VIII. Giáo Hội Công Giáo và xã hội Đại Hàn dưới ách cai trị thực dân (2)



1. Bối cảnh thời gian

Từ khi sát nhập Đại Hàn năm 1910, Nhật tăng cường nền cai trị khắc nghiệt bằng quân sự đối với nước này. Tuy nhiên, sau Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba năm 1919, Nhật nới lỏng đôi chút sự kiểm soát của mình. Nhưng từ thập niên 1930, trong thời xâm lăng toàn diện Trung Hoa, Nhật lại gia tăng sự kiểm soát quân sự gắt gao của mình đối với Đại Hàn, biến nó thành căn cứ quân sự của mình.

Dưới ách cai trị thực dân, các phong trào quốc gia chống chủ nghĩa thực dân tiếp tục gia tăng, tiếp theo Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba. Điều đáng ghi nhận là phong trào cộng sản là một trong các phong trào độc lập Đại Hàn vào lúc đó. Phong trào này khởi đầu ở Đại Hàn thập niên 1920 và lãnh đạo nhiều chiến dịch nhằm giành độc lập quốc gia và giải quyết các tranh chấp giai cấp, một cách riêng rẽ đối với các người quốc gia khác từng chiến đấu cho chính nghĩa quốc gia từ cuối thế kỷ 19. Các tay thực dân Nhật đã đàn áp cả các phong trào quốc gia lẫn cộng sản của Đại Hàn.

Thế giới Công Giáo, vào lúc đó, chịu ảnh hưởng của Công Đồng Vatican I và nhấn mạnh tới các giáo huấn truyền thống. Cũng trong thời gian này, nhiều biến cố quan trọng diễn ra trên thế giới như Cách Mạng Nga năm 1917, quốc hữu hóa mọi tài sản của Giáo Hội bởi chính phủ Mễ Tây Cơ năm 1927, và Nội Chiến Tây Ban Nha năm 1938. Việc liên tiếp diễn ra các biến cố này, cộng với việc bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, đã khiến người ta cảm thấy một khủng hoảng nào đó trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Trong một bầu không khí như thế, các vị giáo hoàng đã ban hành nhiều tông thư lên án Cộng Sản và tỏ rõ chủ trương của Giáo Hội.

Chủ nghĩa phát xít cũng trở thành một lực lượng mạnh trong thập niên 1930 trong khi tại Đông Á, Nhật bắt đầu xâm lấn toàn diện các nước láng diềng Đông Á của họ và tăng cường việc bóc lột người dân Đại Hàn. Trong Thế Chiến II, nhiều người dân Đại Hàn, trong cuộc chiến đấu giành độc lập của họ, đã tham gia nhiều cuộc chiến quân sự chống lại Nhật. Cuối cùng, Nhật bị đánh bại vào ngày 15 tháng Tám năm 1945 và Đại Hàn được giải phóng.

2. Giáo Hội và chủ nghĩa cộng sản

Chủ nghĩa cộng sản bắt đầu ở Đại Hàn như một phong trào quốc gia giành độc lập thời thực dân, và Đảng Cộng Sản Đại Hàn được thành lập năm 1925. Từ đầu, Đảng này đã công bố nhiều quan điểm phản tôn giáo, coi tôn giáo như mê tín và là thuốc phiện ngu dân. Đàng khác, thế giới Công Giáo, vì bị sức mạnh chính trị mỗi ngày một lớn của Đảng Cộng Sản thách thức nặng nề, nên đã nhấn mạnh tới chủ nghĩa chống cộng nhằm tự bảo vệ mình. Chủ trương này ảnh hưởng rất lớn đối với Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn. Chính phủ phát xít Nhật lợi dụng tình thế này bằng cách dùng sự đe dọa bành trướng của Cộng Sản làm cớ cho việc xâm lăng Trung Hoa và áp đặt chính sách chống cộng riêng của họ. Họ cũng biện minh việc đàn áp các người quốc gia của Đại Hàn đi theo đường lối cộng sản.
Trong tình thế trên, Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn cũng có chủ trương chống cộng mạnh mẽ và trình bày chủ trương của mình qua nhiều sách vở và ấn phẩm. Các văn kiện chống cộng của Đức Giáo Hoàng đã được dịch sang tiếng Đại Hàn... Một số nhà lãnh đạo Giáo Hội ủng hộ cả chính sách chống cộng của Nhật, một chính sách thực ra chỉ là lớp sơn bề ngoài che đậy việc họ xâm lăng Trung Hoa, bằng cách đồng hóa nó với chủ trương chống cộng của Giáo Hội. Trong một mức độ nào đó, sự lẫn lộn này đã làm tê liệt khả năng của Giáo Hội trong việc phê phán chính sách xâm lược của Nhật trong Thế Chiến II. Bị khích động bởi động thái này, nhiều người Công Giáo, vốn dửng dưng đối với các chính nghĩa quốc gia, đã ủng hộ phong trào chống cộng. Một số người tả khuynh thì phê phán những người Công Giáo này là thân Nhật.

Ý thức hệ chống cộng được Giáo Hội đưa ra vào lúc đó tiếp tục gây nhiều ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn ngay cả sau năm 1945. Giáo Hội Miền Bắc, nơi đồn trú của quân đội Nga, chịu ảnh hưởng vì chủ trương chống cộng này. Sau Chiến Tranh Triều Tiên, Giáo Hội bị xóa sạch tại Bắc Triều Tiên.

3. Vấn đề thờ Thần Đạo

Một trong chính sách xâm lược của Nhật là cưỡng bức việc “nhật hóa” người Đại Hàn và một trong các phương pháp để đạt mục tiêu này là buộc người Đại Hàn phải thờ phượng tại Đền Thờ Thần Đạo, một nghi thức tôn giáo truyền thống của Nhật. Trong quá trình hiện đại hóa nước Nhật, chính phủ nhấn mạnh tới thần đạo, coi nó như nền tảng của tinh thần quốc gia. Do đó, việc thờ phượng theo thần đạo chứa đựng một khía cạnh của nghi lễ quốc gia của Nhật. Thành thử, những tên quân phiệt buộc người Nhật cũng như mọi dân tộc dưới quyền cai trị của họ phải thực hành việc thờ thần đạo ngõ hầu thu phục được sự hỗ trợ của dân đối với dự án chiến tranh của họ và để tiêm nhiễm nơi dân một ý thức hệ phò chiến tranh.

Năm 1925, Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn ấn hành cuốn “Các Chỉ Thị Cho Các Giáo Lý Viên” lên án việc thờ thần đạo, coi nó là lạc giáo và cấm tín hữu không được tham dự nghi lễ này. Một số học sinh Công Giáo bị đuổi khỏi các trường công lập khi từ khước không chịu tham dự nghi lễ thần đạo vì tuân theo các chỉ dẫn trên. Người Công Giáo Đại Hàn nói chung từ khước không tham dự vì cùng một lý do. Trong khi Giáo Hội và chính phủ Nhật giằng co về việc thờ thần đạo này, thì Giáo Hội Công Giáo tại Nhật lên tiếng hỏi chính phủ của họ xem việc thờ này có phải là một nghi lễ tôn giáo hay chỉ là một nghi thức dân sự để tỏ lòng ái quốc. Chính phủ trả lời rằng đây là một nghi thức dân sự. Khi trả lời như thế, chính phủ Nhật muốn tránh tranh chấp giữa thần đạo và các tôn giáo khác.Thành thử, sau đó, vào năm 1936, Tòa Thánh có gửi một chỉ thị cho sứ thần tòa thánh tại Nhật cho phép người Công Giáo tham dự nghi thức thần đạo, trên cơ sở quan điểm của chính phủ Nhật về việc này. Chỉ thị này áp dụng cho cả người Công Giáo Đại Hàn nữa.

Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn biết rõ nghi lễ thần đạo có bao hàm việc thờ các thần truyền thống của Nhật. Do đó, đa số người Đại Hàn phản đối việc này. Cha John Morris, M.M., đứng đầu phủ doãn tông tòa Bình Nhưỡng, đã phải từ nhiệm vì từ khước không tham dự nghi lễ thần đạo. Bất chấp chỉ thị của Vatican, nhiều người Công Giáo Đại Hàn chọn theo lương tâm và từ khước việc tham dự việc thờ thần đạo. Một số linh mục, tu sĩ và giáo dân bị bắt và chịu bách hại trong tay nhà cầm quyền Nhật vì từ khước không làm việc thờ phượng này. Tuy nhiên, so với sự đối kháng của Giáo Hội Thệ Phản, sự đối kháng của Công Giáo yếu hơn. Chính vì thế, người Công Giáo bị các đối tác Thệ Phản của mình phê phán nặng nề.

4. Kết luận

Về cuối thời thực dân, cuộc bách hại Giáo Hội của Nhật trở nên khắc nghiệt hơn. Một số thánh thi và thánh ca bị cấm viện cớ là lời lẽ của chúng có tính phá hoại. Cảnh sát Nhật bắt giam các Kitô hữu nào dám cầu nguyện cho hòa bình, kết tội họ là tuyên truyền ý thức hệ bài chiến tranh. Giáo Hội bị ra lệnh phải ấn hành các sách vở bằng tiếng Nhật mà thôi và bị buộc lập ra các tổ chức nhằm ủng hộ chính sách chiến tranh của Nhật. Tuy thế, giữa các khó khăn này, người Công Giáo Đạo Hàn vẫn tiếp tục cầu nguyện cho việc giải phóng đất nước và cho hòa bình thế giới.

IX. Việc giải phóng Đại Hàn và Giáo Hội



1. Bối cảnh thời gian

Đại Hàn thoát khỏi sự cai trị của chủ nghĩa đế quốc Nhật vào ngày 15 tháng Tám năm 1945. Việc giải phóng quốc gia là khởi điểm cho lịch sử hiện đại của Đại Hàn cũng như lịch sử hiện đại của Giáo Hội Công Giáo tại đây. Ngay sau cuộc giải phóng, Lực Lượng Đồng Minh đã trú đóng tại Đại Hàn dưới danh nghĩa giải trừ quân sự Nhật Bản. Lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, quân đội Xô Viết trú đóng ở miền Bắc, quân đội Hoa Kỳ trú đóng ở miền Nam. Thoạt đầu, dân Đại Hàn coi họ như những người giải phóng. Tuy nhiên, Lực Lượng Đồng Minh định nghĩa người Nam Hàn như là người được giải phóng nhưng vẫn sống trên lãnh thổ thực dân của một đế quốc bại trận. Bởi thế, họ thi hành chính sách chiếm đóng trên bán đảo Đại Hàn.

Thời kỳ Chiến Tranh Lạnh bắt đầu với việc chấm dứt Thế Chiến Hai. Cái khung đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga Xô Viết gây ảnh hưởng tới tình huống chính trị tại Bán Đảo Đại Hàn đang bị chiếm đóng, và vĩ tuyến 38 trở thành đường ranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Nhân dân Đại Hàn cương quyết duy trì độc lập và các phong trào quốc gia cố gắng tranh đấu để ngăn ngừa việc chia đôi đất nước. Tuy nhiên, các cố gắng của họ đã vô vọng. Vì cuối cùng, hai chính phủ biệt lập đã được tạo dựng trên bán đảo Đại Hàn như là hậu quả của cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Xô Viết. Một số chính trị gia của cả Nam lẫn Bắc Đại Hàn đã lợi dụng tình thế này: Nam thì dựa vào hệ thống tư bản, Bắc thì dựa vào chủ nghĩa xã hội. Việc thành lập hai chính phủ trong bối cảnh ý thức hệ hoàn toàn khác nhau này đã khuyến khích khả thể nội chiến giữa người Đại Hàn với nhau. Cuối cùng, chiến tranh Triều Tiên đã bùng nổ vào năm 1950.
Từ năm 1945 tới năm 1950, Giáo Hội đã chia sẻ nỗi vui buồn của cả nhân dân Đại Hàn trong một xã hội đang biến đổi nhanh chóng.

2. Cuộc giải phóng và Giáo Hội tại Nam và Bắc Đại Hàn

Lúc được độc lập, Giáo Hội Nam Hàn có 5 đại diện tông tòa, 3 phủ doãn tông tòa và một đan viện độc lập với khoảng 180,000 tín hữu (khoảng 50,000 ở miền Bắc và 110,000 ở miền Nam và 20,000 ở Giáo Phận Yenki thuộc Mãn Châu) hay 0.7 phần trăm dân số. Có 169 nhà truyền giáo ngoại quốc, 139 linh mục Đại Hàn và 400 nữ tu. Các cơ quan giáo dục và phục vụ xã hội do người Công Giáo điều khiển rất ít. Giáo Hội Công Giáo không có được bất cứ nhân vật lãnh đạo nào trong cuộc tranh đấu giành độc lập. Do đó, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo trong xã hội Đại Hàn lúc được độc lập quả không đáng kể chút nào.

Tuy nhiên, độc lập vẫn là một biến cố vĩ đại đối với Giáo Hội Đại Hàn vì Giáo Hội này hy vọng rằng nó sẽ kết liễu sự can thiệp và áp chế của người Nhật đối với mình. Giáo Hội coi việc giải phóng quốc gia là một hồng ơn của Trinh Nữ Diễm Phúc Maria vì độc lập xuất hiện vào đúng ngày Lễ Mông Triệu của ngài. Các Thánh Lễ tạ ơn và nhiều cử hành đặc biệt mừng ngày giải phóng quốc gia và hòa bình thế giới đã được tổ chức khắp trong nước.

Tháng Chín năm 1945, Lực Lượng Quân Sự Hoa Kỳ đổ bộ lên Đại Hàn và TGM Spellman tới Hán Thành. Ngài thăm Nhà Thờ Chính Tòa Myeongdong tại Hán Thành và an ủi người Công Giáo Đại Hàn từng đau khổ dưới ách cai trị thực dân. Một Thánh Lễ và một buổi chào mừng Lực Lượng Đồng Minh đã diễn ra trong Nhà Thờ Chính Tòa Myeongdong cũng như chào mừng những người đã chiến đấu cho nền độc lập quốc gia. Mặt khác, Quân Đội Xô Viết trú đóng miền Bắc chính thức bảo đảm tự do tôn giáo. Khiến Giáo Hội miền Bắc hân hoan cử hành việc giải phóng quốc gia và cố gắng dùng nó làm bàn đạp thực hiện các tiến bộ mới. Tuy nhiên, cuối cùng, Giáo Hội này đã phải chịu nhiều khó khăn nghiêm trọng vì các thành kiến cố hữu của người cộng sản chống lại tôn giáo.

Giáo Hội hai miền Nam Bắc cùng chia sẻ niềm vui độc lập của đất nước. Nhưng, Giáo Hội đã không khiêm hạ tự vấn lương tâm về quá khứ khoan dung đối với chính sách chiến tranh của Nhật hay hợp tác với Nhật dù đây chỉ là miễn cưỡng. Thực vậy, thời Nhật chiếm đóng, Giáo Hội rất ít có thế lực để ảnh hưởng tới công luận của xã hội Đại Hàn vì các tên đế quốc chủ nghĩa người Nhật đã buộc được Giáo Hội này hợp tác với chính sách chiến tranh của chúng. Các giám quản tông tòa người Pháp bị các giám mục người Nhật thay thế. Trong bối cảnh này, Giáo Hội gây bối rối lương tâm cho nhiều người Công Giáo khi yêu cầu họ tham dự việc thờ thần đạo. Tự vấn lương tâm về những lầm lỗi này là điều kiện tiên quyết cho các tiến bộ mới. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Giáo Hội đã không muốn chính thức nhìn nhận lỗi lầm của mình.

Trong hoàn cảnh leo thang Chiến Tranh Lạnh, việc tự vấn lương tâm của Giáo Hội, vốn thuộc cánh hữu, càng trở nên khó khăn hơn vì một tác phong như thế sẽ là một động lực khuyến khích cánh tả tấn công cánh hữu.

3. Các đặc điểm của lịch sử Giáo Hội

Trong thời kỳ phân chia đất nước, Giáo Hội Đại Hàn cảm thấy đau khổ vì cảnh phân chia này. Các đại diện tông tòa Bình Nhưỡng, Hamhung và Đan Viện độc lập Dokwon nằm dưới sự cai trị của cộng sản miền Bắc do Liên Bang Xô Viết lãnh đạo. Tỉnh Hwanghae, vốn trực thuộc đại diện tông tòa Hán Thành, nay cũng thuộc lãnh thổ miền Bắc. Từ ngày giải phóng quốc gia, tại các khu vực vừa kể thuộc miền Bắc, các hoạt động tôn giáo được tiến hành một cách tích cực. Tại Bình Nhưỡng, chẳng hạn, người Công Giáo đã dám xây dựng một nhà thờ chính tòa và ở một số nơi, họ còn dấn thân vào các phong trào chính trị và gia nhập các đảng phái chống cộng như Đảng Dân Chủ Đại Hàn. Trong quá trình này, Giáo Hội Công Giáo Bắc Hàn gặp ngay sự chống đối của chính phủ cộng sản, là chính phủ đã thành lập ra Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Đại Hàn năm 1948. Người Công Giáo cũng chứng kiến diễn trình chuẩn bị Chiến Tranh Triều Tiên, trong đó, họ và các hoạt động tôn giáo của họ bị đàn áp thẳng tay. Cho tới tận lúc Chiến Tranh Triều Tiên bùng nổ, phần lớn các giáo sĩ Bắc Hàn đã bị bắt, các nhà thờ đã bị đóng cửa và các cộng đồng tôn giáo bị ra lệnh phải giải tán. Lúc đó, nhiều người Công Giáo miền Bắc đã di chuyển xuống miền Nam để được tự do tôn giáo.
Mặt khác, đa số tín hữu của giáo phận Yenki, Mãn Châu, đều là thường trú dân của Đại Hàn. Cuối Thế Chiến II, khi Trung Hoa phục hồi được chủ quyền của họ đối với Mãn Châu năm 1946, Tòa Thánh ở Rôma đã tách giáo phận Yenki ra khỏi Giáo Hội Đại Hàn và sát nhập nó vào Giáo Hội Trung Hoa. Việc này đem lại một số thay đổi trong Giáo Hội Đại Hàn. Cuối thời cai trị của thực dân, các giáo sĩ Nhật được chỉ định làm Đại Diện Giáo Hạt (vicariate forane) của tông tòa đại diện Taegu và Kwangju, nhưng sau đó, họ lập tức bị thay thế bởi các giáo sĩ Đại Hàn ngay khi đất nước được độc lập.

Năm 1910, khi bắt đầu chế độ cai trị của thực dân, Nhật ngăn cấm việc ấn hành tờ Gyeonghyang Sinmun của Công Giáo và sau đó, mọi tờ báo định kỳ của Giáo Hội cũng cùng chung số phận. Ngay sau ngày độc lập, Giáo Hội miền Nam lập tức cho tái tục tờ Gyeonghyang Sinmun, là tờ báo đã bén rễ sâu vào xã hội Đại Hàn và là một trong các tờ báo gây nhiều ảnh hưởng hơn cả. Giáo Hội dùng nó như một cỗ xe chuyên chở các quan điểm và ý kiến của mình liên quan tới đường hướng mà xã hội Đại Hàn nên tuân theo. Với việc tái bản tờ Gyeonghyang Sinmun, mọi ấn phẩm khác do Giáo Hội điều khiển, trước đây bị thực dân đóng cửa, thì nay đều đã được tái bản. Với nền độc lập quốc gia, Giáo Hội Đại Hàn đã tích cực thực thi công cuộc truyền giáo của mình.

Giáo Hội cũng tích cực tham gia việc đẩy mạnh giáo dục của xứ sở, bằng cách thành lập trường học và các hiệp hội giáo dục, các bệnh viện, các bệnh xá, các viện mồ côi và các viện dưỡng lão khắp xứ. Giáo Hội cũng đẩy mạnh các hoạt động Công Giáo bằng cách thành lập ra “Liên Đoàn Công Giáo Đại Hàn” năm 1949. Các cố gắng dành cho các phong trào sùng kính, trong đó có việc sùng kính các tử đạo Đại Hàn, vẫn tiếp tục triển nở.

Từ ngày độc lập, Tòa Thánh ở Rôma hết sức quan tâm tới Giáo Hội Đại Hàn, nên đã gửi Khâm Mang Tòa Thánh tới Đại Hàn năm 1947 trước cả việc thành lập Chính Phủ Nam Hàn. Năm 1948, Tòa Thánh là quốc gia thứ nhất thừa nhận chính phủ Nam Hàn vừa được thành lập. Hội Đồng Công Giáo Đại Hàn (HĐCGĐH) cũng đã được tổ chức để việc thực thi công cuộc phúc âm hóa được hữu hiệu. HĐCGĐH là cơ quan tòan quốc của các giám mục nhằm tổ chức và điều hợp các hoạt động của Giáo Hội trên bình diện quốc gia như giáo dục, dịch vụ y tế và các công tác xã hội.

4. Kết luận

Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn không đóng góp trực tiếp vào nền độc lập của đất nước và đã khoan dung đối với chính sách gây hấn của Nhật dù bị cưỡng bức. Nếu muốn phúc âm hóa nhân dân Đại Hàn sau ngày độc lập, Giáo Hội phải thành thực tự vấn lương tâm về các sai lầm trong quá khứ, nhưng Giáo Hội đã không làm như vậy.

Giáo Hội Đại Hàn đã gặp rất nhiều trở ngại trong lúc thi hành sứ mệnh của mình vì sự phân chia đất nước. Giáo Hội miền Nam có thể phát triển công cuộc truyền giáo của mình dưới sự bảo vệ của Quân Đội Hoa Kỳ, nhưng Giáo Hội này vẫn gặp rất nhiều khó khăn gây ra bởi tình hình xã hội và sự chống chọi giữa phe hữu và phe tả. Trong một tình huống phức tạp như vậy, Giáo Hội miền Nam tiếp tục thực hiện nhiều cố gắng để thực hiện cách hữu hiệu công trình truyền giáo của mình. Con số tín hữu từ từ gia tăng vá các cơ quan giáo dục và xã hội do Giáo Hội quản trị tiếp tục phát triển. Nhờ các ấn phẩm gây nhiều ảnh hưởng, Giáo Hội đã có thể nói lên các quan điểm của mình về nền tảng của tân quốc gia. Nhờ cách này, Giáo Hội đã vươn tay ra với nhân dân và gia tăng tầm ảnh hưởng của mình trong xã hội Đại Hàn.

Ngay sau ngày độc lập quốc gia, Giáo Hội miền Nam đã làm nhiều cố gắng thành công trong việc phúc âm hóa. Trong khi ấy, Giáo Hội miền Bắc kinh qua rất nhiều khó khăn dưới chế độ cộng sản. Sự trợ giúp thiêng liêng và tinh thần của Tòa Thánh và của người Công Giáo các nước ngoài đã đóng góp rất nhiều cho sự tiến bộ của Giáo Hội Công Giáo Nam Hàn. Tuy nhiên, liên quan tới việc phân chia đất nước, Giáo Hội đã không tích cực tham gia việc phản đối sự phân chia này.