. Rồi Giuse mời cha già và toàn thể gia tộc đến sống tại Aicập. Pharaô cũng vui lòng về việc đó và tạo điều kiện cho Giuse báo hiếu. (x. St 45, 9-20)
Đối lại với lòng thảo hiếu của Giuse, 400 năm sau, khi đưa dân thoát ách nô lệ Aicập tiến về đất hứa “Môsê đã đem hài cốt Giuse với mình” (Xh 13, 19) để tỏ lòng tôn kính và vâng lời.
Luật thảo hiếu được định rõ nơi giới răn thứ 4 trong 10 giới răn Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai :“Hãy trọng kính cha mẹ ngươi ngõ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên mảnh đất Giavê Thiên Chúa của ngươi sắp ban cho ngươi.” (Xh 20,12). Điều đặc biệt là Chúa ban 10 điều răn thì 3 điều đầu tiên là bổn phận đối với Chúa, còn 7 điều còn lại là liên quan đến con người. Có thể nói Chúa quan tâm đến con ngươi cách riêng, nhất là đạo hiếu, vì Người đặt giới răn thảo hiếu đứng đầu các giới răn liên quan đến con người.
Sách Lêvi cũng nhắc lại “Mỗi người các ngươi hãy kính sợ cha mẹ” (Lv 19, 3) và phạt nặng ai xúc phạm cha mẹ “Bởi chưng, người nào bất cứ ai mà rủa cha mẹ mình tất phải chết. Nó đã rủa cha mẹ nó : máu nó đổ xuống trên mình nó !” (Lv 20, 9)
Sách Châm Ngôn dạy : “Hởi con, hãy nghe lời huấn dục của cha, đừng khinh rẻ giáo huấn của mẹ. Đó chính là triều thiên duyên dáng trên đầu con, kiềng đeo nơi cổ con.” (Cn 1, 8-9). “Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân.” (x. Cn 6, 20. 23)
Bổn phận thờ cha kính mẹ còn được sách Huấn Ca nói rõ : “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” (Hc 3,2-6) và “Hãy hết lòng tôn kính cha con, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục, sinh thành, công ơn ấy con lấy chi đền đáp cho cân xứng” (Hc 7, 27-28)
Chúa Giêsu ủng hộ hết mình đạo hiếu thảo. Việc Người chấp nhận thân phận làm người trong một gia đình, sống “ hằng vâng phục các ngài” (Đức Mẹ và Thánh Giuse) (Lc 2, 51) là một bằng chứng. Khi rao giảng, Chúa Giêsu đã bênh vực đạo hiếu rất mạnh. Người nhắc lại luật từ Xh 20, 12 và Lv 20,9 trên để bày tỏ thái độ không chấp nhận người ta trốn tránh việc phụng dưỡng cha mẹ lấy lý do, dù quan trọng, là phải dâng cúng vào đền thờ. Lập trường của Người là phải hy sinh cả việc dâng cho đền thờ để chăm sóc cha mẹ già yếu : “Còn các ông lại nói : Ai nói với cha mẹ rằng : những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Như vậy các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hữu bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt 15, 5-6; Mc 7, 10-13)
Thánh Phaolô trong thư Ephêsô viết : “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ là giới răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.” (Eph 6, 1-3). Ngài còn nhắc lại một lần nữa : “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20)
Vậy có thể nói : Chúa muốn, Chúa yêu thích, và buộc con người phải sống đạo hiếu cho nên.
Đời Sống Giáo Hội
Triển khai mạc khải của Chúa, Giáo Hội dạy phải thảo hiếu cha mẹ tổ tiên. “Lòng tôn kính của con cái đối với cha mẹ (hiếu thảo) phát xuất từ sự biết ơn đối với những người đã cho chúng được sống và nhờ tình yêu và công lao của họ, giúp chúng lớn lên về tầm vóc, khôn ngoan và ân sủng.” (Giáo Lý Tòan Cầu, số 2215).
Ap dụng việc sống đức ái theo hiến chế Anh Sáng Muôn Dân số 48, ngày 14.01.1979, Đức Cha Nicolas Huynh Văn Nghi, đã giáo huấn con cái giáo phận Phan Thiết : “Con cái đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo, tin cậy và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hành Trình với Dân Chúa, trang 11)Cụ thể hóa bộn phận này đó là “thảo kính với ông bà cha mẹ khi còn sống cũng như đã qua đời bằng những nghĩa vụ :
- Một là tôn kính biết ơn và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng; hai là lo cho cha mẹ khi các ngài con sống được đầy đủ về phần xác cũng như phần hồn; ba là khi cha mẹ qua đời phải lo việc an táng, hương khói, làm các việc lành, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài” (Giáo Lý Công Giáo, câu 396-397).
Như thế chúng ta quá rõ Hội Thánh Công Giáo buộc ngặt con cái mình phải chu toàn đạo hiếu.
Khi cha mẹ còn sống thì nghĩa cử hiếu thảo của người Công Giáo và không Công Giáo có thể coi như giống nhau : yêu mến, kính trọng, vâng lời, giúp đỡ... Nhưng đạo hiếu đối với người đã khuất có thể khác nhau. Một người không tôn giáo sẽ dành bàn thờ tổ tiên nơi trang trọng nhất trong nhà. Người Công Giáo dành nơi trang trọng nhất cho Thiên Chúa, vì Ngài là Cha, “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Eph 3, 14) và theo niềm tin của người Công Giáo thì “Khi ngắm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên : chim có tổ, nước có nguồn, con người sinh ra có cha có mẹ. Nhưng nhờ ơn Cha mạc khải chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng ban cho các ngài ân huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Cha.” (Lời Tiền Tụng lễ Mùng Hai Tết, kính nhớ Tổ Tiên Ong Bà Cha Mẹ).
Một người theo "đạo ông bà” sẽ rất dị ứng, khó chịu, đôi khi cho là xúc phạm khi phải dời bàn thờ tổ tiên nơi trọng tâm gia đình sang một bên. Nhưng với tinh thần tôn thờ Thiên Chúa là “Tổ Tiên của tổ tiên”, người tín hữu, và cả tổ tiên mình cũng vui mừng dành cho Thiên Chúa nơi thờ tự cao trọng nhất. Người Công Giáo vẫn có bàn thờ gia tiên theo chỉ dẫn : “Bên cạnh bàn thờ Chúa có thể đặt một bên một bàn nhỏ hay một kệ trên đó có ảnh cha mẹ ông bà hay tổ tiên đã qua đời để kính nhớ và tỏ lòng hiếu thảo. Có thể đót nến, nhang, hay dâng hoa trái trước ảnh tượng các ngài.” (Đức Cha Nicolas, Thư Mục Vụ số 101-1.4.2003). Và tôi đã thấy bàn thờ gia tiên trong phòng của một Giám Mục.
Còn việc dâng hương, xá lạy... ta hãy đọc lại chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục :
“Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa Khóa Hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 thánh 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Giáo Phúa Âm ngày 19 tháng 4 năm 1972, chiếu theo Thư Chung của Hội Đồng Giám mục Việt Nam ngày 14.6.1965, về các nghi lễ tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định:“Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi (sau đây) có tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ; Nên Được Thi Hành Và Tham Dự Cách Chủ Động” (Thông cáo HĐGMVN, 14.06.1965).
- Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn bạch...
- Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ Tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
- Ngày giỗ cũng là ngày “Kị nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã...và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương 8đèn.
- Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
- Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
- Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm. nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm...
Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “Phải thảo kính cha mẹ”, là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang, ngày 14 tháng 11 năm 1974
Ký tên:
- Philipphê Nguyễn Kim Điền Tổng Giám mục Huế
- Giuse Trần Văn Thiện Giám mục Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu Giám mục Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang Giám mục Cần Thơ
- Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận Giám mục Nha Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai Giám mục Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các Giám mục Qui Nhơn
(trích báo SACERDOS)
Có thể nói, người Công Giáo nhớ đến tổ tiên, những người đã khuất nhiều lần trong ngày. Thánh lễ nào cũng có phần cầu cho người sống : “Lạy Cha xin nhớ đến các tôi tớ Cha là... và mọi người sum họp nơi đây : Cha biết rõ lòng tin kính và tôn sùng của họ. Chúng con dâng lễ này để cầu cho họ, hoặc chính họ dâng để cầu cho mình và mọi người thân thuộc được cứu chuộc và được an lành hồn xác như lòng mong ước.” (Kinh Tạ Ơn I) và kẻ chết : “Xin Cha cũng nhớ đến anh chị em tín hữu chúng con đang an nghỉ chờ ngày sống lại, và những người đã qua đời mà chỉ còn biết nhờ vào lòng thương xót của Cha. Đặc biệt xin Cha nhớ đến các bậc tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đã lìa cõi thế. Xin cho hết thảy được vui hưởng ánh sáng Tôn Nhan.” (Kinh Tạ Ơn II). Tổ tiên ông bà cha mẹ chúng ta dù còn sống hay đã qua đời, đều được hưởng nhờ lời cầu nguyện từ con cháu.
Lời cầu của kinh chiều mà các giáo sĩ và tu sĩ đọc hằng ngày luôn dành lời cuối cho người đã khuất.
Đặc biệt, Giáo Hội còn dành tháng 11, quen gọi là Tháng Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, để con cháu báo hiếu. Có thể nói tháng 11 là “tháng Vu Lan-Báo Hiếu” của người Công Giáo. “Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh (x. 2 Mcb 12, 45). Hãy dâng thánh lễ và việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.” (Lời nhắn nhủ tháng 11 trong Lịch Công Giáo).
Đáp lời dạy trên của Giáo Hội, cộng đoàn Dân Chúa đã có truyền thống đến nghĩa trang dâng lễ vào sáng mùng 2 tháng 11 hàng năm. Đẹp làm sao hình ảnh con cháu đứng cạnh mộ ông bà tổ tiên nghi ngút khói hương, trên tay với ngọn nến lung linh, ngọn nến nhắc tới niềm niềm hy vọng phục sinh của Anh Sáng Chúa Kitô, để cùng dâng lễ, cầu nguyện cho tổ tiên. Đã có một bức ảnh nghệ thuật chụp cảnh đầm ấm này tại nghĩa trang Công Giáo đoạt giải.
Giáo dân Việt Nam tự hào với Phêrô Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký), nhà bác ngữ học biết 26 thứ tiếng, đứng thứ 17 trong “thế giới thập bát văn hào”, người mà Ban Tuyên Giáo tỉnh Bến Tre đã khen ngợi khi Ong trở về quê Cái Mơn thọ tang mẹ hơn là học tiếp tại Pênang để làm linh mục dù đã tốt nghiệp rất xuất sắc. “Trương Vĩnh Ký là một người thường vì việc về quê để tang mẹ là một điều dễ hiểu. Nhưng ông là một tín đồ Thiên Chúa, chủng sinh của một trường Dòng lớn vừa tốt nghiệp, hành sử của Trương Vĩnh Ký quả là lối hành xử theo cung cách văn hóa Việt Nam.” (x. Thế kỷ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, trang 41). Là người Kitô hữu không bao giờ đánh mất đạo hiếu Việt Nam, mà có thể nói, nhờ Lời Chúa chỉ dạy, người Công Giáo càng phải làm trọn đạo hiếu cách tốt đẹp hơn nữa.
LIÊN TÔN
Theo nguyên tắc chỉ dẫn việc tôn kính Thần Hoàng của HĐGM đã nêu, thì nếu đi chùa như là đến với một di tích văn hóa giá trị, tôn kính Đức Phật như là một vĩ nhân thì không sao cả. Cha Piô Ngô Phúc Hậu tâm sự trong Nhật Ký Truyền Giáo khi trả lời cho một bà già chuẩn bị theo đạo hỏi : “Cha ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ. Tôi thương Đức Phật quá. Bây giờ tôi theo Chúa, cha cho tôi giữ bàn thờ Đức Phật nha ! Mới 29 tuổi đời và một tuổi mục tử, mình thấy bối rối trước một yêu cầu như thế. Bổng mình nhớ đến thầy Luca Huy. Thầy Luca Huy dạy mình rằng : Phải tôn trọng đạo Phật, phải kính trọng Đức Phật”. Chính thầy Huy cũng có một tượng Phật để trên bàn viết. Bà Cụ năn nỉ : “ Đức Phật tốt lắm cha ạ. Tôi thương Ngài lắm.”- Tôi đề nghị với bà thế này : Chúa thì để trong lồng kiếng, còn Đức Phật là hiền nhân thì để kế bên Chúa. Bà chịu không ?-Tôi chịu vậy đó- Bà cứ thương Đức Phật đi. Tôi cũng thương ngài nữa.” ( Nhật Ký Truyền Giáo, trang 39)
Cách ứng xử của cha được Đức Cha khen, vì nó hợp với tinh thần của Công Đồng Vatican II : “-“Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chây Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người.” (NA. 2)
Tôn trọng tôn giáo bạn, các nền văn hóa, các bậc vĩ nhân... còn phát xuất từ một nguyên lý sâu hơn là “tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1, 17) và việc Chúa Cha dùng Thần Khí cải tạo môi trường để hạt giống Tin Mừng nẩy mầm : “Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng công nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hoá và tôn giáo Á Châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á Châu đón nhận đầy đủ sự sống trong Chúa Kitô.” (Giáo Hội tại Á Châu, Số 20)
Nhưng chúng ta không theo quan điểm thông thường hòa đồng tôn giáo “đạo nào cũng tốt” để bằng lòng với việc thụ động trong nhiệm vụ rao giảng Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để cảnh tỉnh : “ Ở đây tôi lập lại điều tôi đã viết gởi đến khóa họp khoáng đại lần thứ năm của Liên Đoàn các Hội Đồng Giám Mục Á Châu : “Cho dù Giáo Hội vui mừng công nhận bất cứ cái gì là chân thật và thánh thiệng trong các truyền thống đạo Phật, đạo Hindu và đạo Hồi như là một phải ánh của chân lý soi sáng cho muôn dân, điều đó không làm giảm nhẹ bổn phận của Giáo Hội và không đưa tới việc rao giảng không sai lầm về Chúa Giêsu Kitô, Người “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Sự kiện những kẻ theo các tôn giao khác có thể lãnh nhân ân sủng Chúa và được Chúa Kitô cứu vớt mà không bằng những phương cách mà Người đã sáng lập, sự kiện đó không bãi bỏ sự kêu gọi phải tin và chịu bí tích rửa tội mà Chúa muốn cho mọi người.” (Giáo Hội tại Á Châu, số 31)
Thật hữu ích khi giáo phận có chương trình cho những người Tân Tòng họp mặt để chia sẻ đời sống đạo, tìm lời giải đáp cho những ưu tư làm sao cho gia đình mình thấy Đạo Chúa Trời không xóa bỏ nhưng thăng hoa Đạo Hiếu. Đây cũng là cơ hội người tín hữu nhìn lại những chỉ dạy của Hội Thánh trong việc liên tôn. Đối thọai liên tôn là một vấn đề nhạy cảm. Đừng bới tìm những khác biệt mâu thuẩn trong giáo lý hay lịch sử, mà hãy tìm điểm chung để cùng liên kết với nhau trong mưu sinh cho nhân loại.
Có thể lấy những lời chỉ dạy của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kết thúc thông điệp “Để Họ Nên Một”, hướng dẫn vấn đề đại kết, để thích ứng cho liên tôn : “Tôi nhớ đến nhũng lời mà thánh Cyprianô dùng để chú giải Kinh Lạy Cha, kinh nguyện của mọi Kitô hữu : “Thiên Chúa không nhận lễ hy sinh của người sống trong tranh chấp... Tôi, Gioan Phaolô II, đầy tớ thấp hèn của các đầy tớ Chúa, tôi xin phép mượn những lời của thánh Tông Đồ Phaolô, mà cuộc tử đạo gắn liền với cuộc tử đạo của thánh Tông Đồ Phêrô và đã cho Tòa Tông Đồ này tại Rôma chính ánh vinh quang chứng từ của nài, và tôi xin nới với anh chị em tín hữu thuộc các Giáo Hội Công Giáo và các anh chị em thuộc các Giáo Hội và cộng đoàn giáo hôi khác : “Anh chị em hãy tìm kiếm sự hoàn thiện, hãy củng cố nhau, hãy khuyến khích nhau. Hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Và Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh chị em. Ơn sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.” (2 Cr 13, 11-13)
Bình An, 26.10.2004
Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy