Cuộc tháo chạy của VNCH năm 1975 được khởi đầu bằng cuộc tháo chạy của Cộng Hòa Khmer. Mỗi lần đến 30 tháng tư, chúng ta cần nhìn lại hai cuộc tháo chạy này dưới những khía cạnh khác nhau để rút thêm những bài học lịch sử.
NHÌN NGƯỜI TRƯỚC…
Với sự hậu thuẫn của Mỹ, ngày 18.3.1970 trong lúc Sihanouk đang ở ngoại quốc, Thủ Tướng Lon Nol cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnom Penh, bao vây toà nhà Quốc hội và triệu tập Quốc hội bỏ phiếu phế truất Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Lon Nol cử Hoàng thân Sirik Matak – người bị chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk - giữ chức Phó Thủ tướng. Sau cuộc đảo chính, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol.
Tháng 10 Lon Nol tuyên bố thành lập Cộng hòa Khmer và Lon Nol trở thành Tổng thống đầu tiên. Hoàng thân Sirik Matak được cử làm Phó Tổng Thống.
Tháng 4 năm 1973, Lon Nol đình chỉ hoạt động của Quốc hội, tuyên bố thành lập "Hội đồng Chính trị Tối cao" bao gồm chính ông, Sirik Matak, Cheng Heng và In Tam.
Vào đầu năm 1975, Khmer Đỏ và CSVN bắt đầu mở cuộc tấn công chế độ Lon Nol, thành lập vòng đai bao vây thủ đô Phnom Penh. Quốc hội Hoa Kỳ quyết định không cấp viện trợ thêm cho Campuchia nữa. Ngày 1.4.1975, Tổng Thống Lon Nol tuyên bố từ chức và bay đi tỵ nạn ở Hawaii. Hoàng thân Sirik Matak quyền Tổng Thống.
Sáng 12.4.1975 Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Eagle Pull, di tản các nhân viên, các viên chức Mỹ và một số viên chức Campuchia bằng máy bay trực thăng từ thủ đô Phnom Penh tới các hạm đội Mỹ trong vịnh Thái Lan.
Đại sứ Mỹ ở Cambodia lúc đó là ông John Gunther Dean đã thông báo cho các viên chức cao cấp của Cộng Hòa Khmer biết Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ, nhưng Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ Tướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol) và các thành phần nội các của chính phủ Lon Nol đã từ chối, mặc dầu Long Boret và Sirik Matak có tên trong danh sách “Bảy kẻ Phản Bội” (Seven Traitors) bị Khmer Đỏ tuyên án tử hình. Tổng cộng có 150 người trong chính phủ Cộng hòa Khmer đã di tản theo người Mỹ. Còn Hoàng thân Sirik Matak đích thân viết cho Đại sứ John Gunther Dean một lá thư có nội dung như sau:
“Tôi thành thật cảm tạ Ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy! Với Ngài và nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ! Xin Ngài nhận những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.”
Ký tên: Hoàng thân Sirik Matak
Riêng về Thủ Tướng Long Boret, Đại sứ John Gunther Dean kể:
"Long Boret đã từ chối việc di tản. Ông ta là một người tài giỏi. Trẻ hơn nhiều so với Lon Nol hoặc Sirik Matak. Khi cá nhân tôi đến gặp ông vào ngày 12 tháng 4, trong cuộc di tản buổi sáng sớm của chúng tôi, đề nghị ông ta hãy dắt vợ con cùng chúng tôi rời khỏi Phnom Penh vì tôi lo sợ cho sự an toàn của ông ấy, ông ta cảm ơn tôi nhưng [như ông ta nói] nghĩ rằng tính mạng của ông ấy không đáng lo ngại.”
Ngày 17.4.1975, lực lượng Cộng hòa Khmer sụp đổ, Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh. Hoàng thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret, Lon Non và các viên chức hàng đầu của Chính phủ Cộng hoà Khmer đã bị bắt đưa đi xử tử tại trung tâm thể dục thể thao Cercle Sportif. Các đơn vị thuộc quân đội Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer của Lon Nol còn lại trong thủ đô đều bị tước vũ khí và đưa đi xử bắn toàn bộ tại sân vận động Olympic.
Trong Hồi ký “Ending the Vietnam War” Kissinger nói rằng chính quyền Ford đã bất ngờ và xấu hổ vì trên thực tế các quan chức hàng đầu của Campuchia đã từ chối rời khỏi đất nước, bao gồm Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret và em trai cựu Tổng thống Lon Nol là Lon Non, mặc dầu họ nằm trong danh sách mà Khmer Đỏ đã tuyên án tử hình.
RỒI QUAY LẠI NHÌN TA...
Tướng Dương Văn Minh vốn nổi tiếng là THAM, NGU, HÈN nên bị Mỹ khai thác và đưa ra làm con bài thí mỗi khi muốn thay đổi tình hình.
1.- BỊ DÙNG LÀM SÁT THỦ
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám Đốc Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã kể lại hai chuyện liên quan đến những sự vi phạm nghiêm trọng của Dương Văn Minh, nhưng được Tổng Thống Diệm bỏ qua cho:
Vụ thứ nhât: Chôm thùng phuy vàng của Bình Xuyên
Ông cho biết vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Họ thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông cho mò tìm và vớt được hai thùng, một thùng đựng bạc giấy và một thùng đựng vàng. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Dương Văn Minh chẳng báo cáo gì về vụ vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh điều tra. Hai người được trao nhiệm vụ điều tra là Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội. Đại Tá Xuân báo cáo số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh. Nhưng sau khi suy nghĩ, ông Diệm nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó đi cho yên!”
Vụ thứ hai: Chứa chấp gián điệp Việt Cộng.
Vào đầu năm 1960, nhân viên tình báo thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra.
Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt.
Ông đã trình vụ này cho Tổng Thống Diệm, nhưng sau khi nghe, Tổng Thống đã đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cam-bốt và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: Nếu trở lại sẽ bị thanh toán.
Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.”
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên năm 1963 khi tổ chức đảo chánh ông Diệm, Mỹ đã dùng Dương Văn Minh làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, tức chỉ huy cuộc đảo chánh. Nhưng khi hành động, Thiếu Tá Lucien Conein chỉ để cho Dương Văn Minh làm sát thủ, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và hai người chống đảo chánh là Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, còn việc tổ chức và điều hành quân đội đảo chánh đều đặt dưới quyền chỉ huy của hai nhân viên CIA là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu.
Tướng Minh được trao quyền lãnh đạo chính phủ trong giai đoạn chuyển tiếp, sau đó bảo Tướng Khiêm làm “chỉnh lý” ngày 30.1.1964, loại bỏ các tướng râu ria của Dương Văn Minh về tội “thân Pháp”, đưa Tướng Nguyễn Khánh ra làm sát thủ Ngô Đình Cẩn. Nguyễn Khánh ban hành một đạo luật hồi tố để giết Ngô Đình Cẩn. Giới luật gia phản đối vì luật này vi phạm nguyên tắc bất hồi tố (non-retroactive) của hình luật và điều 11 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng khi Mỹ bảo thì chẳng cần luật pháp, nên Nguyễn Khánh đã cho xử bắn Ngô Đình Cẩn. Sau đó các biến loạn đã xảy ra, Mỹ loại Nguyễn Khánh và đưa hai tên tà lọt của CIA là Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm lên cầm quyền tại Miền Nam cho đến ngày mất nước.
2.- BỊ DÙNG LÀM HÀNG TƯỚNG
Ngày 21.4.1975, Đại Sứ Martin đến thuyết phục Tổng Thống Thiệu từ chức để đưa Dương Văn Minh lên đầu hàng, nhưng ông Thiệu chẳng biết gì hết, còn hỏi ông Martin: “Nếu tôi từ chức, viện trợ Mỹ có đến không?” Đại Sứ Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng có thể có”.
Frank Snepp cho biết sáng 20.4.1975, Đại Sứ Mattin đã đi gặp Đại Sứ Mérillon của Pháp và xin tiếp một tay. Đại sứ Merillon cho Tướng Minh biết ông ta đã liên lạc với phía bên kia, họ cho biết chỉ nói chuyện với tướng Minh. Tướng Minh tưởng thật, đồng ý làm Tổng Thống để điều đình với “phía bên kia” và thành lập một “chính phủ hòa hợp hòa giải”. Tướng Timmes đã đến gặp Tướng Minh để thăm dò, Tướng Minh cười và trả lời: “Vẫn còn cơ hội cho các cuộc thương thuyết…” (There was still a chance for negotiations). Nhưng chiều 28.4.1975, lúc 17 giờ 50, sau khi nhận chức Tổng Thống, Tướng Minh đã cho người đi tìm Đại Sứ Mérillon thì ông đã biến mất rồi!
Đến đây người Việt mới nhận ra rằng Mỹ là "siêu cộng sản"!
Lúc 11 giờ sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng T-54 đầu tiên của Việt Cộng tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập một cánh cổng đã mở, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
Khi mọi người chưa kịp làm gì tiếp thì Trung Tá Bùi Tùng, Chính Ủy Lữ Đoàn Xe Tăng 203 tới. Ông Minh thấy ông Tùng người to cao thì lễ phép chào và nói:
- Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào lâu rồi để bàn giao chính quyền
.
- Trung Tá Tùng nói:
- Các ông là người bại trận. Các ông không còn gì để bàn giao mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện.
Ông Tùng buộc Tổng Thống Dương Văn Minh và Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Bản tuyên bố đầu hàng do Chính Trị Viên Bùi Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.”
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống chỉ 36 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng, kết thúc cuộc đời làm con bài thí của Mỹ trong một thời điểm rất bi thảm.
NHỮNG BÀI HỌC ĐẮT GIÁ
Nhìn lại những gì mà Thủ Tướng Long Boret và Hoàng thân Sirik Matak của nước Campuchia nhỏ bé đã làm rồi nhìn lại hành động của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Tổng Thống Dương Văn Minh của nước Việt có lịch sử ngàn đời oai hùng…, ít ai không cảm thấy đau buồn.
Người Mỹ khi rút khỏi Sài Gòn không hề thông báo cho các viên chức cao cấp của VNCH rằng Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ như họ đã thông báo cho các viên chức Cộng Hòa Khmer khi rút khỏi Phnom Penh, nên hầu hết các viên chức cao cấp VNCH đã phải bị đi tù vì hợp tác với Mỹ. Chính quyền Ford cũng không hề “bất ngờ và xấu hổ” về chuyện này. Mặc dầu vậy “tình hữu nghị Việt – Mỹ vẫn đời đời bền vững”.
Hoàng thân Sirik Matak đã nói với người Mỹ “không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do” và “Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ!”, trong khi đó đa số người Việt đấu tranh vẫn tiếp tục tin tưởng rằng người Mỹ sẽ giúp họ “giải phóng quê hương” và mỗi khi có chuyện gì bất bình thường đi mách với Mỹ!
Đó là những bài học lịch sử đắt giá. Triết gia George Santayana (1863 – 1952) đã nhắc nhỡ chúng ta:
“Những người không thể nhớ quá khứ bị kết án tái diễn nó. Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.”
Ngày 28.4.2016
NHÌN NGƯỜI TRƯỚC…
Với sự hậu thuẫn của Mỹ, ngày 18.3.1970 trong lúc Sihanouk đang ở ngoại quốc, Thủ Tướng Lon Nol cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnom Penh, bao vây toà nhà Quốc hội và triệu tập Quốc hội bỏ phiếu phế truất Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Lon Nol cử Hoàng thân Sirik Matak – người bị chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk - giữ chức Phó Thủ tướng. Sau cuộc đảo chính, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol.
Tháng 10 Lon Nol tuyên bố thành lập Cộng hòa Khmer và Lon Nol trở thành Tổng thống đầu tiên. Hoàng thân Sirik Matak được cử làm Phó Tổng Thống.
Tháng 4 năm 1973, Lon Nol đình chỉ hoạt động của Quốc hội, tuyên bố thành lập "Hội đồng Chính trị Tối cao" bao gồm chính ông, Sirik Matak, Cheng Heng và In Tam.
Vào đầu năm 1975, Khmer Đỏ và CSVN bắt đầu mở cuộc tấn công chế độ Lon Nol, thành lập vòng đai bao vây thủ đô Phnom Penh. Quốc hội Hoa Kỳ quyết định không cấp viện trợ thêm cho Campuchia nữa. Ngày 1.4.1975, Tổng Thống Lon Nol tuyên bố từ chức và bay đi tỵ nạn ở Hawaii. Hoàng thân Sirik Matak quyền Tổng Thống.
Sáng 12.4.1975 Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Eagle Pull, di tản các nhân viên, các viên chức Mỹ và một số viên chức Campuchia bằng máy bay trực thăng từ thủ đô Phnom Penh tới các hạm đội Mỹ trong vịnh Thái Lan.
Đại sứ Mỹ ở Cambodia lúc đó là ông John Gunther Dean đã thông báo cho các viên chức cao cấp của Cộng Hòa Khmer biết Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ, nhưng Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ Tướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol) và các thành phần nội các của chính phủ Lon Nol đã từ chối, mặc dầu Long Boret và Sirik Matak có tên trong danh sách “Bảy kẻ Phản Bội” (Seven Traitors) bị Khmer Đỏ tuyên án tử hình. Tổng cộng có 150 người trong chính phủ Cộng hòa Khmer đã di tản theo người Mỹ. Còn Hoàng thân Sirik Matak đích thân viết cho Đại sứ John Gunther Dean một lá thư có nội dung như sau:
“Tôi thành thật cảm tạ Ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy! Với Ngài và nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ! Xin Ngài nhận những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.”
Ký tên: Hoàng thân Sirik Matak
Riêng về Thủ Tướng Long Boret, Đại sứ John Gunther Dean kể:
"Long Boret đã từ chối việc di tản. Ông ta là một người tài giỏi. Trẻ hơn nhiều so với Lon Nol hoặc Sirik Matak. Khi cá nhân tôi đến gặp ông vào ngày 12 tháng 4, trong cuộc di tản buổi sáng sớm của chúng tôi, đề nghị ông ta hãy dắt vợ con cùng chúng tôi rời khỏi Phnom Penh vì tôi lo sợ cho sự an toàn của ông ấy, ông ta cảm ơn tôi nhưng [như ông ta nói] nghĩ rằng tính mạng của ông ấy không đáng lo ngại.”
Ngày 17.4.1975, lực lượng Cộng hòa Khmer sụp đổ, Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh. Hoàng thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret, Lon Non và các viên chức hàng đầu của Chính phủ Cộng hoà Khmer đã bị bắt đưa đi xử tử tại trung tâm thể dục thể thao Cercle Sportif. Các đơn vị thuộc quân đội Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer của Lon Nol còn lại trong thủ đô đều bị tước vũ khí và đưa đi xử bắn toàn bộ tại sân vận động Olympic.
Trong Hồi ký “Ending the Vietnam War” Kissinger nói rằng chính quyền Ford đã bất ngờ và xấu hổ vì trên thực tế các quan chức hàng đầu của Campuchia đã từ chối rời khỏi đất nước, bao gồm Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret và em trai cựu Tổng thống Lon Nol là Lon Non, mặc dầu họ nằm trong danh sách mà Khmer Đỏ đã tuyên án tử hình.
RỒI QUAY LẠI NHÌN TA...
Tướng Dương Văn Minh vốn nổi tiếng là THAM, NGU, HÈN nên bị Mỹ khai thác và đưa ra làm con bài thí mỗi khi muốn thay đổi tình hình.
1.- BỊ DÙNG LÀM SÁT THỦ
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám Đốc Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã kể lại hai chuyện liên quan đến những sự vi phạm nghiêm trọng của Dương Văn Minh, nhưng được Tổng Thống Diệm bỏ qua cho:
Vụ thứ nhât: Chôm thùng phuy vàng của Bình Xuyên
Ông cho biết vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Họ thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông cho mò tìm và vớt được hai thùng, một thùng đựng bạc giấy và một thùng đựng vàng. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Dương Văn Minh chẳng báo cáo gì về vụ vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh điều tra. Hai người được trao nhiệm vụ điều tra là Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội. Đại Tá Xuân báo cáo số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh. Nhưng sau khi suy nghĩ, ông Diệm nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó đi cho yên!”
Vụ thứ hai: Chứa chấp gián điệp Việt Cộng.
Vào đầu năm 1960, nhân viên tình báo thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra.
Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt.
Ông đã trình vụ này cho Tổng Thống Diệm, nhưng sau khi nghe, Tổng Thống đã đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cam-bốt và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: Nếu trở lại sẽ bị thanh toán.
Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.”
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên năm 1963 khi tổ chức đảo chánh ông Diệm, Mỹ đã dùng Dương Văn Minh làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, tức chỉ huy cuộc đảo chánh. Nhưng khi hành động, Thiếu Tá Lucien Conein chỉ để cho Dương Văn Minh làm sát thủ, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và hai người chống đảo chánh là Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, còn việc tổ chức và điều hành quân đội đảo chánh đều đặt dưới quyền chỉ huy của hai nhân viên CIA là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu.
Tướng Minh được trao quyền lãnh đạo chính phủ trong giai đoạn chuyển tiếp, sau đó bảo Tướng Khiêm làm “chỉnh lý” ngày 30.1.1964, loại bỏ các tướng râu ria của Dương Văn Minh về tội “thân Pháp”, đưa Tướng Nguyễn Khánh ra làm sát thủ Ngô Đình Cẩn. Nguyễn Khánh ban hành một đạo luật hồi tố để giết Ngô Đình Cẩn. Giới luật gia phản đối vì luật này vi phạm nguyên tắc bất hồi tố (non-retroactive) của hình luật và điều 11 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng khi Mỹ bảo thì chẳng cần luật pháp, nên Nguyễn Khánh đã cho xử bắn Ngô Đình Cẩn. Sau đó các biến loạn đã xảy ra, Mỹ loại Nguyễn Khánh và đưa hai tên tà lọt của CIA là Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm lên cầm quyền tại Miền Nam cho đến ngày mất nước.
2.- BỊ DÙNG LÀM HÀNG TƯỚNG
Ngày 21.4.1975, Đại Sứ Martin đến thuyết phục Tổng Thống Thiệu từ chức để đưa Dương Văn Minh lên đầu hàng, nhưng ông Thiệu chẳng biết gì hết, còn hỏi ông Martin: “Nếu tôi từ chức, viện trợ Mỹ có đến không?” Đại Sứ Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng có thể có”.
Frank Snepp cho biết sáng 20.4.1975, Đại Sứ Mattin đã đi gặp Đại Sứ Mérillon của Pháp và xin tiếp một tay. Đại sứ Merillon cho Tướng Minh biết ông ta đã liên lạc với phía bên kia, họ cho biết chỉ nói chuyện với tướng Minh. Tướng Minh tưởng thật, đồng ý làm Tổng Thống để điều đình với “phía bên kia” và thành lập một “chính phủ hòa hợp hòa giải”. Tướng Timmes đã đến gặp Tướng Minh để thăm dò, Tướng Minh cười và trả lời: “Vẫn còn cơ hội cho các cuộc thương thuyết…” (There was still a chance for negotiations). Nhưng chiều 28.4.1975, lúc 17 giờ 50, sau khi nhận chức Tổng Thống, Tướng Minh đã cho người đi tìm Đại Sứ Mérillon thì ông đã biến mất rồi!
Đến đây người Việt mới nhận ra rằng Mỹ là "siêu cộng sản"!
Lúc 11 giờ sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng T-54 đầu tiên của Việt Cộng tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập một cánh cổng đã mở, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
Khi mọi người chưa kịp làm gì tiếp thì Trung Tá Bùi Tùng, Chính Ủy Lữ Đoàn Xe Tăng 203 tới. Ông Minh thấy ông Tùng người to cao thì lễ phép chào và nói:
- Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào lâu rồi để bàn giao chính quyền
.
- Trung Tá Tùng nói:
- Các ông là người bại trận. Các ông không còn gì để bàn giao mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện.
Ông Tùng buộc Tổng Thống Dương Văn Minh và Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Bản tuyên bố đầu hàng do Chính Trị Viên Bùi Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.”
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống chỉ 36 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng, kết thúc cuộc đời làm con bài thí của Mỹ trong một thời điểm rất bi thảm.
NHỮNG BÀI HỌC ĐẮT GIÁ
Nhìn lại những gì mà Thủ Tướng Long Boret và Hoàng thân Sirik Matak của nước Campuchia nhỏ bé đã làm rồi nhìn lại hành động của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Tổng Thống Dương Văn Minh của nước Việt có lịch sử ngàn đời oai hùng…, ít ai không cảm thấy đau buồn.
Người Mỹ khi rút khỏi Sài Gòn không hề thông báo cho các viên chức cao cấp của VNCH rằng Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ như họ đã thông báo cho các viên chức Cộng Hòa Khmer khi rút khỏi Phnom Penh, nên hầu hết các viên chức cao cấp VNCH đã phải bị đi tù vì hợp tác với Mỹ. Chính quyền Ford cũng không hề “bất ngờ và xấu hổ” về chuyện này. Mặc dầu vậy “tình hữu nghị Việt – Mỹ vẫn đời đời bền vững”.
Hoàng thân Sirik Matak đã nói với người Mỹ “không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do” và “Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ!”, trong khi đó đa số người Việt đấu tranh vẫn tiếp tục tin tưởng rằng người Mỹ sẽ giúp họ “giải phóng quê hương” và mỗi khi có chuyện gì bất bình thường đi mách với Mỹ!
Đó là những bài học lịch sử đắt giá. Triết gia George Santayana (1863 – 1952) đã nhắc nhỡ chúng ta:
“Những người không thể nhớ quá khứ bị kết án tái diễn nó. Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.”
Ngày 28.4.2016