Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và đánh giá

73. Một Giáo hội đồng nghị đòi hỏi cả văn hóa lẫn thực hành minh bạch và trách nhiệm giải trình, những điều cần thiết để phát huy sự tin tưởng lẫn nhau cần thiết để cùng nhau bước đi và thực thi đồng trách nhiệm vì sứ mạng chung. Trong Giáo hội, việc thực hiện trách nhiệm giải trình chủ yếu không đáp ứng các nhu cầu xã hội và tổ chức. Đúng hơn, nền tảng của nó được tìm thấy ngay trong bản chất của Giáo hội như một mầu nhiệm hiệp thông.

74. Trong Tân Ước, chúng ta thấy những thực hành về trách nhiệm giải trình trong đời sống của Giáo hội sơ khai có liên quan đáng kể đến việc bảo vệ sự hiệp thông của Giáo hội. Chương 11 sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta một ví dụ về điều này. Khi Thánh Phêrô trở về Giê-ru-sa-lem sau khi làm phép rửa cho Co-nê-li-ô, một người ngoại giáo, những tín đồ chịu phép cắt bì đã quở trách ngài rằng: “Tại sao ông lại đến nhà những người không cắt bì và ăn uống với họ?” (Công vụ 11:2-3). Thánh Phêrô đáp lại bằng cách bày tỏ lý do đằng sau hành động của mình. Do đó, trách nhiệm giải trình về mục vụ của mình trước cộng đồng thuộc về truyền thống lâu đời nhất của Giáo hội, có từ thời các tông đồ. Thần học Kitô giáo về vai trò quản lý cung ứng một khuôn khổ để hiểu việc thực thi thẩm quyền và suy gẫm về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

75. Trong thời đại chúng ta, nhu cầu về sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong và ngoài Giáo hội đã xuất hiện do sự mất uy tín do các vụ bê bối tài chính và thậm chí còn hơn thế nữa là lạm dụng tình dục và các lạm dụng khác đối với trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương. Sự thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình đã thúc đẩy chủ nghĩa giáo sĩ trị, vốn dựa trên giả định ngầm rằng các thừa tác viên được thụ phong không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai về việc thực thi thẩm quyền được giao cho họ.

76. Nếu Giáo hội đồng nghị muốn được chào đón, thì trách nhiệm giải trình và tính minh bạch phải là cốt lõi của hành động của Giáo hội ở mọi bình diện, không chỉ ở bình diện thẩm quyền. Tuy nhiên, những người ở vị trí thẩm quyền có trách nhiệm lớn hơn trong vấn đề này. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ giới hạn ở việc lạm dụng tình dục và tài chính. Chúng cũng phải quan tâm đến các kế hoạch mục vụ, các phương pháp truyền giáo và cách Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, chẳng hạn như các điều kiện làm việc trong các tổ chức của mình.

77. Trong khi việc thực hành trách nhiệm giải trình trước bề trên đã được bảo tồn qua nhiều thế kỷ, chiều kích trách nhiệm giải trình của thẩm quyền quyền đối với cộng đồng cần phải được phục hồi. Sự minh bạch phải là một đặc điểm của việc thực thi quyền bính trong Giáo hội. Ngày nay, các cơ cấu và hình thức đánh giá thường xuyên về cách thức thực hiện các trách nhiệm mục vụ thuộc mọi loại đã xuất hiện như một điều cần thiết. Đánh giá, được hiểu theo nghĩa phi đạo đức, cho phép các thừa tác viên thích ứng nhanh chóng và phát huy sự phát triển cũng như khả năng thực hiện công việc của họ tốt hơn.

78. Ngoài việc tuân thủ những gì đã được quy định trong các quy tắc giáo luật liên quan đến các tiêu chuẩn và cơ chế kiểm soát, các Giáo hội địa phương và trên hết là các nhóm của họ (tức là các giáo tỉnh, Hội đồng Giám mục và các cơ cấu phẩm trật Đông phương) phải xây dựng các hình thức và thủ tục hiệu quả về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, phù hợp với nhiều bối cảnh khác nhau, dựa trên khung pháp lý dân sự, kỳ vọng của xã hội và sự sẵn có thực tế của chuyên môn trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, ngay cả ở những nơi nguồn lực khan hiếm, Giáo hội sẽ nỗ lực phát triển công việc, đạo đức và tâm lý của mình theo hướng minh bạch và nền văn hóa giải trình trách nhiệm.

79. Đặc biệt, bằng những hình thức phù hợp với từng bối cảnh, dường như cần phải đảm bảo ít nhất là a) hoạt động hiệu quả của các Hội đồng về các vấn đề kinh tế; b) sự tham gia hiệu quả của dân Chúa, đặc biệt là những thành viên có năng lực nhất, vào việc hoạch định mục vụ và kinh tế; c) việc chuẩn bị và xuất bản (có thể tiếp cận thực sự) một bản báo cáo tài chính hàng năm, được các kiểm toán viên bên ngoài chứng nhận càng nhiều càng tốt, giúp minh bạch hóa việc quản lý tài sản và các nguồn tài chính của Giáo hội và các định chế của Giáo hội; d) tuyên bố hàng năm về việc thực hiện sứ mệnh, bao gồm minh họa các sáng kiến được thực hiện trong lĩnh vực bảo vệ (bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương) và thúc đẩy khả năng tiếp cận của phụ nữ với các vị trí quyền lực và sự tham gia của họ vào quá trình ra quyết định và thực hiện; và e) các thủ tục đánh giá định kỳ về việc thực hiện của những người thực hiện bất cứ hình thức mục vụ nào và nắm giữ bất cứ vị trí nào trong Giáo hội. Đây là những điểm có tầm quan trọng và cấp bách lớn đối với tính đáng tin cậy của tiến trình đồng nghị và việc thực hiện nó.

Phần III – Các địa điểm

Đời sống đồng nghị truyền giáo của Giáo hội, những mối quan hệ sống động mà nó cấu thành, và quá trình những cách giúp nó phát triển không nên bỏ qua tính cụ thể và chuyên biệt của “địa điểm”, nghĩa là Giáo hội được đặt trong một bối cảnh và văn hóa nhất định. Phần III mời gọi chúng ta vượt qua quan điểm tĩnh tụ về các địa điểm sắp xếp chúng theo bình diện hoặc cấp độ liên tiếp theo mô hình kim tự tháp (tức là Giáo xứ, hiệu trưởng, Giáo phận hoặc Giáo phận, tỉnh giáo hội, Hội đồng Giám mục hoặc cơ cấu phẩm trật Đông phương và Giáo hội hoàn vũ). Đây chưa bao giờ là tầm nhìn của chúng ta. Mạng lưới các mối quan hệ và trao đổi quà tặng giữa các Giáo hội luôn được đan xen như một mạng lưới các mối quan hệ chứ không phải được coi là tuyến tính về mặt hình thức. Họ quy tụ lại trong mối dây hiệp nhất mà Đức Giáo Hoàng Rôma là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình. Theo nghĩa này, tính Công Giáo của Giáo hội chưa bao giờ trùng hợp với chủ nghĩa phổ quát trừu tượng. Hơn nữa, trong bối cảnh quan niệm về không gian đang thay đổi nhanh chóng, việc hạn chế hoạt động của Giáo hội trong những ranh giới thuần túy không gian sẽ giam cầm Giáo hội trong tình trạng bất động chết người và tạo ra tình trạng dư thừa mục vụ đáng lo ngại, khiến Giáo hội không có khả năng tiếp cận được những bộ phận dân cư năng động nhất, đặc biệt là giới trẻ. Thay vào đó, các địa điểm phải được hiểu từ góc độ phụ thuộc lẫn nhau, điều này trở nên cụ thể trong các mối quan hệ giữa các Giáo hội và các nhóm mà chúng hình thành, mang lại sự thống nhất về ý nghĩa. Việc phục vụ hiệp nhất, vốn là trách nhiệm của Giám mục Rôma và Giám mục đoàn trong sự hiệp thông với ngài, phải tính đến quan điểm này và tìm ra những hình thức tổ chức thích hợp cần thiết để thực hiện nó.

Các lĩnh vực hành trình chung

80. "Kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa tại Cô-rinh-tô..." (1 Cr 1:2). Việc loan báo Tin Mừng, bằng cách đánh thức đức tin trong tâm hồn con người, khiến một Giáo hội được thành lập tại một nơi. Không thể hiểu được Giáo hội nếu không bám rễ vào một địa điểm và một nền văn hóa cũng như không có những mối quan hệ được thiết lập giữa các địa điểm và các nền văn hóa. Nhấn mạnh tầm quan trọng của địa điểm không có nghĩa là nhượng bộ chủ nghĩa đặc thù hay chủ nghĩa tương đối nhưng nâng cao tính cụ thể trong đó, trong không gian và thời gian, một kinh nghiệm chung về việc gắn bó với sự biểu lộ của Thiên Chúa Ba Ngôi cứu độ được hình thành. Chiều kích địa điểm bảo tồn tính đa dạng của các hình thức trải nghiệm này và nguồn gốc của chúng trong các bối cảnh văn hóa và lịch sử cụ thể. Sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ, thần học, linh đạo và kỷ luật chứng tỏ sự đa dạng này làm phong phú và làm cho Giáo hội trở nên đẹp đẽ biết bao. Sự hiệp thông của các Giáo hội, với tính cụ thể địa phương của họ, biểu lộ sự hiệp thông của các tín hữu trong Giáo hội duy nhất và độc đáo, tránh biến hơi thành một chủ nghĩa phổ quát trừu tượng và đồng nhất hóa.

81. Tính đa nguyên của các nền văn hóa và hoa trái của cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa chúng là một điều kiện của đời sống Giáo hội, một biểu thức chứ không phải là một mối đe dọa đối với tính Công Giáo của Giáo hội. Sứ điệp cứu độ vẫn là một và y như nhau: “Chỉ có một thân thể và một Thánh Thần, cũng như anh em đã được kêu gọi để có một niềm hy vọng duy nhất về ơn kêu gọi của mình, một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa và là Cha của mọi người, Đấng ở trên tất cả và xuyên qua tất cả và trong tất cả” (Eph 4:4-6). Thông điệp này có tính đa dạng và được phát biểu ở nhiều dân tộc, văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ khác nhau. Nghiêm túc coi trọng tính đa nguyên hình thức này sẽ tránh được các khuynh hướng bá chủ và giảm thiểu nguy cơ giản lược sứ điệp cứu rỗi thành một cách hiểu duy nhất về đời sống Giáo hội và cách diễn đạt phụng vụ, mục vụ hoặc luân lý của nó. Mạng lưới các mối quan hệ trong một Giáo hội đồng nghị, được làm cho hiển thị qua việc trao đổi hồng phúc giữa các Giáo hội và được bảo đảm bởi sự hiệp nhất của Giám mục đoàn do Giám mục Rôma đứng đầu, là người bảo vệ năng động cho một sự hiệp nhất không bao giờ có thể trở thành độc dạng.

82. Ngày nay, tầm nhìn về một Giáo hội bắt nguồn từ những bối cảnh cụ thể đang gặp phải những điều kiện văn hóa xã hội của thời đại chúng ta, những điều kiện đã làm thay đổi sâu xa trải nghiệm của chúng ta về việc bám rễ vào một lãnh thổ nhất định. Một địa điểm không còn có thể được hiểu theo nghĩa thuần túy về mặt địa lý và không gian nữa; đúng hơn, nó cho thấy chúng ta thuộc về một mạng lưới các mối quan hệ và một nền văn hóa năng động và di động hơn so với trước đây. Thực tại này thách thức các hình thức tổ chức của Giáo hội, vốn được cấu trúc dựa trên một khái niệm khác về địa điểm. Điều này cũng đòi hỏi phải áp dụng những tiêu chuẩn khác biệt phù hợp với những bối cảnh khác nhau, không mâu thuẫn với nhau, để nhập thể một chân lý duy nhất trong đời sống con người.

83. Đô thị hóa là một yếu tố dẫn đến sự chuyển dịch này. Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, phần lớn nhân loại sống ở thành thị thay vì nông thôn. Cảm giác thuộc về một địa điểm có những hình thức khác nhau trong bối cảnh đô thị, nơi mà các ranh giới cấu trúc một địa phương được hình thành theo một cách khác. Ở các thành phố lớn, chỉ cần một vài trạm dừng tàu điện ngầm là có thể vượt qua ranh giới không chỉ của Giáo xứ mà còn của Giáo phận: một cuộc hành trình mà nhiều người thực hiện nhiều lần trong ngày. Nhiều cuộc sống thường xuyên diễn ra bằng cách di chuyển giữa các địa phương hội thánh khác nhau.

84. Yếu tố thứ hai là khả năng di chuyển của con người ngày càng tăng trong một thế giới hoàn cầu hóa. Những người tị nạn và di cư thường hình thành những cộng đồng sôi động, mở rộng việc thực hành đức tin và do đó làm cho nơi họ định cư trở nên đa dạng hơn. Đồng thời, họ duy trì kết nối và mối quan hệ với quê hương, thường nhờ vào phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Họ thường xuyên trải nghiệm việc thuộc về nhiều nhóm địa phương, văn hóa và ngôn ngữ. Một mặt, các cộng đồng gốc phải đối mặt với tình trạng giảm số lượng thành viên, đôi khi đến mức phải đấu tranh để sinh tồn. Mặt khác, cơ cấu quan hệ và văn hóa của họ được mở rộng trên hoàn cầu. Như Phiên họp đầu tiên đã lưu ý, biểu tượng về mặt này là tình trạng của một số Giáo Hội Công Giáo Đông phương: với tỷ lệ di cư hiện tại, số thành viên hải ngoại của họ có thể đông hơn những người sống trong lãnh thổ giáo luật của họ (x. SR 6c). Trong mọi trường hợp, việc xác định địa điểm thuần tuý về mặt địa lý sẽ ngày càng trở nên lỗi thời. Nhóm Nghiên cứu 1 được kêu gọi suy gẫm về những thách thức mà vấn đề này đặt ra đối với mối quan hệ giữa các Giáo Hội Công Giáo Đông phương và Giáo hội Latinh.

85. Cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua sự lan rộng của văn hóa kỹ thuật số, đặc biệt là trong giới trẻ. Nó tác động triệt để đến trải nghiệm và quan niệm về không gian và thời gian, đồng thời định hình lại mọi loại hoạt động của con người, bao gồm giao tiếp, các mối quan hệ và đức tin. Không phải ngẫu nhiên mà Phiên họp thứ nhất tuyên bố rằng “do đó, văn hóa kỹ thuật số không phải là một lĩnh vực truyền giáo riêng biệt như một chiều kích quan trọng của chứng tá của Giáo hội trong xã hội đương thời” (SR 17b). Nhóm Nghiên cứu 3 được dành riêng để nghiên cứu thách thức này.

86. Những động lực của xã hội và văn hóa mời gọi Giáo hội suy nghĩ lại về ý nghĩa của chiều kích địa phương của mình vì mục đích truyền giáo. Không quên rằng cuộc sống luôn diễn ra trong những bối cảnh vật chất và những nền văn hóa cụ thể, cần phải tránh xa lối giải thích thuần túy về không gian về địa điểm: những địa điểm, ngay cả và đặc biệt là những địa điểm của Giáo hội, không chỉ là những không gian mà còn là những môi trường và mạng lưới trong đó các mối quan hệ có thể phát triển, mang lại cho con người cội nguồn và nền tảng cho sứ mệnh mà họ sẽ thực hiện ở bất cứ nơi nào cuộc sống của họ diễn ra. Việc hoán cải tâm và trí có tính đồng nghị phải đi kèm với một cuộc cải cách có tính đồng nghị về các thực tại của giáo hội, được kêu gọi trở thành những con đường để cùng nhau đồng hành. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là giao phó hoạt động mục vụ cho các tổ chức được bầu chọn. Mục đích là để gặp gỡ mọi người nam nữ.

87. Cuộc cải cách này phải được tiến hành dựa trên sự hiểu biết về Giáo hội là Dân thánh của Thiên Chúa, được phát biểu rõ ràng trong sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum). Kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng việc phát động tiến trình đồng nghị trong các Giáo hội địa phương không làm tổn hại đến sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội mà đúng hơn nói lên tính đa dạng và tính phổ quát của dân Chúa (x. LG 22). Nó cũng không gây nguy hiểm mà trái lại còn tăng cường việc thực thi thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma. Chúng ta không bắt đầu nghĩ về Giáo Hội từ những định chế của Giáo Hội. Thật vậy, những điều này phải được xem xét lại theo luận lý của công việc phục vụ truyền giáo, kể cả những công việc ở bình diện cao nhất.

88. Xét vì thừa tác vụ của Giám mục Rôma là nguyên tắc hữu hình cho sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội và thừa tác vụ của mỗi Giám mục là nguyên tắc hợp nhất hữu hình trong Giáo hội địa phương của mình, Công đồng có thể nói rằng Giáo hội, Nhiệm thể của Chúa Kitô, cũng là một tập thể của các Giáo hội, trong và từ đó hiện hữu một Giáo Hội Công Giáo duy nhất (x. LG 23). Cơ quan này bao gồm: (a) các Giáo hội cá thể như những phần tử của dân Chúa, mỗi Giáo hội được ủy thác cho một giám mục; (b) các nhóm Giáo hội, trong đó các trường hợp hiệp thông trước hết được đại diện bởi các cơ quan phẩm trật; và (c) toàn thể Giáo hội (Ecclesia tota), nơi Giáo hội với tư cách là sự hiệp thông của các Giáo hội được phát biểu bởi Giám mục đoàn tập hợp xung quanh Giám mục Rôma trong mối liên hệ hiệp thông giám mục (cum Petro) và phẩm trật (sub Petro). Việc cải cách các tổ chức giáo hội không thể không tuân theo sự trình bày có trật tự này của Giáo hội.

Các Giáo hội địa phương trong Giáo Hội Công Giáo duy nhất và độc nhất

89. Về bản chất, Giáo hội địa phương là nơi chúng ta trải nghiệm trực tiếp nhất đời sống đồng nghị truyền giáo của toàn thể Giáo hội. Những đóng góp do các Hội đồng Giám mục đệ trình nói về các Giáo xứ, các cộng đồng Kitô giáo cơ bản và nhỏ bé như những bối cảnh của sự hiệp thông và tham gia vào sứ mạng. Như các linh mục giáo xứ tập trung tại Sacrofano đã phát biểu: “Các thành viên của các giáo xứ đang và trở thành những môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu tụ tập nhân danh Người để cầu nguyện và thờ phượng, phục vụ và làm chứng trong những lúc vui cũng như buồn, hy vọng và đấu tranh”. Thiên Chúa đang hoạt động trong những thực tại giáo hội này. Đồng thời, chúng tôi ý thức rằng chúng tôi phải làm nhiều hơn nữa để khai thác tính linh hoạt tuyệt vời của Giáo xứ, được hiểu như một cộng đồng gồm các cộng đồng phục vụ sự sáng tạo truyền giáo.

90. Ngày nay, các Giáo hội địa phương cũng được tạo thành từ các hiệp hội và cộng đồng là những biểu thức cũ và mới của đời sống Kitô hữu. Đặc biệt, các Tu hội đời sống thánh hiến và các Hiệp hội tông đồ đóng góp nhiều vào đời sống của các Giáo hội địa phương và sức sống của hoạt động truyền giáo. Điều tương tự cũng áp dụng cho các hiệp hội giáo dân, các phong trào giáo hội và các cộng đồng mới. Ngày nay, việc thuộc về Giáo Hội được phát biểu ngày càng nhiều dưới nhiều hình thức không gắn liền một cách chính thức với một cơ sở được xác định về mặt địa lý nhưng liên quan đến các mối liên kết. Sự đa dạng của các hình thức này phải được phát huy dưới ánh sáng định hướng truyền giáo và sự phân định của Giáo hội về những gì Chúa yêu cầu trong mỗi bối cảnh. Thúc đẩy tính đa dạng đa diện này và chăm lo cho các mối dây hiệp nhất là những năng quyền đặc biệt của giám mục giáo phận hoặc giáo phận đông phương. Nhóm Nghiên cứu 6 đã được giao nhiệm vụ suy tư về những khía cạnh này.

91. Như trong các giai đoạn trước của tiến trình đồng nghị, cũng như trong cuộc tham khảo trước khi soạn thảo Tài liệu Làm việc này: nhiều đóng góp nhận được coi các loại Hội đồng Giáo xứ, Giáo hạt, Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương khác nhau là những công cụ thiết yếu cho việc lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện và đánh giá các hoạt động mục vụ và chỉ ra sự cần thiết phải tăng cường chúng. Những cơ cấu này được dự liệu bởi giáo luật hiện hành đã có hiệu lực. Với những điều chỉnh thích hợp, chúng có thể tỏ ra phù hợp hơn nữa trong việc đưa ra một cách tiếp cận đồng nghị một hình thức cụ thể. Các Hội đồng này có thể trở thành đối tượng cho sự phân định của Giáo hội và việc đưa ra quyết định của Thượng hội đồng cũng như là nơi thực hiện trách nhiệm giải trình và đánh giá những người ở các vị trí thẩm quyền, mà không quên rằng đến lượt họ, họ sẽ phải giải trình về cách họ thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì vậy, đây là một trong những lĩnh vực hứa hẹn nhất để hành động nhằm thực hiện nhanh chóng các đề xuất và định hướng của Thượng Hội đồng, dẫn đến những thay đổi có tác động hiệu quả và nhanh chóng.

92. Nhiều đóng góp chỉ ra sự cần thiết phải định hình lại diện mạo của các cơ quan này và cách thức hoạt động của chúng để đi theo hướng này. Điều quan trọng là điều này đòi hỏi phải chú ý đến cách bổ nhiệm các thành viên, nhằm đảm bảo rằng thành phần của họ phản ánh thành phần của cộng đồng mà họ phục vụ (Giáo xứ hoặc Giáo phận/Giáo phận Đông phương) nhằm thúc đẩy văn hóa minh bạch và trách nhiệm giải trình một cách đáng tin cậy. Do đó, điều cần thiết là đa số thành viên không được thẩm quyền (linh mục hay giám mục) lựa chọn mà được chỉ định theo một cách khác, nói lên một cách hiệu quả thực tại của cộng đồng hoặc Giáo hội địa phương.

93. Tương tự như vậy, cần phải chú ý đến thành phần của các tổ chức này để khuyến khích sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ, thanh niên và những người sống trong điều kiện nghèo đói hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội trong thành phần của các tổ chức này. Hơn nữa, như Phiên họp đầu tiên đã nhấn mạnh, điều cơ bản là các cơ quan này bao gồm những người nam nữ dấn thân làm chứng cho đức tin trong những thực tại bình thường của cuộc sống và trong bối cảnh xã hội của họ, với khuynh hướng tông đồ và truyền giáo được công nhận (x. SR 18d), và không chỉ những người tham gia vào việc tổ chức đời sống và phục vụ cộng đồng. Bằng cách này, việc biện phân của Giáo hội do các cơ quan này thực hiện sẽ được hưởng lợi từ sự cởi mở và khả năng phân tích thực tại hơn cũng như sự đa dạng của các quan điểm. Cuối cùng, nhiều đóng góp chỉ ra mong muốn làm cho những Hội đồng thành bắt buộc mà việc thành lập của chúng tùy thuộc luật hiện hành.

94. Một số Hội đồng Giám mục đã chia sẻ kinh nghiệm cải cách và đã xác định những thực hành tốt đã có. Những điều này bao gồm việc tạo ra mạng lưới các Hội đồng mục vụ ở bình diện các cộng đồng Kitô giáo nhỏ và cơ bản, các Giáo xứ và các Giáo hạt, cho đến Hội đồng mục vụ Giáo phận. Như một mô hình tham vấn và lắng nghe, người ta đề xuất tổ chức các hội nghị của Giáo hội ở mọi bình diện, cố gắng mở rộng việc tham vấn để thu hút sự đóng góp của các Giáo hội và Cộng đồng giáo hội khác, của các tôn giáo khác hiện diện trong bối cảnh địa phương và xã hội, trong đó cộng đồng Kitô giáo lữ hành.

Những mối liên kết hình thành sự hiệp nhất của Giáo hội

95. Tầm nhìn chung của việc trao đổi hồng phúc, được nêu ở Phần I, gợi hứng cho mối quan hệ giữa các Giáo hội. Nó kết hợp việc nhấn mạnh vào những mối dây hình thành sự hiệp nhất của Giáo hội với sự đánh giá cao những đặc điểm liên quan đến bối cảnh mà mỗi Giáo hội địa phương đang sống, với lịch sử và truyền thống của mình. Việc áp dụng một phong cách đồng nghị cho phép chúng ta vượt qua ý tưởng cho rằng tất cả các Giáo hội nhất thiết phải hành động với cùng một tốc độ trong mọi vấn đề. Ngược lại, những khác biệt về nhịp độ có thể được đánh giá như một biểu thức nói lên sự đa dạng hợp pháp và một cơ hội để trao đổi hồng phúc và làm phong phú lẫn nhau. Để được hiện thực hóa, chân trời này cần phải được hiện thân trong các cơ cấu và thực hành cụ thể. Trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo?” đòi hỏi phải xác định và thúc đẩy các cơ cấu và thực hành như vậy.

96. Các cơ cấu phẩm trật và các Hội đồng Giám mục Đông phương là những công cụ căn bản để tạo nên những liên kết và chia sẻ kinh nghiệm giữa các Giáo hội cũng như việc phân quyền quản lý và lập kế hoạch mục vụ. “Công đồng Vatican II tuyên bố rằng, giống như các Giáo hội thượng phụ cổ xưa, các hội đồng giám mục có vai trò ‘đóng góp bằng nhiều cách và hiệu quả vào việc hiện thực hóa cụ thể tinh thần hiệp đoàn’ (LG 23). Tuy nhiên, mong muốn này vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, vì địa vị pháp lý của các Hội đồng Giám mục vốn coi họ là chủ thể của những thẩm quyền chuyên biệt, bao gồm cả thẩm quyền thực sự về mặt tín lý, vẫn chưa được khai triển đầy đủ” (EG 32). Việc tìm cách trở thành một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo đòi hỏi phải giải quyết câu hỏi này.

97. Từ tất cả những gì đã được thu thập cho đến nay, trong diễn trình đồng nghị này, các đề xuất sau đây xuất hiện: (a) công nhận các Hội đồng Giám mục là những chủ thể của Giáo hội được ban cho thẩm quyền tín lý, đảm bảo sự đa dạng về văn hóa xã hội trong khuôn khổ của một Giáo hội đa diện, và ủng hộ việc đánh giá cao các cách diễn đạt phụng vụ, kỷ luật, thần học và tâm linh phù hợp với các bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau; (b) đánh giá kinh nghiệm thực tế về hoạt động của các Hội đồng Giám mục và các cơ cấu phẩm trật Đông phương, cũng như về mối quan hệ giữa các Giám mục và Tòa thánh, để xác định những cải cách cụ thể cần thực hiện; các chuyến thăm ad limina, thuộc Nhóm Nghiên cứu 7, có thể là bối cảnh phù hợp cho đánh giá này; và (c) đảm bảo rằng tất cả các Giáo phận hoặc Giáo phận trực thuộc một Giáo tỉnh và một Hội đồng Giám mục hoặc Cơ cấu phẩm trật Đông phương (xem CD 40).

98. Việc triệu tập các Phiên họp Châu lục trên tất cả các khu vực là một sự đổi mới của tiến trình đồng nghị hiện tại và là một cách thực hiện mạch lạc hơn chỉ dẫn của Công đồng nhằm tôn vinh tính đặc thù “của mọi khu vực văn hóa xã hội lớn” nhằm tìm kiếm “một sự thích ứng sâu sắc hơn trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống Kitô hữu” (AG 22). Kinh nghiệm này, cũng như hành trình của các Giáo hội ở một số khu vực, đặt ra câu hỏi làm thế nào chúng ta có thể mang lại cho tính năng động đồng nghị và tập thể một biểu thức định chế thích hợp hơn, chẳng hạn, thông qua các Đại hội đồng giáo hội và các Hội đồng Giám mục. Các cơ quan này có thể được giao nhiệm vụ phối hợp tham vấn và ra quyết định ở cấp châu lục hoặc khu vực. Các phương pháp biện phân cũng có thể được phát triển để bao gồm các tác nhân khác nhau của giáo hội trong việc soạn thảo các tài liệu và tiến hành các quá trình ra quyết định và thực hiện. Hơn nữa, có đề xuất cho rằng sự biện phân cũng nên bao gồm các không gian để lắng nghe và đối thoại với các tổ chức dân sự, đại diện của các tôn giáo khác, các tổ chức phi Công Giáo và xã hội nói chung, dưới những hình thức thích ứng với sự đa dạng của bối cảnh.

99. Mong muốn cho rằng cuộc đối thoại đồng nghị địa phương sẽ tiếp tục và không kết thúc và nhu cầu hội nhập văn hóa đức tin một cách hiệu quả ở các khu vực cụ thể thúc đẩy chúng ta hướng tới một đánh giá mới về việc tổ chức các Công đồng đặc thù, dù là cấp tỉnh hay toàn thể, mà việc cử hành định kỳ của chúng đã là một nghĩa vụ trong phần lớn lịch sử của Giáo hội. Dựa trên kinh nghiệm bước đi trên con đường đồng nghị, người ta có thể nghĩ ra những hình thức quy tụ một hội đồng giám mục và một hội đồng giáo hội gồm các thành viên tín hữu (linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ), được ủy quyền bởi Hội đồng Giám mục. Các Hội đồng mục vụ của các Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương có liên quan hoặc được chỉ định theo cách khác để phản ánh sự đa dạng của Giáo hội trong khu vực. Để hỗ trợ điều này, thủ tục công nhận các kết luận của các Hội đồng đặc thù cần được cải cách để tạo điều kiện thuận lợi cho việc công bố chúng kịp thời.

Sự phục vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma

100. Trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo?” cũng đòi hỏi phải xem xét lại động lực hợp nhất tính đồng nghị, tính hợp đoàn và tính ưu việt, để nó có thể nuôi dưỡng các mối quan hệ giữa các định chế mà qua đó nó tìm thấy biểu thức cụ thể.

101. Tiến trình Thượng Hội đồng hiện nay đã cho thấy sự thật của lời khẳng định của Công đồng rằng “trong sự hiệp thông giáo hội, có những giáo hội địa phương hợp pháp, có những truyền thống riêng của mình, trong khi quyền tối thượng của Tòa Phêrô vẫn còn nguyên vẹn, là giáo hội chủ trì sự hiệp thông phổ quát của đức ái và bảo vệ những khác biệt chính đáng, đồng thời quan tâm để điều đặc thù không những không gây tổn hại cho sự hiệp nhất mà còn có lợi cho sự hiệp nhất" (x. LG 13). Nhờ chức năng này, Giám mục Rôma, với tư cách là nguyên tắc hữu hình của sự hiệp nhất toàn thể Giáo hội (x. LG 23), là người bảo đảm cho tính đồng nghị. Ngài kêu gọi toàn thể Giáo hội hành động đồng nghị bằng cách triệu tập, chủ trì và xác nhận kết quả của Thượng hội đồng Giám mục; ngài phải quan tâm đến việc đảm bảo rằng Giáo hội phát triển theo phong cách và hình thức đồng nghị.

102. Việc suy ngẫm về các hình thức thi hành thừa tác vụ Phêrô cũng nên được tiến hành từ quan điểm “phân quyền hợp lý” (EG 16), như Đức Thánh Cha Phanxicô thúc giục và nhiều Hội đồng Giám mục yêu cầu. Theo công thức được cung cấp bởi Tông Hiến Praedicate Evangelium (19 tháng 3 năm 2022), điều này đòi hỏi phải trao “năng quyền cho các Giám mục để giải quyết, trong khi thi hành “nhiệm vụ riêng của mình với tư cách là các thầy dạy” và mục tử, những vấn đề mà các ngài quen thuộc và không ảnh hưởng đến sự hiệp nhất về tín lý, kỷ luật và hiệp thông của Giáo hội, luôn hành động với tinh thần đồng trách nhiệm vốn là hoa trái và biểu thức của mầu nhiệm hiệp thông cụ thể là Giáo hội”. (PE II, 2).

103. Để tiếp tục, chúng ta có thể đi theo đường lối của Tự sắc Competentias quasdam decernere gần đây (15 tháng 2 năm 2022), trong đó quy định “các lĩnh vực năng quyền nhất định liên quan đến các điều khoản của Bộ luật nhằm bảo vệ sự thống nhất kỷ luật trong Giáo hội hoàn vũ, và quyền điều hành trong các Giáo hội địa phương và các tổ chức giáo hội trên cơ sở “năng động hiệp thông của giáo hội” (Lời mở đầu).

104. Hơn nữa, việc soạn thảo các quy tắc giáo luật cũng có thể là nơi để thực hiện phong cách đồng nghị. Việc đặt ra các quy tắc không chỉ bao hàm việc thực thi quyền lực do thẩm quyền ban cho mà phải được coi là sự phân định đích thực của Giáo hội. Ngay cả khi chỉ mình nó được hưởng tất cả các đặc quyền lập pháp, thì khi làm như vậy, thẩm quyền có thể và nên hành động theo phương pháp đồng nghị để ban hành một quy tắc vốn là kết quả của việc lắng nghe nhu cầu công lý trong Chúa Thánh Thần.

105. Tông hiến Praedicate Evangelium đã đề cập đã định hình việc phục vụ của Giáo triều Rôma đối với Giám mục Rôma và Giám mục đoàn một cách đồng nghị và truyền giáo. Để hỗ trợ tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, việc đánh giá định kỳ công việc của nó phải được thực hiện và giao cho một cơ quan độc lập (chẳng hạn như Hội đồng Hồng Y và/hoặc hội đồng giám mục được Thượng hội đồng bầu chọn). Nhóm Nghiên cứu 8 được dành riêng để xem xét vai trò của các Đại diện Giáo hoàng từ góc độ truyền giáo đồng nghị và khám phá những cách đánh giá công việc của họ.

106. Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm 2023 chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành đánh giá thành quả của Phiên họp đầu tiên (xem SR 20j). Đánh giá này không thể bỏ qua sự phát triển được ban hành bởi Tông hiến Episcopalis Communio, vốn biến đổi Thượng hội đồng từ một sự kiện ngẫu nhiên thành một tiến trình giáo hội kéo dài trong không gian và thời gian. Trong số những nơi thực hành tính đồng nghị và tính hợp đoàn ở cấp độ toàn thể Giáo hội, Thượng hội đồng Giám mục chắc chắn nổi bật. Được Đức Phaolô VI thiết lập như một Hội đồng Giám mục được triệu tập để tham gia, một cách đồng bộ, vào sự chăm sóc của Đức Giáo Hoàng Rôma đối với toàn thể Giáo hội, giờ đây, dưới hình thức tiến trình theo từng giai đoạn, là phạm vi nơi mối quan hệ năng động giữa tính đồng nghị, tính hợp đoàn và tính ưu việt được thực hiện và có thể được cổ vũ. Toàn thể Dân thánh của Thiên Chúa, các giám mục đã được giao phó các phần riêng của mình và Giám mục Rôma với tư cách là nguyên tắc hiệp nhất của Giáo hội đều tham gia đầy đủ vào Tiến trình Thượng hội đồng, mỗi người tùy theo chức năng riêng của mình. Sự tham gia này được biểu lộ rõ ràng bởi Thượng Hội đồng họp xung quanh Giám mục Rôma, một hội đồng, trong thành phần của nó, cho thấy sự đa dạng và tính phổ quát của Giáo hội như “bí tích hiệp nhất, dân thánh được thu hút thành một tổng thể có trật tự dưới quyền các giám mục” (SC 26).

107. Trong số những thành quả quan trọng nhất của Thượng hội đồng 2021-2024 là cường độ của sự thúc đẩy đại kết và lời hứa đánh dấu điều đó. Cũng có thể hữu ích khi giải quyết vấn đề thi hành thừa tác vụ Phêrô theo chiều hướng này, mở ra “một tình thế mới” (UUS 95). Tài liệu gần đây Giám mục Rôma: Tính ưu việt và tính đồng nghị trong các cuộc đối thoại đại kết và các câu trả lời cho Thông điệp Ut Unum Sint, do Bộ Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô giáo ban hành, đưa ra những hiểu biết sâu sắc để nghiên cứu thêm. Chủ đề này là một phần công việc của Nhóm Nghiên cứu 10, được dành riêng cho việc tiếp nhận những thành quả của hành trình đại kết trong các thực hành của Giáo hội.

108. Sự phong phú do sự tham gia của các đại biểu huynh đệ từ các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác trong Phiên họp đầu tiên mời gọi chúng ta đào sâu sự hiểu biết và đánh giá cao cách thức thực thi tính đồng nghị của các đối tác đại kết của chúng ta, cả ở phương Đông và phương Tây. Đối thoại đại kết là nền tảng để thúc đẩy sự hiểu biết về tính đồng nghị và sự hiệp nhất của Giáo hội. Trên hết, nó thúc đẩy chúng ta tưởng tượng những thực hành đồng nghị đại kết đích thực, bao gồm các hình thức tham vấn và phân định về các mối quan tâm chung và cấp bách. Căn nguyên của khả năng này là việc chúng ta hiệp nhất trong một Bí tích Rửa tội duy nhất, từ đó phát sinh ra căn tính của Dân Thiên Chúa và tính năng động của sự hiệp thông, tham gia và truyền giáo.

Kết luận – Giáo hội đồng nghị trên thế giới

109. Mọi thứ trên thế giới này đều được kết nối với nhau và được đánh dấu bằng sự khao khát không ngừng nghỉ đối với người khác. Mọi thứ đều là lời kêu gọi của một mối quan hệ và là bằng chứng cho sự thật rằng, xét cho cùng, không có ai và không có vật nào có thể tự cung tự cấp. Toàn thế giới, khi được chiêm ngưỡng dưới ánh sáng Mặc khải Kitô giáo, là dấu chỉ bí tích của một sự hiện diện vừa siêu việt vừa làm sinh động nó, dẫn tới cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ cuối cùng sẽ được nên trọn trong tính xã hội yến tiệc vui vẻ của những khác biệt, được thể hiện trọn vẹn trong bữa tiệc cánh chung do Thiên Chúa chuẩn bị trên núi thánh của Người.

110. Được biến đổi bởi lời loan báo Phục Sinh, Giáo Hội tìm cách trở thành một nơi mà tầm nhìn của Isaia được hít thở và sống động để trở thành “nơi trú ẩn cho người nghèo, nơi ẩn náu cho người túng thiếu khi họ gặp hoạn nạn, nơi trú ẩn khỏi mưa bão và là bóng mát tránh cơn nóng” (Is. 25:4). Bằng cách này, Giáo hội mở lòng mình ra với Vương quốc. Khi các phần tử của Giáo Hội để cho mình được Thánh Thần Chúa dẫn dắt đến những chân trời mà trước đây họ chưa từng nhìn thấy, họ cảm nghiệm được niềm vui khôn tả. Với vẻ đẹp, sự khiêm tốn và đơn giản của nó, đây là sự hoán cải liên tục cách thức trở thành Giáo hội mà tiến trình đồng nghị mời gọi chúng ta thực hiện.

111. Thông điệp Fratelli Tutti trình bày cho chúng ta lời kêu gọi nhìn nhận mình là anh chị em trong Chúa Kitô Phục sinh, đề xuất điều này ít hơn như một địa vị mà nhiều hơn như một lối sống. Thông điệp nhấn mạnh đến sự tương phản giữa thời đại chúng ta đang sống và quan điểm về tình thân ái được Thiên Chúa chuẩn bị. Tấm màn tang chế, tấm vải liệm và nước mắt được tiên tri Isaia đặt tên cũng hiện diện trong thời đại chúng ta. Chúng thường là kết quả của sự cô lập ngày càng tăng của chúng ta với nhau, bạo lực và sự phân cực ngày càng tăng trong thế giới của chúng ta, và việc chúng ta bị tách rời khỏi nguồn sống. Các câu hỏi mà Tài liệu Làm việc đặt ra là: làm thế nào để trở thành một Giáo hội đồng nghị trong truyền giáo; làm thế nào để tham gia vào việc lắng nghe và đối thoại sâu sắc; làm thế nào để đồng trách nhiệm dưới ánh sáng tính năng động của ơn gọi rửa tội bản thân và cộng đoàn của chúng ta; làm thế nào để biến đổi các cơ cấu và tiến trình để tất cả mọi người có thể tham gia và chia sẻ các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên mỗi người vì lợi ích chung; cách sử dụng quyền lực và thẩm quyền như một sự phục vụ. Mỗi câu hỏi này là một sự phục vụ cho Giáo hội, và qua hành động của Giáo hội, có khả năng chữa lành những vết thương sâu hoắm nhất của thời đại chúng ta.

112. Tiên tri Isaia kết thúc lời tiên tri của mình bằng một bài thánh ca được hợp xướng: “Đây là Thiên Chúa của chúng ta; chúng ta đã chờ đợi Người để Người có thể cứu chúng ta. Đây là Chúa mà chúng ta đã chờ đợi; chúng ta hãy vui mừng hân hoan vì ơn cứu độ của Người” (Is. 25:9). Khi dân Chúa chúng ta cùng tham gia vào lời ca ngợi này, với tư cách là những người hành hương của niềm hy vọng, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước dọc theo con đường đồng nghị hướng tới những người vẫn đang chờ đợi việc công bố Tin Mừng cứu độ!

_______________

[1] Trừ khi có quy định khác, hoặc khi bối cảnh rõ ràng là không phải như vậy, trong văn bản Tài liệu Làm việc, thuật ngữ “Giáo hội” chỉ “Giáo Hội Công Giáo duy nhất và độc nhất” (LG 23), trong khi "giáo hội" số nhiều cho biết các Giáo hội địa phương mà trong đó và từ đó nó hiện hữu.

[2] Ở đây, như dưới đây, các trích dẫn từ các Hội đồng Giám mục và các nhóm lục địa của họ đến từ các bản tóm tắt được gửi đến Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng sau khi tham khảo ý kiến của các Giáo hội địa phương diễn ra từ cuối năm 2023 đến giữa năm 2024.

[3] Được Văn phòng Tổng thư ký của Thượng hội đồng lưu hành vào ngày 11 tháng 12 năm 2023 và có sẵn tại www.synod.va.

[4] Về vấn đề này, vui lòng tham khảo tài liệu Làm thế nào để trở thành Giáo hội có tính đồng nghị trong truyền giáo? Năm quan điểm để đào sâu về mặt thần học theo Phiên họp thứ hai của Phiên họp thường kỳ lần thứ XVI của Thượng hội đồng giám mục, được Văn phòng Tổng thư ký của Thượng hội đồng công bố vào ngày 14 tháng 3 năm 2024 và có sẵn tại www.synod.va.

[5] Về vấn đề này, vui lòng tham khảo tài liệu Các nhóm nghiên cứu về các vấn đề nổi lên trong Phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng Giám mục thường kỳ lần thứ XVI để được nghiên cứu sâu với sự cộng tác của các Bộ của Giáo triều Rôma. Đề cương Công việc, cũng được lưu hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2024 và có tại www.synod.va.

[6] Các chủ đề nổi bật trong Báo cáo tóm tắt của Phiên họp đầu tiên và được giao cho 10 Nhóm nghiên cứu là:

1. Một số khía cạnh trong mối quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo Đông phương và Giáo hội Latinh (SR 6).

2. Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo (SR 4 và 16).

3. Sứ mệnh trong môi trường kỹ thuật số (SR 17).

4. Việc sửa đổi Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis theo quan điểm đồng nghị truyền giáo (SR 11).

5. Một số vấn đề thần học và giáo luật liên quan đến các hình thức thừa tác vụ chuyên biệt (SR 8 và 9).

6. Việc sửa đổi, theo quan điểm đồng nghị và truyền giáo, các tài liệu điều chỉnh mối quan hệ giữa các Giám mục, Tu sĩ và các Nhóm Giáo hội (SR 10).

7. Một số khía cạnh về nhân vật và thừa tác vụ của Giám mục (tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên vào chức vụ giám mục, chức năng pháp lý của Giám mục, tính chất và việc tiến hành các chuyến viếng thăm ad limina Apostolorum) từ viễn ảnh đồng nghị truyền giáo (SR 12 và 13).

8. Vai trò của các Đại diện Giáo hoàng trong quan điểm đồng nghị truyền giáo (SR 13).

9. Các tiêu chuẩn thần học và các phương pháp luận đồng nghị để cùng nhau phân định các tín lý, các vấn đề mục vụ và đạo đức gây tranh cãi (SR 15).

10. Tiếp nhận hoa trái của hành trình đại kết trong các thực hành của Giáo hội (SR 7).

[7] Thuật ngữ 'thượng hội đồng' trong truyền thống của các Giáo hội Đông phương và Tây phương đề cập đến các tổ chức và sự kiện đã mang những hình thức khác nhau theo thời gian, liên quan đến nhiều chủ đề. Trong sự đa dạng của chúng, điểm chung của tất cả các hình thức này là sự tập hợp lại với nhau để đối thoại, phân định và quyết định.