Theo trang mạng https://france3-regions.francetvinfo.fr, từ lúc 3 giờ 35 chiều ngày 23 tháng 9, giáo hoàng xa đã có mặt ở cuối đại lộ Prado, Marseille. Đức Giáo Hoàng sẽ hướng về sân vận động vélodrome trong ít phút. Ngài sẽ được hàng ngàn người tụ tập dọc đường hoan hô. Đoàn rước sẽ được bảo vệ bởi cảnh sát Pháp, cảnh sát Ý và vệ binh Thụy sĩ. Đúng 4 giờ, Đức Giáo Hoàng tiến vào và được 57,000 tín hữu nghinh đón tại Vélodrome. 4 giờ 20, ngài được hướng dẫn tới bàn thờ đặt tại lòng Vélodrome. Ngài bắt đầu Thánh Lễ bằng lời chào: "bonjour Marseille, bonjour la France" [Chào Marseille buổi sáng, chào Nước Pháp buổi sáng], sau đó, bằng một giọng yếu ớt, ngài bắt đầu buổi cử hành, bằng tiếng Pháp, lễ ngoại lịch Đức Trinh Nữ Maria de la Garde. Trong bài giảng, ngài đặc biệt nói đến cuộc gặp gỡ gây phấn khởi, nhẩy mừng hân hoan của hai người đàn bà kỳ diệu, một trinh nữ và một người lớn tuổi son sẻ, cả hai cùng mang thai cách nhiệm mầu.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của ngài và lời tạm biệt của ngài sau hai ngày viếng thăm Marseille nhân dịp cuộc Gặp Gỡ Địa Trung Hải, dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh:



Kinh thánh cho chúng ta biết rằng sau khi thành lập vương quốc của mình, Vua Đavít đã quyết định vận chuyển Hòm bia Giao ước đến Giêrusalem. Sau khi triệu tập mọi người, ông đứng dậy và lên đường mang theo Hòm bia; trên đường đi, ông và dân chúng nhảy múa trước nó, vui mừng trước sự hiện diện của Chúa (x. 2 Sm 6:1-15). Chính trong tấm phông của cảnh này mà thánh sử Luca kể lại chuyến viếng thăm của Đức Maria với người chị họ là bà Êlisabét. Đức Maria cũng chỗi dậy và lên đường đi đến vùng Giêrusalem, và khi bước vào nhà bà Êlisabét, đứa trẻ mà bà đang mang thai, nhận ra sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai, đã nhảy lên vui mừng và bắt đầu nhảy múa như vua Đavít đã nhảy trước Hòm Bia (x. Lc 1:39-45).

Khi đó, Đức Maria được trình bày như Hòm bia giao ước thực sự, giới thiệu Chúa nhập thể vào thế giới. Mẹ là Trinh nữ trẻ đến gặp người phụ nữ già cả son sẻ và khi đem Chúa Giêsu đến, Mẹ trở thành dấu chỉ cuộc viếng thăm của Thiên Chúa vượt qua mọi tình trạng vô sinh. Mẹ là Mẹ đi lên vùng núi Giuđa để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đang ra đi tìm kiếm chúng ta bằng tình yêu của Người, để chúng ta có thể nhẩy mừng vì hân hoan. Chính Thiên Chúa đang lên đường!

Nơi hai người phụ nữ này, Đức Maria và bà Êlisabét, cuộc viếng thăm nhân loại của Thiên Chúa được mạc khải. Một người trẻ và một người già, một người là trinh nữ và một người son sẻ, thế mà cả hai đều đang mang thai một cách “không thể nào có được”. Đây là công việc của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta; Người làm cho những điều dường như bất khả trở thành khả hữu, Người tạo ra sự sống ngay cả trong tình trạng vô sinh.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy thành thật tự hỏi mình từ đáy lòng: Chúng ta có tin rằng Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có tin rằng Chúa, bằng những cách thức ẩn giấu và thường không thể đoán trước, hành động trong lịch sử, thực hiện những điều kỳ diệu và đang làm việc ngay cả trong những xã hội của chúng ta vốn bị đánh dấu bởi chủ nghĩa duy tục trần thế và một sự thờ ơ tôn giáo nào đó không?

Có một cách để nhận biết liệu chúng ta có lòng tin cậy nơi Chúa hay không. Cách nào? Tin Mừng kể rằng “vừa khi bà Êlisabét nghe lời chào của Đức Maria thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà” (c. 41). Đây là dấu hiệu: nhảy lên vì vui mừng. Bất cứ ai tin, ai cầu nguyện, ai chào đón Chúa đều nhảy múa trong Chúa Thánh Thần, và cảm thấy có điều gì đó đang chuyển động bên trong và “nhảy múa” trong niềm vui. Tôi muốn tập trung vào điều này: bước nhảy vọt của đức tin.

Kinh nghiệm đức tin, trước hết và trên hết, gợi lên một bước nhảy mừng nào đó trước cuộc sống. Nhảy có nghĩa là “được chạm vào bên trong”, có sự rung động bên trong, cảm thấy có điều gì đó đang chuyển động trong trái tim chúng ta. Điều này trái ngược với một trái tim phẳng lặng, lạnh lùng, quen với cuộc sống lặng lẽ, bị bao bọc trong sự thờ ơ và trở nên không thẩm thấu. Một trái tim như vậy trở nên chai cứng và vô cảm với mọi sự và mọi người, thậm chí cả việc loại bỏ sự sống con người một cách bi thảm, điều ngày nay được thấy trong việc từ chối nhiều người nhập cư, vô số trẻ chưa sinh và người già bị bỏ rơi. Một trái tim lạnh lùng, phẳng lặng kéo cuộc sống trôi theo một cách máy móc, không có đam mê, không có động lực, không có ham muốn. Trong xã hội châu Âu của chúng ta, một người có thể bị bệnh vì tất cả những điều này và phải chịu đựng sự hoài nghi, vỡ mộng, cam chịu, bất an và một nỗi buồn toàn diện – tất cả những điều này cùng với nhau: nỗi buồn, nỗi buồn ẩn giấu trong trái tim con người. Có người đã gọi những khuynh hướng này là “niềm đam mê buồn bã” và được tìm thấy ở những người không “nhảy mừng trước cuộc sống”.

Mặt khác, những ai sinh ra trong đức tin đều nhận ra sự hiện diện của Chúa, giống như hài nhi trong bụng bà Êlisabét. Họ nhận ra công việc của Người khi mỗi ngày ló dạng và nhận được những con mắt mới để nhìn thực tại. Ngay cả giữa những khó khăn, vấn đề và đau khổ, mỗi ngày họ nhận ra việc Thiên Chúa viếng thăm giữa chúng ta và cảm thấy được Người đồng hành và nâng đỡ. Đứng trước mầu nhiệm cuộc sống và những thách thức của xã hội, những người có đức tin đều có một bước nhảy, một niềm đam mê, một ước mơ để vun đắp, một mối quan tâm thôi thúc họ dấn thân một cách bản vị. Bây giờ mỗi người chúng ta có thể tự hỏi: tôi có cảm nhận được những điều này không? Tôi có những thứ này không? Những người như thế biết rằng Chúa hiện diện trong mọi sự, kêu gọi và mời gọi họ làm chứng cho Tin Mừng với lòng hiền lành, để xây dựng một thế giới mới, bằng cách sử dụng những hồng ân và đặc sủng họ đã nhận được.

Ngoài việc giúp chúng ta có thể nhảy mừng khi đối diện với cuộc sống, kinh nghiệm đức tin còn buộc chúng ta phải nhảy về phía người lân cận. Thật vậy, trong mầu nhiệm Thăm Viếng, chúng ta thấy rằng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa không diễn ra qua những biến cố ngoại thường thiên giới, nhưng qua sự đơn sơ của một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến trước cửa một gia đình, trong cái ôm dịu dàng giữa hai người phụ nữ, trong sự gắn kết qua lại của hai lần mang thai đầy ngạc nhiên và hy vọng. Ở đó chúng ta thấy sự quan tâm của Đức Maria, sự ngạc nhiên của bà Êlisabét và niềm vui của việc chia sẻ.

Chúng ta hãy luôn nhớ điều này trong Giáo Hội: Thiên Chúa có tương quan và thường xuyên đến thăm chúng ta qua những cuộc gặp gỡ giữa con người với nhau, khi chúng ta biết cách cởi mở với người khác, khi trong chúng ta có một “sự khuấy động” ủng hộ những người đi ngang qua chúng ta hàng ngày, và khi trái tim chúng ta không thờ ơ và vô cảm trước những vết thương của người mong manh. Các thành phố lớn của chúng ta và nhiều quốc gia Châu Âu như Pháp, nơi các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau cùng hiện hữu, là một lực lượng mạnh mẽ chống lại sự thái quá của chủ nghĩa cá nhân, tính ích kỷ và sự bác bỏ vốn tạo ra sự cô đơn và đau khổ. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu cách động viên để giúp đỡ những người sống gần chúng ta. Chúng ta hãy học nơi Đấng động lòng thương xót trước một đám đông mệt mỏi và kiệt sức (x. Mc 6:34) và “nhảy mừng với lòng thương xót” trước thân xác bị thương tích của những ai Người gặp. Như một trong những vị thánh vĩ đại của anh chị em, Thánh Vincent de Paul, đã khuyên nhủ, “vì vậy, chúng ta nên làm mềm lòng mình và khiến chúng nhận thức được những đau khổ và khốn khổ của người lân cận chúng ta. Chúng ta nên cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta tinh thần thương xót, vốn chính là Thần Khí của Thiên Chúa,” đến mức nhận ra rằng người nghèo là “chúa và chủ của chúng ta” (Correspondance, entretiens, Documents, Paris 1920-25, 341; 392-393).

Thưa anh chị em, tôi nghĩ đến nhiều “sự khuấy động” ở Pháp, với lịch sử phong phú về sự thánh thiện và văn hóa; những nghệ sĩ và nhà tư tưởng đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ. Ngày nay cũng vậy, cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của Giáo hội, nước Pháp và châu Âu đang cần điều này: ân sủng của một bước nhảy vọt, một bước nhảy vọt mới trong đức tin, bác ái và hy vọng. Chúng ta cần khơi dậy niềm đam mê và nhiệt huyết của mình, đánh thức lại ước muốn dấn thân cho tình huynh đệ. Chúng ta cần một lần nữa liều lĩnh yêu thương gia đình mình và dám yêu thương những người yếu đuối nhất, đồng thời tái khám phá trong Tin Mừng ân sủng biến đổi làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp.

Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, người đã tự gây khó khăn cho mình khi bắt đầu một cuộc hành trình và là người dạy chúng ta rằng đây là đường lối của Thiên Chúa: Người làm phiền chúng ta, khiến chúng ta chuyển động và làm cho chúng ta “nhảy mừng”, tương tự như kinh nghiệm của bà Êlisabét. Chúng ta muốn trở thành những Kitô hữu gặp gỡ Thiên Chúa trong lời cầu nguyện và là anh chị em của chúng ta trong tình yêu; Những Kitô hữu nhảy mừng, rung động và đón nhận ngọn lửa của Chúa Thánh Thần và sau đó để cho mình được đốt cháy bởi những câu hỏi của thời đại chúng ta, bởi những thách thức của Địa Trung Hải, bởi tiếng kêu của người nghèo – và bởi “những điều không tưởng thánh thiện” của tình huynh đệ và hòa bình đang chờ được thực hiện.

Thưa anh chị em, cùng với anh chị em, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ de la Garde, xin Mẹ gìn giữ cuộc sống của anh chị em, bảo vệ nước Pháp và bảo vệ toàn thể Châu Âu, và xin Mẹ khiến chúng ta nhảy mừng trong Chúa Thánh Thần. Tôi muốn dâng lời cầu nguyện này bằng những lời của Paul Clau-del: “Con thấy nhà thờ mở cửa…. Con không có gì để cung hiến và không có gì để yêu cầu. Lạy Mẹ, con đến, chỉ để nhìn Mẹ thôi. Để nhìn Mẹ, để khóc vì hạnh phúc, khi biết rằng con là con của Mẹ, và Mẹ đang ở đó….Ôi Maria, được ở bên Mẹ, được ở nơi Mẹ đang ở….Vì Mẹ luôn ở đó…Đơn giản vì Mẹ là Maria … Đơn giản vì Mẹ hiện hữu… Mẹ của Chúa Giêsu Kitô, tạ ơn Mẹ (“Đức Trinh Nữ vào buổi trưa”, Poëmes de Guerre 1914-1916, Paris, 1992).

_________________________________________

Từ giã lúc kết thúc Thánh lễ

Tôi xin cảm ơn Đức Hồng Y vì những lời nói của ngài và tôi xin cảm ơn tất cả anh chị em vì sự hiện diện và những lời cầu nguyện của anh chị em: xin cảm ơn!

Bây giờ đã kết thúc chuyến thăm này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn về sự đón tiếp nồng nhiệt mà tôi đã nhận được, cũng như về tất cả công việc và sự chuẩn bị đã diễn ra trong chuyến thăm này. Tôi xin cảm ơn Tổng thống nước Cộng hòa và qua ông, tôi gửi lời chào thân ái tới tất cả mọi người nam nữ nước Pháp. Tôi chào Thủ tướng đã đến đón tôi tại sân bay và tôi cũng chào các nhà chức trách có mặt, đặc biệt là Thị trưởng Marseille.

Tôi ôm lấy toàn thể Giáo hội Marseille, với các giáo xứ và cộng đồng tôn giáo, vô số cơ sở giáo dục và các tổ chức từ thiện của nó. Tổng giáo phận này là tổng giáo phận đầu tiên trên thế giới được thánh hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, trong trận dịch hạch bùng phát vào năm 1720. Vì vậy, trong tâm hồn anh chị em, chính là dấu hiệu của tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, ngay cả giữa “đại dịch thờ ơ" ngày nay. Cảm ơn anh chị em vì sự phục vụ dịu dàng và tận tâm của anh chị em, làm chứng cho sự gần gũi và lòng cảm thương của Chúa!

Một số anh chị em đã đến đây từ nhiều vùng khác nhau của nước Pháp: merci à vous (cám ơn anh chị em]! Tôi xin chào các anh chị em từ Nice, cùng với Đức Giám Mục và Thị trưởng của họ. Tôi nhớ lại cuộc tấn công khủng khiếp ngày 14 tháng 7 năm 2016, trong đó anh chị em là những người sống sót. Chúng ta hãy cầu nguyện tưởng nhớ tất cả những người đã thiệt mạng trong thảm kịch đó, cũng như trong tất cả các hành động khủng bố đã xảy ra ở Pháp và ở mọi nơi trên thế giới. Khủng bố là hèn nhát. Chúng ta đừng mệt mỏi cầu nguyện cho hòa bình ở những vùng bị chiến tranh tàn phá, đặc biệt là cho người dân Ukraine bị chiến tranh tàn phá.

Tôi gửi lời chào chân thành tới các bệnh nhân, trẻ em và người già, những người là ký ức của nền văn minh. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người đang gặp khó khăn và tất cả những người lao động ở thành phố này: Jacques Loew, linh mục công nhân đầu tiên của Pháp, một công nhân tại cảng Marseille. Cầu mong phẩm giá của người lao động được tôn trọng, thăng tiến và bảo vệ!

Anh chị em thân mến, tôi sẽ ghi nhớ những cuộc gặp gỡ của những ngày này trong trái tim mình. Xin Đức Bà de la Garde trông coi thành phố này, một thành phố vốn là một bức tranh ghép hy vọng, cho tất cả các gia đình và mỗi người trong anh chị em. Je vous bénis. S'il vous plaît, n'oubliez pas de prier pour moi. Ce travail n’est pas facil! Merci [Tôi chúc lành cho anh chị em. Làm ơn, đừng quên cầu nguyện cho tôi. Công việc của tôi không dễ dàng! Cảm ơn anh chị em].