CON CÓ MỘT TỔ QUỐC

Ngày 16.09.2014, chúng ta kỷ niệm 12 năm ngày Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được Thiên Chúa cất khỏi trần gian, về Nhà Cha hưởng vinh phúc. Ngày 05.07.2013, tiến trình phong Chân Phước cho Vị Tôi Tớ Chúa đã hoàn thành ở Tổng Giáo phận Rôma và ông Hilgeman Waldery, Cáo thỉnh viên (Postulator), sẽ tổng hợp tất cả các hồ sơ về Đức Hồng Y Tôi tớ Chúa trong một ‘tập luận án’ (Positio) để trình lên Bộ Phong Thánh (Congregation for the Causes of Saints).

I./ SỰ THÁNH THIỆN BAO GỒM LÒNG YÊU NƯỚC.

Khi hay tin gia đình bị thiêu sống lúc đang kinh nguyện năm 1885, tại làng Đại Phong, ông Ngô Đình Khả đang học tại Chủng viện Penang (Mã lai) được các Cha Giáo đề nghị trở về nước và cưới vợ để giữ tên dòng họ, cùng phụng dưỡng mẹ không phương tiện sinh sống. Làm việc tại Triều đình, Vua Thành Thái ban cho ông tước Phù Đạo Đại Thần, cố vấn nhà Vua… Chống đối mạnh mẽ người Pháp đô hộ khi họ buộc Vua phải thoái ngôi và ông từ quan, về làm ruộng với các con trai. Cô Hiệp (mẹ tương lai Đức Hồng Y) cùng mẹ lo cơm nước và vất vả đem ra đồng cho thân phụ và các anh em trai. Trong hoàn cảnh cơ cực đó, không ai trong gia đình buông lời than trách trước một quyết định ái quốc. Họ vẫn nuôi ý chí ‘tiến thân’, với đầy kinh nghiệm lao động tay chân và thiếu thốn.

Ngày 18.06.1954, Quốc Trưởng Bảo Đại triệu ông Ngô Đình Diệm từ Ðan viện Saint–André de Bruges (Bỉ) đến gặp ông tại lâu đài Thorenc ở Cannes để và nói ý định bổ nhiệm ông này vào chức Thủ tướng :

– Cứ mỗi khi tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.
– Thưa Hoàng Thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…
– Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
Sau một hồi yên lặng cuối cùng ông ta đáp:
–Thưa Hoàng Thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây Thánh giá. Trước Thánh giá tôi bảo ông ta:
– Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó để chống lại bọn Cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.
Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên Thánh giá, ông nói với giọng nghẹn ngào:
–Tôi xin thề.

Viết trong hồi ký ‘Le Dragon d’Annam’ (Con Rồng Việt Nam), Quốc trưởng Bảo Đại rất quý trọng ông Diệm và đã mời ông này lập chính phủ tới 4 lần và ông chỉ nhận 2 lần : Lần đầu năm 1933, vì muốn cải cách hầu khôi phục dần chủ quyền Việt Nam, vua Bảo Đại đã mời ông Diệm đứng đầu Chính phủ kiêm tổng thư ký Hội đồng hỗn hợp Việt Pháp về ‘Canh Tân’ do nhận thấy : « Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhất là Ngô Đình Diệm, lúc ấy là Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, lúc mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ… ». Vì người Pháp không đáp ứng những yêu cầu của ông về canh tân nên chỉ vài tháng sau ông Diệm từ chức để phản đối, mặc dù Vua cố thuyết phục ông nên tiếp tục. Bất đắc dĩ phải chấp thuận cho ông từ chức, V vua bảo ông Diệm: ‘Mong rằng sự ra đi của quan Thượng sẽ mở mắt cho người Pháp’… Lúc đó, Bảo Đại đã chỉ kỳ vọng ở ông Diệm khi viết ‘Ngô Đình Diệm đi rồi, tôi hoàn toàn thất vọng’. Lần chót năm 1954… Sau khi dành Độc Lập hoàn toàn cho Quê Hương, tiếp đón và an cư lập nghiệp 800.000 đồng bào Miền Bắc tìm Tự Do, Chính phủ Ngô Đình Diệm đã phát triển kinh tế với lạm phát tăng không đáng kể khiến đời sống mọi người được bảo đãm. Năm 1963, vì từ chối sự hiện diện Lính tác chiến Mỹ trên Quê Hương, Hoa kỳ tạo vụ ‘Đàn áp Phật giáo’ để thuê kẻ giết vị Tổng thống tài đức, dân bầu của Việt Nam Cộng hòa. Ông Diệm đã tựu chức Thủ tướng ngày 07.07.1954 và trở thành Tổng thống ngày 26.10.1956, qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1956. Ngày 02.11.1963, Tổng thống và bào đệ, Cố vấn Ngô đình Nhu, bị bắn chết, sau khi rước Mình Thánh Đức Kitô và xưng tội, theo lệnh bọn Tướng lãnh được Hoa kỳ mua chuộc. Thánh Lễ An táng được cử hành bởi Linh mục Claude LARRE, Đại diện Tòa Khâm sứ ngày 08.11.1963.

Cha P.X. Nguyễn Văn Thuận không thể tin tưởng một người yêu nước đã phải chết như vậy và chỉ đương đầu được với thử thách mới này nhờ Đức Tin và nhất là nhờ sự an ủi dịu hiền từ của Mẹ của Cha. Bà lấy từ ngăn tủ bàn một văn kiện và dẫn Cha vào Nhà Nguyện và nói : « Đến lúc con nên đọc tài liệu này. Mẹ đã cất giấu đủ lâu ». Đó là văn kiện chứa những dòng chữ của cậu Diệm đã khấn dòng Biển Đức ngày 01.01.1954 tại Đan viện Saint–André de Bruges ở Bỉ, với tên Dòng Odilon. Bàn tay Cha run lên vì Thánh Odilon là Bổn mạng người tị nạn mà chính Tổng thống Diệm đã giúp hơn nữa triệu người di cư từ Miền Bắc và an cư lạc nghiệp một cách mỹ mãn. Hơn nữa, Thánh Odilon là Linh mục đã bắt đầu cử hành Thánh Lễ Cầu cho các Linh hồn ngày 02.11 hàng năm là ngày ông Diệm qua đời. Thấy thế, Bà khuyên lơn : « Cậu con đã cống hiến trọn cuộc đời cho quê hương và không lạ gì khi Cậu phải chết vì Tổ Quốc. Là một tu sĩ, Cậu đã dâng hiến cuộc sống cho Thiên Chúa, và không có gì lạ khi cậu phải chết lúc Chúa gọi Cậu ».

II./ MỤC TỬ VIẾT ‘CON CÓ MỘT TỔ QUỐC’.

Ngày 13.04.1967, Linh mục Phanxicô Xaviê NGUYỄN VĂN THUẬN đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trao sứ vụ Mục tử Giáo phận Nha Trang, thay Đức Cha Paul Raymond Piquet, MEP. Ngày 24.06.1967, nhân lễ Thánh Gioan Tẩy giả, tại Nhà thờ Chính tòa Huế, Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế Thánh Lễ phong Đức Cha cho Cha Thuận. Đức Cha mới đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên Hiến chế Mục vụ Công Đồng Vatican II. Sau đó, Đức Cha đã mở cuộc tiếp tân tại Trường Lasan Taberd Sài Gòn. Giữa mùa tranh cử Tổng thống và Nghị sĩ Thượng nghị viện, Ngài đã có dịp tiếp xúc với các chính trị gia, lãnh đạo nghiệp đoàn chủ và thợ, đại diện các tổ chức xã hội dân sự.

Ngày 15.07.1971, Đức Thánh Cha Phaolô VI thành lập Hội đồng Giáo hoàng Đồng Tâm (Cor Unum) với mục đích chính là phối hợp các cơ quan bác ái Công Giáo qua các dự án giúp đỡ và phát triển về phương diện nhân bản Công Giáo toàn cầu. Sau đó, Cor Unum tham gia trợ giúp Việt Nam qua một tổ chức được hình thành bởi Hội đồng Giám mục Việt Nam và Giám mục các quốc gia mang tên là Hợp tác để Tái thiết Việt Nam (Cooperation for the Reconstruction of Viêtnam (COREV). Các Giám mục Việt Nam trao trách nhiệm điều hành cho Đức Cha vì Ngài là Chủ tịch Ủy ban Phát triển Hội đồng Giám mục. Đây là một trọng trách nặng nề mà chỉ Đức Cha mới có thể vừa cai quản hữu hiệu Giáo phận, vừa điều hành hoàn chỉnh COREV, nhưng các Giám mục đã an tâm khi nhớ một người trong gia đình Đức Cha Thuận đã hoàn thành mỹ mãn việc bình định cho gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam trong thập niên 1950: Tổng Thống Ngô đình Diệm.

Trụ sở COREV đặt tại Sài Gòn, nên Đức Cha phải thường xuyên đi lại giữa nơi này và Nha Trang. Về tài chánh, dù các Giám mục trao toàn quyền cho Ngài, nhưng Ngài đã không quyết định mà không hội ý với các Giám mục khác. Luôn phải liên lạc, giải trình với các Giám đốc Misereor và Caritas Đức, Secours Catholique Pháp, Catholic Relief Services Hoa kỳ, Secours International Bỉ… về các dự án xây nhà, cất trường học…, Đức Cha nói thạo các tiếng Pháp, Anh, Ý, Tây ban nha, Hoa và La tinh. Người ta thẩm lượng việc Đức Cha làm có thể so sánh với việc làm của năm người bình thường. Khi gặp khó khăn, Cha nhìn lên trời và xin Cậu Diệm giúp đỡ. COREV càng thành công thì người Cộng sản càng coi Ngài là người đáng sợ.

Ngày 24.04.1975, Đức Cha được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sàigòn với quyền kế vị. Đêm 07.05.1975, khi ghi âm lời Tạm biệt Giáo phận Nha trang để vào Sàigòn, theo lệnh Đức Phaolô VI bổ nhiệm, Ngài đã khóc nhiều, đó là lần độc nhất đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha trang vì thương nhớ : ‘Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha’. Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… Ngày 08.05.1975, nhóm 14 Linh mục do Trương bá Cần và Huỳnh công Minh chỉ đạo đã gởi một kiến nghị đến Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình bày tỏ mối lo ngại về việc thuyên chuyển Đức Cha về Sài Gòn trong tình thế hiện nay sẽ không thuận lợi cho Giáo Hội tại Việt-Nam. Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, Đức Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp Ủy Ban Quân Quản cùng các Linh mục và giáo dân tự nhận là ‘Công Giáo yêu nước’ hay ‘quốc doanh’. Đối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sài-gòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Ngài chỉ xác nhận sự vâng lời của mình đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha và bác bỏ lời cáo gian có âm mưu nói trên.

Chiều ngày 15.08.1975, Quân quản mở cuộc họp tại Nhà hát Thành phố để cáo buộc ‘sau lưng’ Đức Cha. Khoảng 350 Giáo sĩ, Tu sĩ được mời buộc phải nghe. Ủy ban vì ‘sợ’ muốn ngừa tránh mọi phản ứng của người dân đối với vụ bắt Ngài. Trước đó, Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình và Đức Cha Thuận được đưa đến Dinh Độc lập lúc 14 giờ. Tại đó, khi đi qua hành lang để đến phòng họp, Đức Cha Bình đi trước, Đức Cha Thuận đi sau. Lúc đó, một tên công an chận Đức Cha Thuận lại và nói: ‘Anh đi lối này’ và lôi Ngài đi mất luôn. Khoảng 30 phút sau, chỉ thấy tướng Trà nói chuyện vu vơ, Đức Cha Bình hỏi : - Thưa Thượng Tướng, còn chuyện gì cần nữa không?
Tướng Trà trả lời: - Thôi! Cụ ra về được rồi.
- Đức Cha phó của tôi đâu mời Ngài cùng về.
- Như cụ thấy, chế độ này là chế độ Cộng sản. Tên Thuận là dòng dõi Ngô Đình Diệm, chúng nó chống Cách Mạng từ trong trứng chống ra, nên không thể để nó ở đây được.

Sau đó, Đức Cha Thuận bị bắt và đem đi trên một xe hơi có hai công an đi kèm và cuộc phiêu lưu của Ngài bắt đầu… Trong cuộc hành trình, Ngài biết mình đang mất tất cả. Ra đi với chiếc áo chùng thâm trong túi có một cỗ tràng hạt, Đức Cha chỉ còn biết phó thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng giữa bao lo âu ấy, Ngài vẫn thấy có một niềm vui lớn: ‘Hôm nay là lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời...’ và Chúa yêu cầu Ngài hãy trở về với điều cốt yếu.

Trong đêm tối, một tia sáng đến với tôi: ‘Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, Ngài đã viết thư cho các giáo đoàn. Đơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?’. Sáng hôm sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10/1975, Đức Cha ra hiệu cho một cậu bé 7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh: ề Quang! con về nói má con mua cho ông mấy ‘bloc’ lịch cũ, ông cần dùng Ừ. Chiều tối, chú bé đã làm đúng vậy. Thế là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, Ngài đóng hết cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết ‘Sứ điệp từ ngục tù’ cho giáo dân, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt. Mỗi sáng, Ngài trao cho bé Quang, mấy tờ lịch đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại kẻo mất. Nếu để trên bàn tôi, ‘ông An’ (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa. Đấy là đầu đuôi sách “Đường Hy Vọng”, sứ điệp lao tù thành hình là như thế. Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng. Trong đó, chúng ta có thể đọc Lời Thơ:
Con Có Một Tổ Quốc

Là người Công Giáo Việt Nam,
Con phải yêu Tổ Quốc gấp bội.

Tiếng chuông ngân trầm,
Việt Nam nguyện cầu.
Tiếng chuông não nùng,
Việt Nam buồn thảm.
Tiếng chuông vang lừng,
Việt Nam khởi hoàn.
Tiếng chuông thanh thoát,
Việt Nam hy vọng.

Con có một tổ quốc Việt Nam,
Quê hương yêu quí ngàn đời.
Con hãnh diện, con vui sướng.
Con yêu non sông gấm vóc,
Con yêu lịch sử vẻ vang.
Con yêu đồng bào cần mẫn,
Con yêu chiến sĩ hào hùng.
Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn.
Núi cao, xương chất cao hơn.
Đất tuy hẹp, nhưng chí lớn.
Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.
Con phục vụ hết tâm hồn,
Con trung thành hết nhiệt huyết.
Con bảo vệ bằng xương máu,
Con xây dựng bằng tim óc.
Vui niềm vui của đồng bào,
Buồn nỗi buồn của Dân Tộc.

Một Nước Việt Nam,
Một Dân Tộc Việt Nam,
Một Tâm Hồn Việt Nam,
Một Truyền Thống Việt Nam.

Là người Công Giáo Việt Nam,
Con phải yêu Tổ Quốc gấp bội.
Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con.
Cha mong giòng máu ái quốc,
Sôi trào trong huyết quản con.

Lời thơ này được phổ nhạc bởi Linh mục Đỗ Bá Công, được cất tiếng hát bởi Nữ Ca sĩ Công Giáo Khánh Ly tại : http://www.youtube.com/watch?v=_2X6jfGwgcY

III./ TỔ QUỐC LÂM NGUY.

A. Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh : Hai Thái Cực.

Giáo sư Francis Xavier Winters, năm 1999, viết trên tạp chí ‘World Affairs’ Ấn Độ, có nhắc: sau khi ông Diệm chết, một nhà báo Pháp hỏi Hồ chí Minh : ‘Ông Diệm là người thế nào ?’ Ông Hồ đã trả lời : « Ông ta là một người yêu nứớc theo kiểu của Ông ta ». Hồ Chí Minh còn lên giọng trịch thượng khi nói với Wilfrid Burchett, một ký giả cộng sản nặng: « Tôi không thể ngờ là tụi Mỹ lại ngu đến thế ! ». Ngày nay, Sự Thật về hai Người đã được tiết lộ khá đầy đủ để chúng ta có thể xác định tính cách hai kiểu yêu nước khác nhau này. Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Diệm, từ Sài gòn, trở lại Huế để thăm mẹ và đã bị Việt Minh bắt tại Tuy Hòa (Phú Yên). Chúng giải ông ra Hà Nội và bị giam giữ tại miền núi Tuyên Quang. Sau đó, ông được trả tự do theo lệnh ân xá của Hồ Chí Minh năm 1946 và ông Hồ mời ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ. Ông Diệm cương quyết đòi phải biết mọi bí mật của chính phủ. Ông Hồ biết tham vọng xấu xa của ông khó có thể được tha thứ bởi vị đứng đầu Bộ Nội vụ, nên ông Hồ đã từ chối. Hơn thế, ông Diệm đã hỏi ông Hồ : « Tại sao ông giết anh tôi? » (ông Ngô Đình Khôi). Đây là câu hỏi từ một người thật can đảm khi trong tay không một tấc sắt, vì Hồ đang đầy uy quyền và, dưới tay hắn, có cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người.

Sự e ngại đó được bọn Cộng sản đàn em thể hiện trên Đức Cha P.X. Nguyễn Văn Thuận, Vị Mục tử yêu nước cùng kiểu với Cậu mình. Bởi thế, Đức Cha đã bị tù giam trong 13 năm, nhưng không có bản án. Khôi hài quá nếu Tòa xử tù vì ‘yêu nước cùng kiểu với Ngô Đình Diệm’ hay ‘tuân Bài Sai của Đức Thánh Cha’ vì Giáo sĩ không tuân lệnh Bề Trên mới đáng trách.

Ngày 02.07.2013, nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức đã bị công an sân bay Nội Bài, Hà Nội không cho xuất cảnh khi ông được thư mời của Hội đồng Công lý và Hòa bình tham dự lễ ‘Bế mạc phần điều tra tại Giáo phận’ trong hồ sơ phong Chân phước cho Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Khi làm ở Phòng Tôn giáo Bộ Công an, người ta có ‘đối sách’ về Đức Cha vì một tội rất to là cháu của Ngô Đình Diệm và sự về Sài Gòn làm Phó Tổng Giám mục là để lót ổ lên Tổng Giám mục nên Người bị chuyển ra Bắc. Do phải có một đội trông Người và ông là một sĩ quan lâu năm nên đề nghị để ra học tiếng Pháp với Đức Cha, chứ không để trông Người. Khi học tiếng Pháp thì tôi cảm nhiễm tinh thần Đức Cha. Sau khi xảy ra sự kiện Thiên An môn, không còn muốn làm công an nữa vì, như thế, dễ phải đi đàn áp dân và tôi chuyển ngành nhưng không được, xin thôi việc cũng không cho nên phải bỏ việc. Khi được Rửa tội ở Nhà thờ lớn, các Cha mời anh viết diễn giải có đề ‘Con Đường Đức Tin Qua Cây Cầu Francisco Savie Nguyễn Văn Thuận’, rồi được gởi qua Tòa Thánh để bổ túc vào hồ sơ phong thánh.

B. Tương lai Tổ Quốc ?

Đọc bài ‘Đã đến lúc giải mật Hội nghị Thành Đô’ đăng trên mạng RFA ngày 06.08.2014 ( http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/time-to-declas-thanhdo-conf-08062014082423.html ), chúng ta được biết rằng Truyền thông Tàu cộng vừa công bố những chi tiết về ‘Kỷ yếu Hội nghị Thành Đô’ như sau (xin trích): « Vì sự tồn tại sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. VN sẽ cố gắng vun đắp tình hữu nghị lâu đời giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp. Và Việt Nam mong muốn được làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Trung quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị này và cho VN thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốcỪ. Sau đó, có những cựu sĩ quan Quân đội và Công an lên liếng yêu cầu Đảng và Nhà nước lên tiếng cho biết nguồn tin của Tàu cộng có đúng hay không. Nhưng im lặng hoàn toàn về phía phải trả lời cũng như bên đặt câu hỏi, có thể vì sợ mất sổ hưu như Tướng ‘đầu đàn’ Võ Nguyên Giáp trước kia.

Ước mong mỗi người trong chúng ta hãy suy niệm Đạo Đức và Yêu Nước từ Nhị Vị Lãnh Đạo, một về Công Giáo và một về Chính trị, để tự mình hay cùng chung hành động để đem lại những điều tốt đẹp cho Quê Hương, Dân Tộc và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Hà Minh Thảo