PHẦN II: TẤT CẢ CÁC MÔN ĐỆ, TẤT CẢ CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO

8. Giáo Hội là Sứ Mệnh

Các điểm hội tụ

a).Thay vì nói rằng Giáo hội có một sứ mệnh, chúng tôi khẳng định rằng Giáo hội “là” sứ mệnh. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21): Giáo Hội nhận được từ Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai, sứ mệnh của mình. Được Chúa Thánh Thần nâng đỡ và hướng dẫn, Giáo Hội công bố và làm chứng Tin Mừng cho những người chưa biết hoặc chưa đón nhận Tin Mừng. Giáo Hội làm điều này với sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, điều này bắt nguồn từ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bằng cách này, Giáo hội cộng tác vào việc Nước Thiên Chúa đang đến, mà Giáo hội là hạt giống (x. Lumen Gentium 5).

b) Các bí tích khai tâm Kitô giáo trao cho tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu trách nhiệm thực hiện sứ mệnh của Giáo hội. Các nam nữ giáo dân, những người sống đời thánh hiến và các thừa tác viên thụ phong đều có phẩm giá ngang nhau. Họ đã nhận được những đặc sủng và ơn gọi khác nhau cũng như thực hiện những vai trò và chức năng khác nhau, nhưng tất cả đều được Chúa Thánh Thần kêu gọi và nuôi dưỡng để hợp thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô (1 Cr. 4:31). Tất cả họ đều là những môn đệ, tất cả những nhà truyền giáo, trong sức sống hỗ tương của các cộng đồng địa phương, những người cảm nghiệm được niềm vui hân hoan và an ủi của việc truyền giảng Tin Mừng. Việc thực thi đồng trách nhiệm là điều cần thiết cho tính đồng nghị và cần thiết ở mọi bình diện của Giáo hội. Mỗi Kitô hữu là một sứ mệnh trên trái đất này.

c) Gia đình là trụ cột của mọi cộng đồng Kitô hữu. Cha mẹ, ông bà và tất cả những người sống và chia sẻ đức tin trong gia đình đều là những nhà truyền giáo đầu tiên. Gia đình, như một cộng đồng sự sống và tình yêu, là nơi đặc biệt để giáo dục đức tin và thực hành Kitô giáo, một nơi cần sự đồng hành đặc biệt trong các cộng đồng. Sự hỗ trợ đặc biệt cần thiết đối với các bậc cha mẹ phải dung hòa công việc, kể cả trong cộng đồng Giáo hội và phục vụ sứ mệnh của Giáo hội, với những đòi hỏi của đời sống gia đình.

d) Nếu sứ mệnh là một ân sủng liên quan đến toàn thể Giáo hội, thì người tín hữu giáo dân đóng góp một cách quan trọng vào việc thăng tiến sứ mệnh đó trong mọi lĩnh vực và trong các hoàn cảnh thông thường hàng ngày. Trên hết, chính họ là những người làm cho Giáo hội hiện diện và công bố Tin Mừng, chẳng hạn trong nền văn hóa kỹ thuật số, vốn có tác động mạnh mẽ trên toàn thế giới; trong văn hóa giới trẻ; trong thế giới công việc và kinh doanh, chính trị, nghệ thuật và văn hóa; trong nghiên cứu, giáo dục và đào tạo khoa học; trong việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta; và đặc biệt thông qua việc tham gia vào đời sống công cộng. Bất cứ nơi nào họ hiện diện, họ đều được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô trong đời sống hằng ngày và minh nhiên chia sẻ đức tin với người khác. Một cách đặc biệt, những người trẻ, với những ân phúc và sự yếu đuối của mình, bằng cách ngày càng lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu, trở thành những tông đồ Tin Mừng cho những người đồng trang đồng lứa với mình.

e) Các tín hữu giáo dân cũng ngày càng hiện diện và tích cực phục vụ trong các cộng đồng Kitô giáo. Nhiều người trong số họ tổ chức và sinh động các cộng đồng mục vụ, phục vụ với tư cách là nhà giáo dục tôn giáo, nhà thần học và nhà đào tạo, người linh hoạt tâm linh và giáo lý viên, và tham gia vào nhiều cơ quan giáo xứ và giáo phận khác nhau. Ở nhiều vùng, đời sống của các cộng đồng Kitô giáo và sứ mệnh của Giáo hội phụ thuộc vào các giáo lý viên. Ngoài ra, giáo dân còn phục vụ trong việc bảo vệ và quản lý. Tất cả những đóng góp này đều không thể thiếu được đối với sứ mệnh của Giáo hội; vì lý do này, cần phải cung cấp việc thu đạt được các năng lực cần thiết.

f) Với tính đa dạng to lớn của chúng, các đặc sủng của giáo dân tiêu biểu các ân phúc rõ rệt của Chúa Thánh Thần dành cho Giáo hội, những ân phúc này phải được phát huy, thừa nhận và đánh giá cao một cách trọn vẹn. Trong một số hoàn cảnh, giáo dân có thể được kêu gọi để giúp bù đắp tình trạng thiếu linh mục, với nguy cơ tính chất giáo dân của việc làm tông đồ của họ có nguy cơ bị suy giảm. Trong những bối cảnh khác, có thể các linh mục tự mình làm mọi việc và do đó các đặc sủng và thừa tác vụ của giáo dân bị bỏ qua hoặc không được sử dụng đúng mức. Trong mọi bối cảnh, có một mối nguy hiểm, được nhiều người tại Phiên họp bày tỏ, đó là “giáo sĩ hóa” giáo dân, tạo ra một tầng lớp giáo dân ưu tú vốn duy trì những bất bình đẳng và chia rẽ giữa dân Chúa.

g) Sứ mệnh ad gentes [đối với dân ngoại] mang lại sự phong phú cho các Giáo hội, bởi vì nó không chỉ liên quan đến chính các nhà truyền giáo mà còn liên quan đến toàn thể cộng đồng, vốn, nhờ cách này, được truyền cảm hứng để cầu nguyện, chia sẻ của cải và làm chứng. Các giáo hội thiếu giáo sĩ không nên từ bỏ cam kết này, trong khi những giáo hội có nhiều ơn gọi vào thừa tác vụ thụ phong sẽ được hưởng lợi từ việc hợp tác mục vụ một cách truyền giáo thực sự. Tất cả các nhà truyền giáo – giáo dân nam nữ, những người sống đời thánh hiến, các phó tế và linh mục, và đặc biệt là thành viên của các tu hội truyền giáo và các nhà truyền giáo fidei donum (*)– đều là một nguồn lực quan trọng để tạo ra những mối dây nối kết kiến thức và trao đổi ân phúc.

h) Sứ mệnh của Giáo hội liên tục được canh tân và nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể, đặc biệt khi bản chất cộng đồng và truyền giáo của Giáo hội được phát biểu đầy đủ.

Các vấn đề để xem xét

i) Cần tiếp tục đào sâu sự hiểu biết thần học về mối quan hệ giữa các đặc sủng và các thừa tác vụ trong nguyên tắc truyền giáo.

j).Vatican II và giáo huấn huấn quyền tiếp theo trình bày sứ mệnh đặc biệt của giáo dân về mặt thánh hóa các thực tại trần thế hoặc thế tục. Tuy nhiên, thực tại là việc thực hành mục vụ ở các bình diện giáo xứ, giáo phận và gần đây, thậm chí ở bình diện hoàn vũ, ngày càng giao phó nhiều hơn cho giáo dân những nhiệm vụ và thừa tác vụ trong chính Giáo hội. Suy tư thần học và các điều khoản giáo luật cần phải được dung hòa với những diễn biến quan trọng này và tránh những thuyết nhị nguyên có thể làm tổn hại đến việc tri nhận sự hiệp nhất trong sứ mệnh của Giáo hội.

k) Trong việc cổ vũ tính đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội để truyền giáo, chúng tôi nhìn nhận khả năng tông đồ của những người khuyết tật. Chúng tôi muốn đánh giá cao hơn sự đóng góp cho việc truyền giảng Tin Mừng do sự phong phú lớn lao của nhân tính họ mang lại. Chúng tôi thừa nhận những trải nghiệm đau khổ, bị gạt ra ngoài lề xã hội và phân biệt đối xử của họ, đôi khi xảy ra ngay cả trong cộng đồng Kitô giáo.

l) Các cơ cấu mục vụ cần được tổ chức lại để có thể sẵn sàng thừa nhận, phát huy và sinh động các đặc sủng và thừa tác vụ giáo dân, đưa chúng vào tính năng động truyền giáo của Giáo hội đồng nghị. Dưới sự hướng dẫn của các mục tử, các cộng đồng sẽ có thể cử người đi cũng như nâng đỡ những người họ đã cử đi truyền giáo. Bằng cách này, những cơ cấu này chủ yếu sẽ phục vụ sứ mệnh mà các tín hữu thực hiện trong xã hội, trong gia đình và trong cuộc sống việc làm, thay vì chỉ tập trung vào các vấn đề nội bộ hoặc các mối quan tâm của tổ chức.

m) Kiểu nói “một Giáo hội toàn thừa tác” được sử dụng trong Tài liệu làm việc, có thể dẫn đến sự hiểu lầm. Ý nghĩa của nó sẽ phải được làm rõ để loại bỏ mọi sự mơ hồ.

Các đề nghị

n) Chúng ta cần sáng tạo hơn nữa trong việc thành lập các thừa tác vụ theo nhu cầu của các giáo hội địa phương, với sự tham gia đặc biệt của giới trẻ. Người ta có thể nghĩ tới việc mở rộng hơn nữa những trách nhiệm được giao cho thừa tác vụ đọc sách hiện tại, những trách nhiệm vốn đã rộng hơn những trách nhiệm được thực hiện trong phụng vụ. Điều này có thể trở thành một thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa đầy đủ hơn, mà trong những bối cảnh thích hợp, cũng có thể bao gồm cả việc thuyết giảng. Chúng ta cũng có thể thăm dò khả thể thành lập một thừa tác vụ được giao cho các cặp vợ chồng cam kết hỗ trợ đời sống gia đình và đồng hành với những người chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Hôn nhân.

o) Các giáo hội địa phương được mời xem xét các phương tiện và thời điểm thích hợp để cộng đồng thừa nhận các đặc sủng và mục vụ giáo dân. Điều này có thể diễn ra nhân dịp cử hành phụng vụ trong đó ủy nhiệm thư mục vụ được trao ban.

9. Phụ nữ trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội

Các điểm hội tụ

a).Chúng ta được tạo dựng, có nam có nữ, theo hình ảnh Thiên Chúa. Ngay từ đầu, công trình sáng tạo đã biểu lộ sự hiệp nhất và khác biệt, ban cho đàn bà và đàn ông một bản chất, ơn gọi và số phận chung, cũng như hai trải nghiệm riêng biệt về việc làm người. Kinh Thánh làm chứng về tính bổ sung và hỗ tương giữa đàn bà và đàn ông, cũng như về giao ước giữa họ vốn nằm ở tâm điểm kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu coi phụ nữ là người đối thoại với Người: Người nói với họ về Nước Thiên Chúa; Người chào đón họ như những môn đệ, chẳng hạn như Maria Bêtania. Những người phụ nữ này, từng đã cảm nghiệm được quyền năng chữa lành, giải thoát và công nhận của Người, đã đồng hành với Người trên con đường từ Galilê đến Giêrusalem (Lc 8:1-3). Người giao phó việc loan báo Sự Phục Sinh vào buổi sáng Phục Sinh cho một người phụ nữ, Maria Mađalêna.

b) Trong Chúa Kitô, đàn bà cũng như đàn ông đều được mặc cùng một phẩm giá phép rửa như nhau (Gl 3:28) và nhận được các ân sủng khác nhau của Thánh Thần như nhau. Chúng ta được mời gọi cùng nhau bước vào cuộc hiệp thông trong các mối quan hệ yêu thương, không cạnh tranh trong Chúa Kitô, và vào tính đồng trách nhiệm cần được phát biểu ở mọi bình diện của đời sống Giáo hội. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói với chúng ta, chúng ta là “một dân tộc được triệu tập và kêu gọi bằng sức mạnh của các Mối Phúc Thật”.

c) Chúng tôi đã có một trải nghiệm rất tích cực về sự hỗ tương giữa phụ nữ và nam giới trong Phiên Họp này. Chúng tôi cùng nhau lặp lại lời kêu gọi đã được đưa ra trong các giai đoạn trước của tiến trình Thượng Hội đồng, rằng Giáo hội tiếp nhận một cam kết dứt khoát hơn để hiểu và đồng hành với phụ nữ từ quan điểm mục vụ và bí tích. Phụ nữ mong muốn chia sẻ kinh nghiệm tâm linh của họ trên hành trình hướng tới sự thánh thiện trong các giai đoạn khác nhau của cuộc sống: là những người phụ nữ trẻ, những người mẹ, trong tình bạn và các mối quan hệ của họ, trong đời sống gia đình ở mọi lứa tuổi, trong đời sống công việc và trong đời sống thánh hiến. Phụ nữ kêu gọi công lý trong các xã hội vẫn còn bị đánh dấu bởi bạo lực tình dục, bất bình đẳng kinh tế và xu hướng coi họ như đồ vật. Phụ nữ bị tổn thương bởi nạn buôn người, di cư cưỡng bức và chiến tranh. Việc đồng hành mục vụ và vận động mạnh mẽ cho phụ nữ phải đi đôi với nhau.

d) Phụ nữ chiếm phần lớn trong hàng ghế nhà thờ của chúng ta và thường là những nhà truyền giáo đầu tiên về đức tin trong gia đình. Những người nữ thánh hiến, cả trong đời sống chiêm niệm lẫn tông đồ, là một hồng ân, dấu chỉ và chứng tá căn bản và đặc biệt giữa chúng ta. Lịch sử lâu dài của các nhà nữ truyền giáo, các vị thánh, các nhà thần học và các nhà huyền nhiệm cũng là nguồn nuôi dưỡng và truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các người đàn bà và đàn ông ngày nay.

e) Đức Maria thành Nadarét, người phụ nữ có đức tin và là Mẹ Thiên Chúa, đối với tất cả mọi người vẫn là nguồn mạch duy nhất có ý nghĩa thần học, giáo hội và thiêng liêng. Đức Maria nhắc nhở chúng ta về lời mời gọi phổ quát hãy chăm chú lắng nghe Thiên Chúa và luôn cởi mở với Chúa Thánh Thần. Ngài biết niềm vui của việc sinh nở, nuôi dưỡng và chịu đựng nỗi đau khổ. Ngài sinh con trong hoàn cảnh nghèo khó, trở thành người tị nạn và sống trong nỗi đau buồn vì Con ngài bị giết hại dã man, nhưng ngài cũng biết sự vĩ đại của việc Phục Sinh của Người và vinh quang của Lễ Hiện Xuống.

f) Nhiều phụ nữ bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công việc của các linh mục và giám mục. Họ cũng nói về một Giáo hội bị tổn thương. Chủ nghĩa giáo sĩ trị, não trạng sô vanh và những cách thể hiện quyền lực không phù hợp tiếp tục làm hoen ố bộ mặt của Giáo hội và làm tổn hại đến sự hiệp thông của Giáo hội. Cần có một sự hoán cải tâm linh sâu sắc để làm nền tảng cho bất cứ sự thay đổi cơ cấu hữu hiệu nào. Lạm dụng tình dục và lạm dụng quyền lực và thẩm quyền tiếp tục kêu gọi công lý, chữa lành và hòa giải. Chúng tôi hỏi làm thế nào Giáo hội có thể trở thành nơi bảo vệ tất cả mọi người.

g) Nơi nào phẩm giá và công lý bị suy yếu trong các mối quan hệ giữa đàn ông và đàn bà trong Giáo hội, chúng ta làm suy yếu tính khả tín của lời rao giảng của chúng ta với thế giới. Con đường đồng nghị của chúng ta cho thấy sự cần thiết phải đổi mới các mối quan hệ và thay đổi cơ cấu. Bằng cách này, chúng ta có thể chào đón tốt hơn sự tham gia và đóng góp của tất cả mọi người – với những người đàn bà và đàn ông giáo dân và thánh hiến, phó tế, linh mục và giám mục – như các môn đệ đồng trách nhiệm trong công việc truyền giáo.

h) Phiên Họp yêu cầu chúng ta tránh lặp lại sai lầm nói về phụ nữ như một vấn đề, một nan đề. Thay vào đó, chúng ta mong muốn cổ vũ một Giáo hội trong đó những người nam nữ đối thoại với nhau, để hiểu sâu sắc hơn chân trời dự án của Thiên Chúa, coi họ cùng nhau là những người chủ động, không có chuyện lệ thuộc, loại trừ và cạnh tranh.

Các vấn đề để xem xét

i).Các Giáo hội trên khắp thế giới đã bày tỏ yêu cầu rõ ràng rằng sự đóng góp tích cực của phụ nữ sẽ được công nhận và đánh giá cao, đồng thời vai trò lãnh đạo mục vụ của họ phải gia tăng trong mọi lĩnh vực của đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Để phát biểu tốt hơn các hồng ân và đặc sủng của mọi người cũng như để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu mục vụ, làm thế nào Giáo hội có thể bao gồm nhiều phụ nữ hơn vào các vai trò và các thừa tác vụ hiện có? Nếu cần có những thừa tác vụ mới, ai sẽ phân định những thừa tác vụ này, ở bình diện nào và bằng cách nào?

j) Các quan điểm khác nhau đã được phát biểu liên quan đến việc phụ nữ tiếp cận thừa tác vụ phó tế. Đối với một số người, bước này sẽ không thể chấp nhận được vì họ coi đó là sự gián đoạn với Truyền thống. Tuy nhiên, đối với những người khác, việc mở rộng quyền tiếp cận chức phó tế cho phụ nữ sẽ khôi phục việc thực hành của Giáo hội sơ khai. Những người khác vẫn nhận thấy đây là một phản ứng thích hợp và cần thiết trước những dấu chỉ của thời đại, trung thành với Truyền thống, và là một phản ứng sẽ tìm thấy tiếng vang trong tâm hồn của nhiều người đang tìm kiếm năng lực và sức sống mới trong Giáo hội. Một số người bày tỏ lo ngại rằng yêu cầu này nói lên một sự nhầm lẫn đáng lo ngại về mặt nhân học, mà nếu được chấp nhận, sẽ khiến Giáo hội phải tuân theo tinh thần của thời đại.

k) Việc thảo luận về vấn đề này cũng liên quan đến việc suy tư rộng rãi hơn về thần học phó tế (xem Chương 11 bên dưới).

Các đề nghị

l) Các giáo hội địa phương được khuyến khích mở rộng công trình lắng nghe, đồng hành và chăm sóc cho những phụ nữ bị thiệt thòi nhất trong bối cảnh xã hội của họ.

m) Điều cấp bách là bảo đảm để phụ nữ có thể tham gia vào diễn trình đưa ra quyết định và đảm nhận các vai trò trách nhiệm trong việc chăm sóc mục vụ và thừa tác vụ. Đức Giáo Hoàng đã gia tăng đáng kể số lượng phụ nữ nắm giữ các vị trí trách nhiệm trong Giáo triều Rôma. Điều này cũng nên xảy ra ở các bình diện khác của đời sống Giáo hội, trong đời sống thánh hiến và các giáo phận. Dự khoản cần được thực hiện trong Giáo luật cho phù hợp.

n) Việc nghiên cứu thần học và mục vụ về việc tiếp cận chức phó tế của phụ nữ cần được tiếp tục, dựa trên việc xem xét các kết quả của các ủy ban do Đức Thánh Cha đặc biệt thành lập, và từ các nghiên cứu thần học, lịch sử và chú giải đã được thực hiện. Nếu có thể, kết quả nghiên cứu này sẽ được trình bày tại Kỳ họp tiếp theo của Phiên họp.

o) Các trường hợp bất công về lao động và trả lương không công bằng trong Giáo hội cần được giải quyết đặc biệt đối với những phụ nữ sống đời thánh hiến, những người thường bị đối xử như lao động rẻ mạt.

p) Việc phụ nữ tiếp cận các chương trình đào tạo và nghiên cứu thần học cần được mở rộng đáng kể. Chúng tôi đề nghị rằng phụ nữ cũng nên được lồng vào các chương trình giảng dạy và đào tạo của chủng viện để thúc đẩy việc đào tạo tốt hơn cho thừa tác vụ thụ phong.

q) Cần phải bảo đảm để các bản văn phụng vụ và tài liệu của Giáo hội chú ý hơn đến việc sử dụng ngôn ngữ có tính đến sự bình đẳng giữa cả đàn ông lẫn đàn bà, và cũng bao gồm một loạt các từ ngữ, hình ảnh và tường thuật trích dẫn rộng rãi hơn từ kinh nghiệm của phụ nữ.

r) Chúng tôi đề nghị phụ nữ nhận được một nền đào tạo thích hợp để họ có thể làm thẩm phán trong mọi tiến trình giáo luật.

10. Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội và Phong trào Giáo dân: một dấu chỉ đặc sủng

Các điểm hội tụ

a) Giáo Hội luôn được hưởng phúc lợi từ hồng phúc đặc sủng, dù là đặc sủng phi thường nhất đến đặc sủng đơn giản nhất. Qua chúng, Chúa Thánh Thần trẻ trung hóa và đổi mới Giáo hội với niềm vui và lòng biết ơn. Dân Thánh của Thiên Chúa nhìn nhận nơi các đặc sủng này sự trợ giúp quan phòng mà với nó, Thiên Chúa duy trì, hướng dẫn và soi sáng sứ mệnh của Người.

b) Chiều kích đặc sủng của Giáo hội được biểu lộ hiển hiện nơi những hình thức phong phú và đa dạng của đời sống thánh hiến. Chứng từ này đã góp phần đổi mới đời sống của cộng đồng giáo hội ở mọi thời đại và cung ứng liều thuốc giải độc cho cơn cám dỗ lâu năm hướng về tính thế gian. Các gia đình đa dạng tạo nên đời sống tu trì chứng tỏ vẻ đẹp của tình môn đệ và sự thánh thiện trong Chúa Kitô, dù trong những hình thức cầu nguyện đặc biệt của họ, trong sự phục vụ của họ giữa người ta, dù thông qua các hình thức sống cộng đồng, hay sự cô tịch của lối sống chiêm niệm hay ở biên giới của những nền văn hóa mới. Những người sống đời thánh hiến thường là những người đầu tiên cảm nhận được những thay đổi lịch sử quan trọng và chú ý đến sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Ngày nay cũng vậy, Giáo hội cần tiếng nói và hành động tiên tri của họ. Cộng đồng Kitô giáo cũng nhìn nhận và mong muốn chú ý đến các thực hành đời sống đồng nghị và phân định từng được thử thách và thử nghiệm trong các cộng đoàn đời sống thánh hiến, trưởng thành qua nhiều thế kỷ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể học hỏi từ họ sự khôn ngoan trong cách bước đi trên con đường đồng nghị. Nhiều Tu hội và Tu viện thực hành việc đàm luận trong Chúa Thánh Thần hoặc các hình thức phân định tương tự khi điều hành các tổng hội và tỉnh dòng, nhằm đổi mới cơ cấu, suy nghĩ lại về lối sống và kích hoạt các hình thức phục vụ sáng tạo và gần gũi với những người nghèo nhất. Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, chúng ta nhận thấy sự hiện hữu dai dẳng của một phong cách độc tài, không có chỗ cho đối thoại.

c) Với lòng biết ơn ngang bằng, dân Chúa nhìn nhận những hạt giống canh tân trong các cộng đồng có lịch sử lâu đời đã nảy nở thành các cộng đồng giáo hội mới. Các hiệp hội giáo dân, các phong trào giáo hội và các cộng đoàn mới là dấu chỉ quý giá cho thấy sự trưởng thành về tinh thần đồng trách nhiệm của tất cả những người đã được rửa tội. Họ có giá trị đặc biệt vì kinh nghiệm của họ trong việc thúc đẩy sự hiệp thông giữa các ơn gọi khác nhau, động lực họ loan báo Tin Mừng, sự gần gũi của họ với những người bên lề về mặt kinh tế và xã hội cũng như qua việc họ cổ vũ ích chung. Họ thường là những mẫu mực về sự hiệp thông đồng nghị và sự tham gia vào sứ mệnh.

d) Các trường hợp lạm dụng dưới nhiều hình thức mà những người trong đời sống tu trì và các thành viên hiệp hội giáo dân, đặc biệt là phụ nữ, phải trải qua, báo hiệu một vấn đề trong việc thực thi thẩm quyền và đòi hỏi những can thiệp quyết liệt và thích hợp.

Các vấn đề để xem xét

e) Huấn quyền của Giáo hội có một bộ giáo huấn được phát triển tốt về tầm quan trọng của các ân sủng phẩm trật và đặc sủng trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Điều này kêu gọi việc phát triển trong cách hiểu Giáo Hội và trong suy tư thần học. Do đó, việc đáng làm là xem xét lại ý nghĩa giáo hội học và những hệ luận mục vụ cụ thể của giáo huấn này.

f) Sự đa dạng của các cách phát biểu đặc sủng trong Giáo hội nhấn mạnh sự cam kết của dân Chúa trong việc trở thành một sự hiện diện mang tính tiên tri gần gũi với những anh chị em hèn mọn nhất của chúng ta, và mang lại cho nền văn hóa đương thời một ý thức sâu sắc hơn về các khía cạnh thiêng liêng của cuộc sống. Cần phát triển sự hiểu biết sâu sắc hơn về việc làm cách nào đời sống thánh hiến, cũng như các hiệp hội giáo dân, các phong trào giáo hội và các cộng đồng mới, đặt các đặc sủng của họ vào việc phục vụ sự hiệp thông và truyền giáo trong các giáo hội địa phương, tăng cường các con đường hiện có hướng tới sự thánh thiện bằng sự hiện diện có tính tiên tri.

Các đề nghị

g) Chúng tôi tin rằng đã đến lúc phải duyệt lại văn kiện Mutuae Relationes năm 1978, liên quan đến mối quan hệ giữa các giám mục và các tu sĩ trong Giáo hội. Chúng tôi đề nghị việc sửa đổi này được hoàn thành theo cách thức đồng nghị, tham khảo ý kiến của tất cả những người liên quan.

h) Để đạt được mục đích đó, cần phải đưa ra, trên tinh thần đồng nghị, các phương tiện và công cụ để thúc đẩy các cuộc gặp gỡ và các hình thức cộng tác giữa các Hội đồng Giám mục và các Hội đồng Bề trên và Bề trên Thượng cấp của các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hội Đời sống Tông đồ.

i) Ở bình diện cả các giáo hội địa phương cá thể lẫn các nhóm Giáo hội, việc cổ vũ tính đồng nghị truyền giáo đòi hỏi phải thành lập và tổ chức các hội đồng và cơ quan tư vấn mà tại đó các đại diện của các hiệp hội giáo dân, các phong trào giáo hội và các cộng đồng mới có thể gặp nhau để thúc đẩy các mối quan hệ lâu dài giữa cuộc sống và công việc của họ và của các giáo hội địa phương.

j) Trong việc đào tạo thần học ở mọi bình diện, nhất là trong việc đào tạo các thừa tác viên thụ phong, sự nổi bật của chiều kích đặc sủng của Giáo hội cần được theo dõi và củng cố khi cần thiết.

11. Các phó tế và linh mục trong Giáo hội đồng nghị

Các điểm hội tụ

a) Các linh mục là cộng tác viên chính của Giám Mục, cùng với ngài thành lập một linh mục đoàn (xem Lumen Gentium 28). Các phó tế được tấn phong để thực hiện thừa tác vụ phục vụ dân Chúa trong việc phục vụ Lời Chúa, trong phụng vụ, nhưng trên hết là trong việc thực thi bác ái (xem Lumen Gentium 29). Phiên Họp Thượng Hội đồng mong muốn, trước hết và trên hết, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các linh mục và phó tế. Ý thức được rằng họ có thể trải qua sự cô đơn và cô lập, Phiên Họp khuyến khích các cộng đồng Kitô hữu hỗ trợ các ngài bằng lời cầu nguyện, tình bạn và sự cộng tác.

b) Các phó tế và linh mục tham gia mục vụ trong nhiều môi trường mục vụ khác nhau: tại các giáo xứ, trong việc truyền giáo, giữa những người sống trong cảnh nghèo khó và bị gạt ra ngoài lề xã hội, trong thế giới văn hóa và giáo dục, cũng như trong sứ mệnh ad gentes, trong nghiên cứu thần học, tại các trung tâm tĩnh tâm và những nơi đổi mới tâm linh, và nhiều nơi khác. Trong một Giáo hội đồng nghị, các thừa tác viên thụ phong được kêu gọi sống phục vụ dân Chúa trong thái độ gần gũi với mọi người, chào đón và lắng nghe mọi người, đồng thời vun trồng một nền linh đạo bản thân sâu sắc và một đời sống cầu nguyện. Trên hết, họ phải xem xét lại việc thi hành thẩm quyền, noi gương Chúa Giêsu, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã tự bỏ mình đi, mặc lấy thân nô lệ” (Pl. 2: 6-7). Phiên Họp nhìn nhận rằng qua sự cống hiến của mình, nhiều linh mục và phó tế đã làm cho Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành và Tôi Tớ, hiện diện.

c) Một trở ngại đối với thừa tác vụ và sứ mệnh là chủ nghĩa giáo sĩ trị. Chủ nghĩa giáo sĩ trị bắt nguồn từ sự hiểu lầm về ơn gọi của Thiên Chúa, xem nó như một đặc ân hơn là một việc phục vụ, và tự biểu lộ qua việc thực thi quyền lực theo cách trần tục, từ chối việc giải trình. Sự bóp méo ơn gọi linh mục này cần phải được thách thức ngay từ những giai đoạn đào tạo đầu tiên bằng cách bảo đảm việc tiếp xúc chặt chẽ với dân Chúa và thông qua những kinh nghiệm học tập phục vụ cụ thể giữa những người cần giúp đỡ nhất. Việc thi hành thừa tác vụ linh mục ngày nay không thể được thực hiện nếu không hòa hợp với giám mục và linh mục đoàn, cũng như trong sự hiệp thông sâu sắc với các thừa tác vụ và đặc sủng khác. Thật không may, chủ nghĩa giáo sĩ trị là một khuynh hướng có thể tự biểu lộ không những nơi các thừa tác viên mà cả nơi giáo dân nữa.

d) Để thi hành thừa tác vụ thụ phong trong bối cảnh đồng trách nhiệm, cần phải ý thức được khả năng và giới hạn của mình. Vì lý do này, điều quan trọng là phải bảo đảm để một cách tiếp cận thực tiễn đối với việc đào tạo con người được tích hợp với các chiều kích văn hóa và tâm linh của việc đào tạo, cũng như việc đào tạo tư cách môn đệ. Về vấn đề này, không thể đánh giá thấp sự đóng góp của các gia đình gốc và cộng đồng Kitô hữu, trong đó ơn gọi của người trẻ được nuôi dưỡng, cũng như của các gia đình khác đồng hành cùng sự phát triển của họ.

Các vấn đề để xem xét

e) Trong bối cảnh đào tạo tất cả những người đã được rửa tội để phục vụ trong một Giáo hội đồng nghị, việc đào tạo các phó tế và linh mục đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Yêu cầu đã được bày tỏ rộng rãi tại Phiên Họp này là các chủng viện và các chương trình đào tạo linh mục khác mãi được kết nối với đời sống hàng ngày của cộng đồng. Chúng ta cần tránh những rủi ro của chủ nghĩa hình thức và hệ tư tưởng dẫn đến thái độ độc đoán và cản trở sự phát triển ơn gọi thực sự. Việc sửa đổi các chương trình đào tạo đòi hỏi phải thảo luận và xem xét rộng rãi.

f) Các ý kiến khác nhau đã được bày tỏ về luật độc thân linh mục. Giá trị của nó được mọi người đánh giá cao như một chứng từ phong phú và sâu sắc về Chúa Kitô; tuy nhiên, một số người hỏi liệu tính thích hợp của nó, về mặt thần học, đối với thừa tác vụ linh mục có nên nhất thiết phải chuyển thành một nghĩa vụ có tính kỷ luật trong Giáo hội Latinh, đặc biệt trong bối cảnh giáo hội và văn hóa vốn gây khó khăn hơn cho nó hay không. Cuộc thảo luận này không mới nhưng cần được xem xét thêm.

Các đề nghị

g) Trong các Giáo hội Latinh, chức phó tế vĩnh viễn đã được thực hiện theo những cách khác nhau trong những bối cảnh giáo hội khác nhau. Một số Giáo hội địa phương chưa hề du nhập nó; ở những người khác, người ta lo ngại rằng các phó tế được coi là một loại thay thế cho tình trạng thiếu linh mục. Đôi khi, sứ vụ của họ được thể hiện trong phụng vụ hơn là phục vụ những người sống trong cảnh nghèo khó và những người thiếu thốn trong cộng đồng. Do đó, chúng tôi khuyến nghị một cuộc lượng định về việc thừa tác vụ phó tế đã được thực thi ra sao kể từ Công đồng Vatican II.

h) Từ quan điểm thần học, trước hết và trên hết, cần phải hiểu chức phó tế trong chính nó, chứ không chỉ là một giai đoạn để tiếp cận chức linh mục. Việc coi hình thức chính của chức phó tế như “vĩnh viễn”, để phân biệt với hình thức “chuyển tiếp”, tự nó là một dấu hiệu cho thấy một sự thay đổi quan điểm vẫn chưa được thực hiện một cách thỏa đáng.

i) Những điều không chắc chắn xung quanh thần học về chức phó tế có liên quan đến sự kiện nó chỉ được khôi phục cho một thừa tác vụ phẩm trật khác biệt và vĩnh viễn trong Giáo hội Latinh kể từ Công đồng Vatican II. Nghiên cứu sâu hơn sẽ làm sáng tỏ câu hỏi về việc phụ nữ tiếp cận chức phó tế.

j) Cần phải xem xét kỹ lưỡng việc đào tạo thừa tác vụ thụ phong theo các chiều kích truyền giáo và đồng nghị của Giáo hội. Điều này có nghĩa là cũng phải duyệt lại văn kiện Ratio fundamentalis [Lý do căn bản] để xác định việc phải lên cấu trúc cho đào tạo ra sao. Đồng thời, chúng tôi cũng đề nghị bảo đảm việc áp dụng phong cách đồng nghị khi nói đến việc liên tiếp tu nghiệp các linh mục và phó tế.

k) Sự minh bạch và văn hóa giải trình trách nhiệm có tầm quan trọng cốt yếu để chúng ta tiến lên trong việc xây dựng một Giáo hội đồng nghị. Chúng tôi yêu cầu các giáo hội địa phương xác định các diễn trình và cơ cấu cho phép cuộc thanh lý thường xuyên cách thức các linh mục và phó tế thực hiện vai trò trách nhiệm trong việc thi hành thừa tác vụ của mình. Các định chế hiện có, chẳng hạn như các cơ quan tham gia hoặc các chuyến viếng thăm mục vụ, có thể là điểm khởi đầu cho công việc này, quan tâm đến sự tham gia của cộng đồng. Những hình thức như vậy phải được điều chỉnh phù hợp với bối cảnh địa phương và các nền văn hóa đa dạng, để không trở thành trở ngại hay gánh nặng quan liêu. Việc phân định loại tiến trình đòi phải có có thể được xem xét ở bình diện khu vực hoặc lục địa.

l) Tùy từng trường hợp cụ thể và phù hợp với bối cảnh, nên xem xét khả thể tái lồng các linh mục đã rời bỏ thừa tác vụ vào các công việc mục vụ biết nhìn nhận sự đào tạo và kinh nghiệm của họ.

12. Giám Mục trong Hiệp thông Giáo Hội

Các điểm hội tụ

a) Theo Vatican II, các giám mục, với tư cách là người kế vị các Tông đồ, được giao nhiệm vụ phục vụ sự hiệp thông được thực hiện trong Giáo hội địa phương, giữa các Giáo hội và với toàn thể Giáo hội. Do đó, hình ảnh giám mục chỉ có thể được hiểu một cách thỏa đáng trong mạng lưới các mối liên hệ được dệt nên từ thành phần dân Chúa được ủy thác cho ngài, linh mục đoàn và các phó tế, những người thánh hiến, các giám mục khác và Giám mục Rôma, và định hướng liên tục hướng tới sứ mệnh.

b) Giám mục, trong Giáo hội của mình, là người chịu trách nhiệm chính trong việc công bố Tin Mừng và phụng vụ. Ngài hướng dẫn cộng đồng Kitô giáo và thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ cho những người đang trải nghiệm cảnh nghèo đói và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất. Với tư cách là nguyên tắc hữu hình của sự hiệp nhất, ngài có nhiệm vụ phân định và phối hợp các đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau được Chúa Thánh Thần ban phát để loan báo Tin Mừng và ích chung của cộng đồng. Thừa tác vụ này được thực hiện theo cách thức đồng nghị khi việc quản trị đi kèm với tinh thần đồng trách nhiệm, rao giảng bằng cách lắng nghe Dân trung thành của Thiên Chúa, thánh hóa và cử hành phụng vụ bằng đức khiêm nhường và hoán cải.

c) Giám mục có vai trò không thể thiếu trong việc làm sống động và sinh động tiến trình đồng nghị ở Giáo hội địa phương, cổ vũ tính tương hỗ giữa “tất cả, một số và một”. “Một” thừa tác vụ Giám mục đánh giá cao sự tham gia của “tất cả” các tín hữu, thông qua sự đóng góp của “một số” những người trực tiếp tham gia hơn vào quá trình phân định và đưa ra quyết định. Niềm xác tín mà với nó, chính giám mục tiếp nhận phương thức đồng nghị và phong cách thi hành thẩm quyền sẽ ảnh hưởng dứt khoát đến cách các linh mục và phó tế, giáo dân nam nữ, và những người sống đời thánh hiến, tham gia vào tiến trình đồng nghị. Giám mục được mời gọi trở thành mẫu mực về tính đồng nghị cho tất cả mọi người.

d) Trong những bối cảnh Giáo hội được tri nhận như gia đình của Thiên Chúa, giám mục được coi là cha của mọi người; tuy nhiên, có một cuộc khủng hoảng liên quan đến việc thẩm quyền của ngài được cảm nghiệm ra sao trong các xã hội thế tục hóa. Điều quan trọng là không làm ngơ bản chất bí tích của Hàng Giám mục, kẻo hình ảnh giám mục bị đồng hóa với hình ảnh của một nhân vật chính quyền dân sự.

e) Kỳ vọng của các giám mục thường rất cao, và nhiều giám mục nói tới cảm giác bị đè quá nặng với những cam kết hành chính và pháp lý, khiến các ngài khó thể hiện đầy đủ sứ mệnh của mình. Vị giám mục cũng phải chấp nhận sự yếu đuối và hạn chế của mình và đôi khi thiếu sự hỗ trợ cần thiết, bất kể về mặt nhân bản hay tinh thần. Một cảm giác cô đơn nào đó không phải là điều hiếm hoi. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là một mặt phải tái tập chú vào các yếu tố thiết yếu cho sứ mệnh của giám mục, mặt khác là vun trồng tình huynh đệ chân chính giữa chính các giám mục và giữa các giám mục và linh mục của của các ngài.

Các vấn đề để xem xét

f) Về bình diện thần học, ý nghĩa của mối liên hệ hỗ tương giữa giám mục và Giáo hội địa phương cần phải được đào sâu hơn một cách đáng kể. Ngài được mời gọi vừa hướng dẫn Giáo hội địa phương của mình, vừa thừa nhận và bảo tồn sự phong phú của lịch sử, truyền thống và đặc sủng của nó.

g) Vấn đề mối liên hệ giữa Bí tích Truyền chức và quyền tài phán cần được nghiên cứu sâu hơn. Trong cuộc đối thoại với Lumen Gentium và những giáo huấn gần đây hơn như Tông hiến Praedicate Evangelium, mục đích của một nghiên cứu như vậy là làm sáng tỏ các tiêu chuẩn thần học và giáo luật làm nền tảng cho nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm của giám mục và xác định phạm vi, hình thức và hệ luận của việc đồng trách nhiệm.

h) Một số giám mục bày tỏ sự khó chịu khi được yêu cầu phát biểu về các vấn đề đức tin và luân lý mà thiếu sự đồng ý hoàn toàn trong hàng Giám mục. Cần phải suy gẫm sâu hơn về mối liên hệ giữa tính hợp đoàn giám mục và sự đa dạng của các quan điểm thần học và mục vụ.

i) Điều không thể thiếu đối với một Giáo hội đồng nghị là bảo đảm một nền văn hóa minh bạch và tôn trọng các thủ tục được thiết lập để bảo vệ các vị thành niên và những người dễ bị tổn thương. Cần phải phát triển thêm các cơ cấu dành riêng cho việc ngăn ngừa lạm dụng. Vấn đề nhạy cảm trong việc xử lý lạm dụng đặt nhiều giám mục vào tình thế khó khăn khi phải dung hòa vai trò của người cha với vai trò của thẩm phán. Cần phải tìm hiểu tính thích hợp của việc giao nhiệm vụ tư pháp cho một cơ quan khác, được quy định theo giáo luật.

Các đề nghị

j) Cần phải thực thi, dưới những hình thức cần được xác định về mặt pháp lý, các cơ cấu và tiến trình để thường xuyên xem xét lại hoạt động của giám mục, liên quan đến phong cách thẩm quyền của ngài, việc quản lý kinh tế đối với tài sản của giáo phận và hoạt động của các cơ quan tham gia và bảo vệ khỏi mọi hình thức lạm dụng có thể xảy ra. Nền văn hóa giải trình trách nhiệm là một phần không thể thiếu của một Giáo hội đồng nghị nhằm thúc đẩy tinh thần đồng trách nhiệm, cũng như bảo vệ chống lại các lạm dụng.

k) Có những lời kêu gọi làm cho Hội đồng Giám mục (điều 473 §4), Hội đồng Mục vụ Giáo phận và Hội đồng Mục vụ Giáo phận Đông Phương (Bộ Giáo luật điều 511, Bộ Giáo luât Đông phương điều 272), có tính cách bắt buộc, và làm cho các cơ quan giáo phận thực thi tính đồng trách nhiệm có tính hoạt động nhiều hơn, kể cả về mặt pháp lý.

l) Phiên họp kêu gọi duyệt lại các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên vào chức vụ giám mục, cân bằng quyền lực của Sứ thần Tòa thánh với sự tham gia của các Hội đồng Giám mục.

Cũng có những yêu cầu mở rộng việc tham vấn với Dân trung thành của Thiên Chúa, và lôi kéo nhiều giáo dân và những người thánh hiến hơn vào diễn trình tham vấn, chú ý tránh bị đặt dưới bất cứ áp lực quá đáng nào trong quá trình lựa chọn.

m) Nhiều giám mục bày tỏ sự cần thiết phải suy nghĩ lại về chức năng và củng cố cơ cấu của các tòa giáo đô (các tỉnh giáo hội) và các khu vực, để chúng có thể trở thành những biểu thức cụ thể của tính hợp đoàn trong một lãnh thổ và, thông qua tình huynh đệ, hỗ trợ lẫn nhau, minh bạch và tham khảo rộng rãi hơn, trở thành các thực hành thông thường giữa các giám mục.

13. Giám mục Rôma trong Giám mục đoàn

Các điểm hội tụ

a) Động lực đồng nghị cũng làm sáng tỏ thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Thật vậy, tính đồng nghị nói lên một cách đồng điệu các chiều kích cộng đồng (“tất cả”), hợp đoàn (“một số”) và bản vị (“một”) của Giáo hội ở bình diện địa phương, khu vực và hoàn vũ. Trong một viễn kiến như vậy, thừa tác vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của động lực đồng nghị, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Thiên Chúa và chiều kích hợp đoàn của việc thực thi thừa tác vụ Giám mục. Do đó, tính đồng nghị, tính hợp đoàn và tính ưu việt tham chiếu lẫn nhau: tính ưu việt giả thiết việc thực thi tính đồng nghị và tính hợp đoàn, giống như cả hai đều hàm nghĩa việc thực thi tính ưu việt.

b) Cổ vũ sự hiệp nhất giữa mọi Kitô hữu là một khía cạnh thiết yếu trong thừa tác vụ của Giám mục Rôma. Hành trình đại kết đã đào sâu sự hiểu biết về thừa tác vụ của Người Kế vị Thánh Phêrô và phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Những câu trả lời trước lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II trong thông điệp Ut unum sint, cũng như những kết luận của các cuộc đối thoại đại kết, có thể giúp người Công Giáo hiểu biết về tính ưu việt, tính tập đoàn, tính đồng nghị và các mối quan hệ hỗ tương của chúng.

c) Việc cải cách Giáo triều Rôma là một khía cạnh quan trọng trong hành trình đồng nghị của Giáo Hội Công Giáo. Tông Hiến Praedicate evangelium nhấn mạnh rằng “Giáo triều Rôma không đứng giữa Giáo hoàng và các Giám mục, nhưng đặt mình vào việc phục vụ cả hai theo những cách thức phù hợp với bản chất của mỗi bên” (Praedicate evangelium I.8). Nó thúc đẩy cải cách dựa trên “đời sống hiệp thông” (Praedicate evangeliumI.4) và “tản quyền lành mạnh” (Praedicate evangelium II.2). Sự kiện nhiều thành viên của các thánh bộ Rôma là Giám mục giáo phận nói lên tính Công Giáo của Giáo hội và nên cổ vũ mối quan hệ giữa Giáo triều và các giáo hội địa phương. Việc thực hiện hiệu quả Predicate evangelium có thể thúc đẩy tính đồng nghị nhiều hơn trong Giáo triều cả giữa các cơ quan khác nhau và trong mỗi cơ quan đó.

Các vấn đề để xem xét

d) Cần có cái nhìn sâu sắc hơn vào việc cái hiểu mới về Hàng Giám mục trong một Giáo hội đồng nghị ảnh hưởng ra sao đến thừa tác vụ của Giám mục Rôma và vai trò của Giáo triều Rôma. Vấn đề này có hệ luận quan trọng đối với cách thức thực hiện đồng trách nhiệm trong việc quản trị Giáo hội. Ở bình diện phổ quát, Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật của các Giáo hội Đông phương đưa ra những quy định cho việc thực thi thừa tác vụ giáo hoàng mang tính tập thể hơn. Những điều này có thể được phát triển hơn nữa trong thực hành và được củng cố trong bản cập nhật tương lai của cả hai bản văn.

e) Tính đồng nghị có thể làm sáng tỏ những cách thức trong đó các Hồng Y có thể cộng tác trong thừa tác vụ Phêrô và những cách thức trong đó việc biện phân tập đoàn của họ có thể được cổ vũ trong các công nghị thường và ngoại thường.

f) Vì lợi ích của Giáo hội, điều quan trọng là phải nghiên cứu những cách thích hợp nhất để phát huy sự quen biết lẫn nhau và mối dây hiệp thông giữa các thành viên Hồng Y đoàn, lưuu ý đến cả tính đa dạng về nguồn gốc và văn hóa của họ.

Các đề nghị

g) Các chuyến viếng thăm ad limina Apostolorum [viếng mồ các Tông đồ] là thời điểm cao nhất trong mối liên hệ giữa các mục tử của các giáo hội địa phương với Giám mục Rôma và những người cộng tác thân cận nhất của ngài trong Giáo triều Rôma. Cần phải xem xét lại hình thức thực hiện chúng để chúng luôn trở thành cơ hội trao đổi cởi mở và hỗ tương hơn nhằm phát huy sự hiệp thông và thực thi tính tập đoàn và tính đồng nghị một cách thực sự.

h) Dưới ánh sáng cấu hình đồng nghị của Giáo hội, các cơ quan của Giáo triều Rôma cần tăng cường việc tham khảo ý kiến của các giám mục, chú ý nhiều hơn đến tính đa dạng của các tình huống và chú ý lắng nghe hơn tiếng nói của các giáo hội địa phương.

i) Điều xem ra thích hợp là thiết lập các hình thức đánh giá công việc của các Đại diện Giáo hoàng bởi các giáo hội địa phương tại các quốc gia nơi họ thực hiện sứ mệnh để tạo điều kiện thuận lợi và hoàn thiện việc phục vụ của họ.

j) Có đề nghị tăng cường và củng cố kinh nghiệm của Hội đồng Hồng Y (C-9) với tư cách là một hội đồng đồng nghị phục vụ thừa tác vụ Phêrô.

k) Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, cần phải đánh giá cẩn thận xem liệu có thích hợp để phong chức giám mục cho các vị giáo phẩm của Giáo triều Rôma hay không.

Kỳ sau: Phần III
____________________________________________________________________________________________________

(*) Chỉ các linh mục được sai đi truyền giáo ở nước ngoài nhưng vẫn thuộc giáo phận gốc và điều hành bởi nó theo thông điệp « Fidei Donum » [hồng ân Đức tin) của Đức Piô XII năm 1957 [chú thích của người dịch].