1. Công Giáo tại Campuchia có thêm ba linh mục mới

Giáo Hội Công Giáo tại Campuchia có thêm ba linh mục mới, tất cả đều là người bản xứ.

Hôm thứ Bảy, ngày 23 tháng Chín vừa qua, Đức Cha Olivier Schmitthaeusler, thuộc Hội thừa sai Paris, Đại diện Tông tòa Giáo phận Phnom Penh, đã truyền chức linh mục cho ba phó tế: là thầy Gioan Baotixita Vy Samman, Antôn Thai Tatanak Bunly và Poul Vin Kann. Ngoài ra, có một linh mục Dòng Tên bản xứ đầu tiên thụ phong linh mục hồi tháng Tám năm nay, là cha Damo Martin Chour.

Lễ truyền chức cho ba linh mục mới được cử hành tại nhà thờ Chính tòa thánh Phêrô và Phaolô ở thủ đô Phnom Penh, trước sự hiện diện của hàng trăm tín hữu đến từ nhiều nơi trong nước.

Đức Cha Olivier bày tỏ vui mừng vì ba tân linh mục là một món quà cho cộng đồng Công Giáo Campuchia. Ngài nhắc đến Trường Don Bosco, nơi cả ba tân linh mục đều theo học tại đó trước khi gia nhập Chủng viện thánh Gioan Maria Vianney, đồng thời Đức Cha cũng cám ơn gia đình và tất cả những người đã cầu nguyện cho ba linh mục mới. Ba vị tân linh mục là dấu chỉ sự tăng trưởng và niềm hy vọng cho Giáo hội tại nước này.

Trước đó, ngày 19 tháng Tám, lễ truyền chức linh mục cho cha Damo Chour, 39 tuổi, Dòng Tên, cũng do Đức Cha Schmitthaeusler cử hành, trước sự hiện diện của Đức ông Enrique Figaredo, Dòng Tên, Phủ doãn Tông tòa Battambang, và nhiều linh mục Dòng Tên từ các nước, hơn 70 linh mục, nữ tu và thừa sai, tín hữu thuộc các giáo xứ. Nay tân linh mục Damo Chour đặc trách cổ võ ơn gọi của Dòng Tên tại Campuchia.

Giáo Hội Công Giáo tại Campuchia hiện có 14 linh mục bản xứ, khoảng 100 thừa sai phục vụ tại khoảng 80 giáo xứ

2. Đức Hồng Y Sako: Các Kitô hữu Iraq bị thương tổn

Đức Hồng Y Louis Raphael Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê, than phiền rằng: “Các tín hữu Kitô Iraq đang thấy các nhân quyền hợp pháp và quyền quốc gia của họ bị vi phạm”.

Trong thông cáo, công bố sáng ngày 23 tháng Chín vừa qua, Đức Hồng Y Sako nói đến những lạm dụng mà cộng đoàn Kitô Iraq phải chịu. Họ bị loại trừ khỏi công ăn việc làm, bị chiếm đoạt các tài nguyên và tài sản hợp pháp, phải chịu tình trạng nhất loạt thay đổi dân số tại các thành thị của Kitô hữu ở miền Bình nguyên Ninive. Tất cả đều diễn ra dưới mắt của nhà nước Iraq, mặc dù các Kitô hữu trung thành và dấn thân cho đất nước của họ”.

Đức Hồng Y Sako nhắc lại rằng sau khi chế độ của Saddam Hussein sụp đổ, rồi sau khi bị trục xuất khỏi thành phố Mosul và vùng Ninive do hoạt động của các lực lượng Hồi giáo ISIS hồi năm 2014, một triệu Kitô hữu đã rời bỏ Iraq để di cư và nay chỉ còn lại nửa triệu tín hữu tại Iraq. Họ buộc lòng di cư vì những lý do an ninh do các nhóm dân quân, vì chính trị phe phái, kinh tế tham nhũng, xã hội cực đoan về tôn giáo.

Đức Hồng Y Thượng phụ Công Giáo Canđê cũng trích dẫn vài thống kê của tổ chức Hammurabi và Phong trào dân chủ Assiri, hơn 1.200 Kitô bị giết, các linh mục tu sĩ bị bắt cóc và sát hại ở Mosul và Baghdad, như Đức Cha Moulos Faraj Rahho, Tổng giám mục Mosul của Công Giáo Canđê, và 85 nhà thờ cùng với đan viện ở Baghdad, Mosul và Bassora đã bị những thành phần ISIS cực đoan pháo kích, nạn tịch thu tài sản của các Kitô hữu do các nhóm mafia địa phương.

Cùng thuộc danh sách những tệ nạn trên đây, hồi tháng Bảy vừa qua, có sự kiện Tổng thống Iraq, ông Abdul Latif Rashid thu hồi sắc lệnh số 147 năm 2013 của Tổng thống tiền nhiệm và không còn công nhận Đức Hồng Y Sako là Thượng phụ của Giáo Hội Công Giáo Canđê, thủ lãnh của Giáo hội Canđê tại Iraq và trên thế giới, và cũng là vị bảo quản tài sản của Giáo hội.

Đức Hồng Y Sako gọi quyết định này là một cuộc tấn công các tín hữu Kitô thiểu số và cho thấy những thủ đoạn chính trị để chiếm đoạt tài sản của Giáo hội. Ngoài ra, có những vi phạm khác như hậu quả của luật về quy chế nhân sự và hồi giáo hóa các trẻ vị thành niên, làm cho các tín hữu Kitô mất tin tưởng nơi chính quyền.

Đứng trước những tình trạng như thế, Giáo hội đã động viên tất cả năng lực của mình và nỗ lực hết sức để giúp đỡ và khích lệ các tín hữu Kitô ở lại Iraq, vì con số Kitô giảm từ 4% xuống còn 1% dân số Iraq, nhưng Giáo hội không phải là người thay thế nhà nước.

Từ đó có vấn đề: “Làm sao duy trì các Kitô hữu tại Iraq và củng cố sự hiện diện của họ từ 2.000 năm nay tại nước này?”

Theo Đức Hồng Y Sako, những lời tuyên bố liên đới và những lời hứa hẹn không ích gì cả, nếu không có những hoạt động thực sự và trực tiếp để ngăn chặn những vi phạm, bất luận do ai. Theo ngài, giải pháp là đối xử theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật đối với các nhóm chủng tộc và tôn giáo bị gạt ra ngoài lề, bảo đảm cho mỗi công dân được sống trong khuôn khổ pháp luật của đất nước. Chính nhờ căn bản pháp luật mà các công dân được tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của đất nước họ”.

3. Đức Thánh Cha biến nhà thờ thành đồng nhà thờ chính tòa đầu tiên trong lịch sử Quần đảo Anh

Đức Thánh Cha Phanxicô đã trao tặng một nhà thờ ở Vương quốc Anh “tư cách đồng nhà thờ chính tòa”, khiến ngôi thánh đường này trở thành nhà thờ đầu tiên thuộc loại này trong lịch sử Quần đảo Anh.

Nhà thờ St. Mary of the Isle, tọa lạc tại Douglas trên Đảo Man, đã đạt được vị thế hiếm có này sau khi Douglas được chính thức công nhận là thành phố trong lễ kỷ niệm bạch kim của cố Nữ hoàng Elizabeth II vào tháng 6 năm 2022.

Nhà thờ St. Mary of the Isle sẽ là nhà thờ đồng chính tòa với nhà thờ chính tòa của Thủ đô Liverpool của Chúa Kitô Vua. Hai nhà thờ cách nhau 80 dặm và bị ngăn cách bởi Biển Ái Nhĩ Lan, nhưng cả hai đều thuộc Tổng giáo phận Liverpool.

Các nhà thờ đồng chính tòa là một điều hiếm thấy trong Giáo Hội Công Giáo và chỉ tồn tại khi hai giáo phận, mỗi giáo phận có nhà thờ chính tòa riêng, được sáp nhập hoặc khi một giáo phận trải dài trên hai khu vực pháp lý dân sự khác nhau, như trường hợp của Tổng giáo phận Liverpool.

Đức ông John Devine, linh mục chính xứ của St. Mary of the Isle, cho biết quá trình được công nhận đồng chính tòa đã kéo dài cả năm nhưng bày tỏ sự vui mừng rằng cuối cùng điều đó đã xảy ra.

Trong một tuyên bố do Hội đồng Giám mục Công Giáo Anh và xứ Wales đưa ra vào ngày 22 tháng 9, ông nói: “Tôi rất vui mừng vì St. Mary of the Isle đã được công nhận là thánh đường; đó là một tin tuyệt vời cho người Công Giáo trên khắp hòn đảo.”

Devine cho biết lần đầu tiên anh được Hội đồng Douglas Borough tiếp cận, người đã chỉ ra rằng các thành phố có thánh đường và hòn đảo này đã có một thánh đường Anh giáo ở bờ biển phía tây. Họ hỏi liệu có thể nâng Nhà thờ St. Mary of the Isle ở Douglas lên vị thế của một nhà thờ chính tòa hay không.

“Tổng giám mục Liverpool, Đức Giám Mục Malcolm McMahon, theo lời khuyên của các luật sư giáo luật, đã thỉnh cầu Đức Thánh Cha, một yêu cầu được ủng hộ bởi cả giám mục Anh giáo của Sodor và Man, giám đốc điều hành của Hội đồng Douglas, và chủ tịch Tynwald, “Devine giải thích.

Trong cùng một thông cáo báo chí, McMahon nói: “Thật vui mừng khi St. Mary of the Isle đã được phong là nhà thờ chính tòa. Đảo Man là một phần quan trọng của tổng giáo phận chúng ta; nó chiếm một phần ba diện tích đất liền và cộng đồng Công Giáo trên đảo ngày càng đa dạng với các giáo dân đến từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Thật tuyệt vời khi chúng ta có thể thừa nhận điều này bằng việc công bố một đồng chánh tòa - một địa vị hiếm có trong Giáo Hội Công Giáo. Đó là điều mà mọi người trên đảo sẽ vô cùng tự hào.”

Trong tuyên bố ngày 22 tháng 9, Devine cũng nhận xét rằng Đảo Man có một “câu chuyện đức tin độc đáo”.

“Kitô giáo ở Đảo Man có nguồn gốc từ thời Thánh Patrick và Thánh Maughold vào thế kỷ thứ năm. Nhưng phần còn lại của tổng giáo phận không có sự đánh giá cao về lịch sử và truyền thống độc đáo của Nhà thờ Manx,” ông nói và cho biết thêm: “Tương tự như vậy, rất ít người Công Giáo trên đảo đồng nhất với Liverpool. Tuy nhiên, thay vì tách chúng ra xa hơn, việc trao quyền đồng chính tòa cho St. Mary's sẽ nâng cao nhận thức ở Liverpool về sự giàu có của Giáo Hội ở Manx.”

Devine cho biết sự hiện diện thường trực của tổng giám mục tại St. Mary's cũng sẽ “đóng vai trò như một lời nhắc nhở đối với người dân trên đảo rằng tổng giám mục Liverpool cũng là tổng giám mục của họ”.

Đảo Man là một lãnh thổ phụ thuộc của Vương quốc Anh tự quản nằm giữa Vương quốc Anh và Ireland với dân số khoảng 84.000 người.