Ngày 14-05-2021
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Được chọn để sinh hoa trái
Lm. Minh Anh
01:53 14/05/2021
ĐƯỢC CHỌN ĐỂ SINH HOA TRÁI
“Chính Thầy đã chọn các con, và cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái”. Được chọn để sinh hoa trái

Kiến trúc sư Christopher Wren đang giám sát công trình xây dựng một nhà thờ tráng lệ ở London. Một nhà báo nghĩ rằng, sẽ rất thú vị khi phỏng vấn một số công nhân; anh chọn ba người để phỏng vấn với cùng một câu hỏi, “Bạn đang làm gì?”. Người thứ nhất nói, “Tôi cắt đá để kiếm mỗi ngày 10 bảng, đủ uống bia!”; người thứ hai, “Tôi khuân vác 10 giờ mỗi ngày, đủ nuôi vợ con!”; người thứ ba nói, “Tôi đang xây nhà cho Thiên Chúa trên trần gian này! Đây là một trong những nhà thờ lớn nhất London; và sẽ còn giúp Ngài xây dựng nhiều đại giáo đường khác trên thế giới”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Sẽ chọn”, “Đã chọn” và “Được chọn” là động từ then chốt liên kết các bài đọc của phụng vụ Lời Chúa trong ngày Giáo Hội kính thánh Matthia tông đồ hôm nay. “Chính Thầy đã chọn các con, và cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái”. Thật thú vị! Như vậy, với Chúa Giêsu, những ai được Ngài chọn, thì không phải để kiếm mỗi ngày ‘10 bảng’ đủ để uống bia, hoặc để ‘lo cho gia đình’; hoặc khá hơn, để làm kiểng; hay tệ hơn, để ra cằn cỗi. Nhưng họ là những người “được chọn để sinh hoa trái”.

Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay cho biết, sau bội phản và cái chết của Giuđa, các môn đệ họp lại để khôi phục con số “12 Tông Đồ”. Trong Thánh Kinh, con số “12” có ý nghĩa sâu sắc; vì vậy, Giuđa phải được thay thế. Tại đó, “Phêrô đứng lên giữa anh em”, đưa ra một tiêu chí khá bất ngờ; rằng, phải chọn một ai đó “Đã đi cùng với chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta cho đến ngày Ngài lên trời”; “Để cùng với chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại”. Họ đề cử hai người, “Giuse, tức Barsabba, biệt danh là ‘Công Chính’, và ông Matthia”. Đoạn họ cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa”; “Rồi họ bỏ thăm và Matthia trúng thăm, ông được kể vào số với mười một tông đồ”. Thật ý nghĩa, “một tông đồ”, lần đầu tiên có người kế vị! Như vậy ‘việc bổ nhiệm’ giám mục trực tiếp do Phêrô đã được thiết lập chỉ vài ngày sau khi Chúa Giêsu lên trời; đây là cách thức duy trì ‘tính liên tục và kế thừa’ của Giáo Hội vốn sẽ được lặp lại và vẫn được lặp lại hàng vạn lần trong lịch sử Kitô giáo. Đó cũng là lý do lễ thánh Matthia được đặt ngay sau lễ Chúa Thăng Thiên.

Việc Matthia được chọn cho chúng ta nhiều chi tiết thú vị. Phêrô, các tông đồ và khoảng 120 tín hữu khác đưa ra hai ‘candida’; họ muốn sự lựa chọn của con người hài hoà với sự lựa chọn của Thiên Chúa. Họ không chỉ tự hỏi, “Chúng ta nên chọn ai?”, mà là “Chúa sẽ chọn ai?”. Ứng viên sáng giá số một, Barsabba, biệt danh là ‘Công Chính’, rồi mới đến Matthia. Vậy mà sau khi cầu nguyện, bàn hỏi với Chúa; Matthia lại được Chúa chọn. Barsabba, được tiếng là ‘công chính’ trong cái nhìn thế gian, nhưng lại không ‘lọt mắt xanh’ của Chúa!

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác định, “Chính Thầy đã chọn các con”. Một lần nữa, sự lựa chọn của Chúa đối với các môn đệ, ưu tiên hơn sự lựa chọn của họ về Ngài. Chúa Giêsu cũng đang nói điều đó với mỗi người chúng ta, ‘Ta đã chọn con!’. Sự lựa chọn của Chúa trước tất cả. Đúng thế, chúng ta chọn Chúa, nhưng lựa chọn của chúng ta chỉ là đáp trả lựa chọn của Ngài; nói cách khác, Thiên Chúa tìm kiếm chúng ta trước, việc chúng ta kiếm tìm Ngài chỉ là sự đáp lại việc Ngài đang tìm kiếm mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta trước và việc chúng ta yêu Ngài là sự đáp lại tình yêu của Ngài mà thôi. Trong tương giao với con người, chúng ta có thể chọn ai đó để làm bạn, nhưng không thể chắc chắn, họ sẽ chọn chúng ta; đang khi trong kết giao với Chúa, chúng ta biết chắc, Chúa chọn chúng ta làm bạn, “Thầy gọi các con là bạn hữu”, dù không có gì bảo đảm cho Ngài rằng, chúng ta sẽ chọn Ngài như Ngài đã chọn chúng ta; Ngài chỉ thiết tha, mong ước được như vậy.

Anh Chị em,

Chúa chọn Matthia vào chỗ khuyết để làm nền móng toà nhà Hội Thánh, “Chúa cho ông ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Ngài” như Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ. Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa cũng chọn mỗi người chúng ta theo khả năng, đấng bậc của mình không phải để ‘lo cho bản thân’, ‘lo cho gia đình’ nhưng là ‘lo xây nhà cho Chúa ở trần gian’. Như Matthia, chúng ta được chọn không phải vì tình cờ, nhưng được chọn trong chương trình và kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa; được chọn cho một mục đích đời đời, cho một sứ mạng cao cả, chứ không phải cho những gì tầm thường ở đời này. Vì thế, Ngài cắt đặt để chúng ta có mặt trên trần gian này, trong một thời gian và không gian cố định, để chúng ta đi, mang lại hoa trái như ý Ngài. Muốn được như vậy, mỗi người phải luôn hỏi Chủ mình, ‘Con phải làm gì để đi đúng chương trình và kế hoạch của Chúa? Con phải làm gì để sinh hoa trái cho Nước Trời?’. Rõ ràng, trong mọi đấng bậc, chúng ta ‘được chọn để sinh hoa trái’ chứ không phải được chọn để ‘đi ra đi vào’ vốn được gọi là ‘bạo lực với chính mình’ trong những ngày ở nhà; hoặc để làm kiểng trong các lễ nghi; hay tệ hơn, ra cằn cỗi.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con luôn ý thức ơn gọi cao quý của mình, con ‘được chọn để sinh hoa trái’ chứ không được chọn để ra cùn mằn”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Quê hương chúng ta ở trên trời
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
02:00 14/05/2021
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Quê hương chúng ta ở trên trời
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông Đồ miêu tả biến cố này như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11).

Có thể nói rằng đây là sự miêu tả bên ngoài của biến cố. Thánh Phaolô trong bài đọc II nói đến ý nghĩa ẩn dấu bên trong của biến cố này. Theo ngài, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1,22). Như thế, lễ Lên Trời cử hành sự đăng quang vinh hiển của Chúa Kitô như là Chúa của hoàn vũ.

1- Lên trời nghĩa là gì?

Trong biến cố này, lời nhắc nhở của hai thiên thần mặc áo trắng làm chúng ta nhớ đến những lời của những người vô thần thường nói với các Kitô hữu: “Sao các ông còn đứng nhìn trời?” Thật vậy, triết gia Hegel đã từng mỉa mai rằng: “Người Kitô hữu đã hoang phí những kho tàng quý báu ở dưới đất khi mải mê hướng về trời.” Karl Mark cũng cho rằng: “Các Kitô hữu đã phỏng chiếu lên trời những khao khát không được thỏa mãn của họ ở dưới đất này.” Vì thế, thánh lễ hôm nay thúc đẩy chúng ta suy tư về việc “hướng về trời.” Đây là một hạn từ được các bài đọc Kinh Thánh nói tới.

Triết gia Platon, một trong những người thầy vĩ đại nhất của nhân loại, đã nói về ý nghĩa thiêng liêng của trời. Ông để lại vũ trụ quan của mình qua dụ ngôn về cái hang. Platon hình dung loài người là một đoàn người tù nhân bị trói chặt trong một hang động u tối. Họ quay mặt vào vách tường ở dưới đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới được Platon cho là Chân, Thiện, Mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ tốt lành mà ông gọi là thế giới các Ý Tưởng (Ideas). Theo ông, tất cả các ý tưởng đều tuyệt đẹp, vĩnh cửu và bất biến. Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể nhận biết tất cả những ý tưởng đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một bản sao một số ý tưởng để mang vào hang cho loài người xem. Chúng giống như những con rối hay búp bê, được làm bằng vật liệu nào đó, chúng thực là những con rối, nhưng không phải là cái thực của hình mẫu lý tưởng. Để cho mọi người trong hang nhìn thấy chúng, các thần đốt lửa đằng sau để chiếu bóng của con rối lên bức tường. Nhờ ánh sáng mà người ta thấy được bóng của các con rối.

Như thế, theo Platon, thế giới vĩnh hằng với các ý tưởng chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên. Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, đối tượng được các thần sao chép từ các ý tưởng. Thế giới của các cái bóng những con rối là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người. Platon nói rằng đây là điều kiện của con người chúng ta ở trong thế giới. Thế giới này chỉ là một hang. Những điều mà chúng ta tin rằng là thực chỉ là bóng của thực tại ở đằng kia, ở trên trời. Chúng là sự bắt chước của thực tại trên trời. Vì thế, cần phải thoát khỏi thân xác là ngục tù nhốt chúng ta trong thế giới vật chất với những ảo tưởng, để “thoát khỏi hang tối” mà nhận biết thực tại đích thực. Vì thế, Platon hiểu rằng trời là quê hương vĩnh cửu của con người, chứ không phải là một không gian địa lý nào đó xa xôi trong vũ trụ này. Trời có ý nghĩa hoàn toàn khác, ở ngoài không gian và thời gian. Ông gọi đó là “thế giới của các ý tưởng” hay thế giới bên kia.

Danh họa Raffaello đã tóm tắt một cách tuyệt hảo ý tưởng của Platon trong một bức tranh nổi tiếng gọi là “Trường Athens.” Trong đó, chúng ta thấy hai nhà triết gia vĩ đại cổ, một Platon và một Aristotes, đại diện cho hai thái độ đối lập nhau. Với bàn tay chỉ xuống dưới, Aristotes nói rằng thực tại là ở trên mặt đất và sự hiểu biết của chúng ta phải khởi đi từ những sự vật mà chúng ta thấy và đụng chạm; còn Platon với ngón tay chỉ lên trời lưu ý rằng thực tại ở trên cao, trên trời.

Ngày hôm nay, tất cả chúng ta ít nhiều là những người theo Aristotes, ai cũng có cái nhìn và chú ý đến trần gian. Chúng ta cần bổ túc bởi cái nhìn của Platon.

Nếu chúng ta sống tình yêu mang tính “platonist,” nghĩa là tình yêu này có tính thiêng liêng hơn, hướng thượng hơn và lý tưởng hơn, lúc đó, cả trong tình yêu, tình yêu của chúng ta có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn. Bởi lẽ, chúng ta thấy rằng mối nguy hiểm lớn nhất là hạ giá tình yêu khi chỉ giảm thiểu nó ở trong phạm vi thuộc thể lý, cảm xúc và tính dục.

2- Sự khác biệt của Kitô giáo về trời


Có những đoạn Kinh Thánh xem ra như phác họa lại khuôn mẫu của Platon để nhìn các sự vật như được miêu tả từ dụ ngôn cái hang. Nhân vật trong bức tranh của Raffaello với ngón tay chỉ về trời chính là hình ảnh rất đẹp về thánh Phaolô khi ngài nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).

Như vậy, Đức tin Kitô giáo có phải là một dạng cập nhật tư tưởng Platon chăng? Đức Giêsu đến không mang lại gì mới mẻ chăng? Không, chúng ta phải nói rằng có một sự khác biệt nền tảng; trời trong mạc khải Kitô giáo không phải là trời như Platon quan niệm. Kitô giáo không quan niệm thế giới theo sơ đồ không gian trên/dưới, hoặc trên cao/dưới thấp, nhưng với lược đồ thời gian hiện tại/tương lai. Khi chúng ta nói về trời, chúng ta không hiểu rằng đó là một không gian ở trên chúng ta, nhưng là một biến cố trước mặt chúng ta, hướng về biến cố đó chúng ta tiến bước. Biến cố này chính là sự trở lại vinh quang của Chúa Kitô, sự trở lại lần thứ hai (parusia) là “trời mới đất mới.”

Đó là lý do tại sao hai thiên thần nhắc nhở các Tông Đồ không hướng nhìn lên trời mà phải hướng về sự trở lại của Chúa Kitô: “Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” Liên quan đến điều này, thánh Phaolô nói: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Kinh Thánh nói rằng: “Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai” (Hr 13,14).

Có ai đó sẽ nói: “Nhưng đâu có gì khác biệt?” Quả thật, có sự khác biệt lớn lao! Đối với cái nhìn của Platon, thế giới này không còn giá trị của nó. Thế giới này là một cái hang, nghĩa là một nhà tù. Nên ông dùng hai từ trong tiếng Hy Lạp khi nói: thân xác (soma) là một ngôi mộ (sema). Hãy chạy trốn, thoát khỏi thế giới này. Không có ơn cứu độ nơi thân xác và thế giới, nhưng chỉ khi con người rời khỏi thân xác và thế giới này mới có ơn cứu độ.

3- Hướng về sự trở lại của Chúa Kitô

Đối với người Kitô hữu không như thế, Kitô giáo không phải theo nhị nguyên luận như Platon. Thân xác không chỉ đơn giản là “phương tiện” hoặc là “tù ngục” cần phải trốn thoát. Thân xác con người được Thiên Chúa tiền định để tham dự vinh quang phục sinh với linh hồn. Sự phục sinh và sự lên trời của Đức Kitô minh chứng cho chúng ta chân lý này. Chúng ta được hạnh phúc “trong chính thân xác mình,” như đức tin đảm bảo điều đó cho chúng ta. Cuộc gặp gỡ với Chúa Đấng sẽ đến và “ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23), Người chính là “trời, là thiên đàng đối với người Kitô hữu chúng ta.”

Hơn nữa, nếu thế giới này thuộc về Thiên Chúa, được tạo dựng bởi Người, thì nó cũng được cứu độ (x. Rm 8,19), do đó, chúng ta không được tách khỏi vận mệnh thế giới, nhưng đóng góp để gìn giữ và xây dựng thế giới này đẹp hơn, tốt hơn và nhân bản hơn. Chúng ta có bổn phận phải làm cho những điều kiện sống ở đời này tốt hơn. Đức tin dạy chúng ta khi trông chờ Đức Kitô đến và hướng về tương lai không cho phép chúng ta an nhiên tự tại trong sự lười biếng hay bỏ bê bổn phận xây dựng xã hội trần thế. Thời gian được ban cho chúng ta để “làm điều thiện cho mọi người” (Gl 6,10) như thánh Phaolô dạy. Vì thế, “không được lãng phí những kho báu dưới đất khi hướng về trời.”

Nếu trời đối với chúng là “Chúa đến,” như thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức, bởi vì Người đang đến lúc này trong phép Thánh Thể, trong người nghèo, trong người đau khổ, cô đơn. Chúng ta hãy tỉnh thức để đón Chúa đến với cặp mắt không chỉ nhìn lên, nhưng còn phải biết nhìn xuống để nhận ra Chúa nơi anh chị em của mình. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
 
Chúa lên Trời mở chân trời mới
Lm. Nguyễn Xuân Trường
04:35 14/05/2021
CHÚA LÊN TRỜI MỞ CHÂN TRỜI MỚI

Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất thấp mà còn vươn tới tận trời cao. Đạo Chúa không chỉ giới hạn ở 1 quốc gia mà mở ra cho toàn thiên hạ.

1. Phận người vươn tới trời cao. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế làm người. Thế rồi, con người Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là tin mừng vĩ đại cho loài người: Thân phận con người từ nay không dừng lại nơi đất thấp, mà vươn tới trời cao. Chúa mở ra cho toàn thể loài người một chân trời hy vọng được hưởng sự sống vinh quang đời đời trên trời. Phận người không phải là an nghỉ nơi huyệt mộ trong lòng đất, nhưng là vui sống hạnh phúc trên trời với Thiên Chúa. Phải chăng vì thế mà Chúa đã tạo dựng con người trong tư thế: Đầu đội trời, chân đạp đất. Sống nơi đất thấp, nhưng con người lại luôn hướng lên trời cao. Đất cho ta sinh sống, nhưng Trời mới cho ta lẽ sống.

2. Đạo Chúa lan tỏa thiên hạ. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, thì Đạo Chúa mới chỉ giới hạn ở 1 quốc gia, nhưng khi Chúa lên trời, thì Đạo Chúa đã mở ra toàn thiên hạ khi Ngài truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Như vệ tinh cần phải bay lên trời thì mới phủ sóng rộng toàn cầu, Chúa Giêsu lên trời cũng phủ sóng Tin Mừng khắp thế giới. Vệ tinh trên trời cần các thiết bị dưới đất tiếp nhận tín hiệu rồi truyền sóng, Chúa lên trời cũng cần các môn đệ của Ngài truyền sóng Tin Mừng, ra đi làm chứng nhân cho Chúa. Hãy ra đi lan tỏa Đạo Chúa khắp thiên hạ.

Và như thế, không phải đợi sau khi chết chúng ta mới được về trời với Chúa, mà ngay khi đang sống dưới đất chúng ta cũng đã được vui hưởng niềm vui Nước Trời khi loan báo và làm chứng Tin Mừng yêu thương. Bởi vì, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:35 14/05/2021

29. Con bằng lòng sống vì thiên đàng để đem hạnh phúc cho trần gian.

(Thánh Terese of Avila)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


------------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:37 14/05/2021
45. CÁI LƯỠI TO CỦA CON RÙA

Có người ngồi rửa gan heo bên cái giếng, vì không cẩn thận nên để một cái gan heo rơi xuống giếng, có một con rùa nhìn thấy liền nhảy lên đớp, nhưng vì gan heo thì lớn mà miệng rùa thì nhỏ, nên con rùa ngậm để gan heo thò ra ngoài miệng.

Có người khác thấy vậy thì kinh ngạc la to:

- “Mau đến coi, cái lưỡi của con rùa to ơi là to !”

(Tiếu Đắc Hảo)

Suy tư 45:

Ở nước ngoài, những đoạn đường nào có xe lửa chạy ngang, mặc dù có hàng chắn tự động mỗi khi xe lửa sắp chạy qua và chuông báo, nhưng người ta vẫn viết ba chữ to tướng để cảnh báo người chạy xe: dừng, nhìn, nghe.

Dừng lại để nhìn cho rõ và nghe cho kỷ.

Trong cuộc sống đời thường cũng thế, nếu ai cũng biết dừng đúng lúc khi không cần thiết, thì sẽ hạn chế được nhiều điều đáng tiếc xảy ra; nếu ai cũng biết để ý nhìn người bên cạnh đang cần gì nơi mình để giúp đỡ, thì hàng xóm, cộng đoàn sẽ đầy tình thân ái và rộn rã tiếng cười vui; nếu ai cũng biết lắng nghe tiếng nói của nhau trong tinh thần xây dựng, thì cuộc sống sẽ chan hòa những ý vị tình người.

Chỉ mới nhìn thấy cái vật to nơi miệng con rùa mà đã la toáng là lưỡi con rùa quá to, thì đúng là người nông nỗi hàm hồ…

Người Ki-tô hữu nhờ luôn suy tư Lời Chúa mà biết dừng đúng lúc, biết nhìn thánh ý của Thiên Chúa qua biến cố, biết nghe Lời của Ngài qua hoàn cảnh để sống đẹp ý Ngài hơn, đó là người khôn ngoan vậy.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


------------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Chúa nhật lễ Đức Chúa Giê-su Lên Trời
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:39 14/05/2021
LỄ ĐỨC CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI

Tin Mừng: Mc 16, 15-20.

“Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.”


Bạn thân mến,

Theo quy luật tự nhiên có hợp thì có tan, có tan rồi mới có hợp, sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Chúa Giê-su đã ở với các tông đồ khoảng bốn mươi ngày rồi lên trời trước mặt các ông. Trong tâm tình hy vọng sẽ có ngày lên trời với Đức Chúa Giê-su, tôi xin chia sẻ với bạn ba suy tư sau đây:

1. Đức Chúa Giê-su lên trời: dọn chỗ cho chúng ta.

Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, và Ngài chính là đầu của thân thể mầu nhiệm ấy. Đầu (Đức Chúa Ki-tô) hiện tại đang ở trên thiên đàng, và Thân Thể (Giáo Hội) hiện đang trên đường lữ thứ ở trần gian, và chung cuộc sẽ được sum họp với Đầu trên thiên đàng.

Đức Chúa Giê-su đã lên trời trước mặt các môn đệ, không phải lên trời trước những ống kính camera của thời hiện đại, nhưng trước những con mắt xác thịt và con mắt đức tin của các môn đệ. Con mắt xác thịt của các môn đệ chỉ nhìn thấy Đức Chúa Giê-su lên trời và không còn thấy Ngài nữa trong đám mây bao phủ, nhưng con mắt đức tin của các ngài thì vẫn cứ thấy Đức Chúa Giê-su lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha, và quan trọng hơn, nhờ con mắt đức tin mà các tông đồ an tâm ở lại, vì các ngài biết rằng Chúa đã lên trời trước để dọn chỗ cho những kẻ tin vào Ngài, trong đó có bạn và tôi.

2. Chúa Giê-su lên trời: để Đấng an ủi đến.

Như người mẹ sắp đi xa đã chuẩn bị tất cả cho con cái ở nhà: thức ăn thức uống, áo quần mặc, các thứ cần thiết để người mẹ an tâm đi xa mà con cái ở nhà cũng không thiếu gì. Đức Chúa Giê-su cũng vậy, Ngài đã chuẩn bị tâm hồn cho các môn đệ của mình đón nhận Chúa Thánh Thần là Đấng được sai đến nhân danh Ngài, để Chúa Thánh Thần ở với các tông đồ và Giáo Hội của Ngài cho đến tận thế.

Đức Chúa Giê-su không ở lại với các môn đệ của mình bằng thể lý hình hài thân xác, nhưng ở lại với các tông đồ và Giáo Hội trong bí tích Thánh Thể và nơi Đấng an ủi, vì Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ, khai trí và ban sức mạnh cho các tông đồ, để các ngài hiểu rõ những lời dạy của Đức Chúa Giê-su mà chu toàn trách nhiệm mà Ngài đã ủy thác cho khi Ngài lên trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo...” Sứ mệnh này sẽ không được thực hiện và hoàn thành, nếu không có Đấng an ủi và là chân lý đến và ở với Giáo Hội cho đến ngày Chúa Giê-su lại đến lần thứ hai trong vinh quang của Thiên Chúa.

3. Chúa Giê-su lên trời: niềm hy vọng của chúng ta.

Đức Chúa Giê-su đã lên trời, đó là niềm hy vọng lớn nhất của bạn và tôi, cũng như của tất cả những ai tin vào Ngài, niềm hy vọng này được tỏa lan từ nơi cuộc sống đầy yêu thương và phục vụ tha nhân của bạn và tôi. Vì niềm hy vọng sẽ được lên trời ấy, mà bạn và tôi làm những điều lành và tránh những điều ác; vì niềm hy vọng ấy mà bạn và tôi luôn yêu mến và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình, bởi vì nếu không mang một niềm hy vọng lớn lao ấy, thì bạn và tôi cũng sẽ như bao người trẻ khác sống hưởng thụ, ích kỷ, mưu mô, ghét ghen, kiêu ngạo.v.v...

Giáo Hội sống trong niềm hy vọng đợi chờ ngày Chúa Giê-su lại đến, nhưng Giáo Hội cũng sẽ không bỏ mặc cho sự dữ hoành hành trên những con người mà Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc họ, do đó mà Giáo Hội vẩn luôn mời gọi con cái mình –những người Ki-tô hữu- dù sống trong một xã hội nhiều bất công và khốn khó, thì vẫn cứ luôn hy vọng ngày Chúa Giê-su lại đến, để được kết hợp với Ngài luôn mãi.

Bạn thân mến,

Mừng lễ Đức Chúa Giê-su lên trời là niềm vui mừng và hy vọng.

Vui mừng là vì Chúa Giê-su đã sống lại thật và hiện hữu, để từ nay Ngài không còn phải chết nữa; hy vọng là vì sự phục sinh và lên trời của Ngài là hứa hẹn một đời sống hạnh phúc bất diệt mai sau, khi bạn và tôi từ giã cõi đời này.

Để được lên trời với Đức Chúa Giê-su, thì ngay từ bây giờ, bạn và tôi cần phải thực hành mệnh lệnh truyền giáo của Ngài: hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Tin Mừng mà bạn và tôi rao giảng không phải là Tin Mừng của thế gian, nhưng là của Nước Trời. Do đó mà bạn và tôi, cũng như những người Ki-tô hữu khác phải đem hết tâm hồn và trí óc để sống Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Chuyển giao thông điệp cứu độ
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
21:53 14/05/2021


(Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 7 phục sinh, theo thánh Mác-cô 16,15-20)

Đối với chúng ta hôm nay, gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử, chỉ cần soạn thư vào điện thoại hay máy tính, rồi nhấn vào phím gửi… thế là bức thư sẽ được chuyển đi đến nơi ta muốn, trong một vài giây!

Thế nhưng vào thời trước đây, khi ngành Bưu chính Việt Nam chưa phát triển chuyển một bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân.

Chuyển giao sắc chỉ nhà vua

Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau khi tiếp nhận sắc chỉ của nhà vua, tức tốc lên ngựa phóng nước đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho nhà trạm kế tiếp. Người lính ở nhà trạm nầy, khi vừa tiếp nhận sắc chỉ được mang tới, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn để chuyển giao cho nhà trạm tiếp theo…

Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn gian khổ, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở có lắm thú dữ hoành hành, để chuyển giao nhanh chóng sắc chỉ đến tay người nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giê-su

Trước khi về trời, Chúa Giê-su long trọng trao cho các Tông đồ sứ mạng loan báo Tin mừng cho toàn thế giới. Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mác-cô 16, 15).

Tin mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật thiết đến phần rỗi, đến số phận đời đời của nhân loại như lời Chúa Giê-su nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mác-cô 16, 16).

Tin mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.

Tin mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.

Sau khi tiếp nhận sứ điệp Tin mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù, xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin mừng cho người Do-Thái cũng như cho dân ngoại.

Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin mừng do các tông đồ truyền lại, đã nỗ lực chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.

Chuyển giao Tin mừng là sứ mệnh cấp bách

Hôm nay, Chúa Giê-su và Hội thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.”

Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa muốn lên đường làm trách nhiệm người “lính trạm” của Chúa Ki-tô.

Lạy Chúa Giê-su,

Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận niềm hạnh phúc do Tin mừng mang đến; nhiều dân tộc phải sống trong thù nghịch, trong cảnh huynh đệ tương tàn, vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin mừng cung cấp… đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin mừng cho họ mà chúng con vẫn nhắm mắt làm ngơ!

Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận sứ điệp Tin mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những “người lính trạm” của Chúa… thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả lời với Chúa sao đây?

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
 
Hội Thánh tại gia
Lm. Minh Anh
21:57 14/05/2021
HỘI THÁNH TẠI GIA

“Khi Priscilla và Aquila nghe Apollô, liền đón anh về nhà; trình bày cặn kẽ hơn cho anh biết đạo Chúa”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi chúng ta dừng lại nhiều hơn với bài đọc Công Vụ Tông Đồ hôm nay, để mục kích những công việc của Chúa Thánh Linh trong thời phôi thai của Hội Thánh; qua đó, chúng ta chiêm ngắm một hình ảnh tuyệt vời đầy dấu ấn Thánh Thần của cái được gọi là ‘Hội Thánh tại gia’, vốn cũng là các tế bào đầu tiên làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Hội Thánh của Ngài.

Và sẽ bất ngờ hơn, khi hai nhân vật chính lại là ‘cặp đôi Priscilla và Aquila’ mà không ít người sẽ cảm thấy rất thú vị, khi biết đôi bạn này là hai vị thánh đầu tiên sống đời đôi bạn với nhau của Giáo Hội; chỉ sau gia đình Thánh Gia và trước cả song thân Louis & Zélie của chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.

Công Vụ Tông Đồ hôm nay lại nêu gương sáng của đôi bạn này; qua đó, một lần nữa, kỳ diệu thay công việc của Chúa Thánh Thần! Priscilla và Aquila quan tâm đặc biệt đến một tín đồ tên là Apollô, một tín hữu “nhiệt tâm rao giảng và siêng năng dạy những điều về Chúa Kitô, mặc dầu anh chỉ biết phép rửa của Gioan”.

Vừa nghe tin Apollô đến Êphêsô, Priscilla và Aquila đã đón anh về nhà, như đã từng đón Phaolô một năm rưỡi. Priscilla và Aquila đã hướng dẫn thêm cho Apollô về đức tin, “trình bày cặn kẽ hơn cho anh biết đạo Chúa”; hai người đã trở thành ‘giảng viên giáo lý’ của anh ấy. Kết quả là, Apollô có thể rời Êphêsô để đến với giáo đoàn Côrintô; ở đó, anh đã trở thành một nhà giảng thuyết hùng hồn, bênh vực đạo Chúa, vì anh rất lợi khẩu; “Anh đã giúp các tín hữu rất nhiều”.

Do hậu quả của đại dịch và việc chúng ta không thể tụ họp trong nhà thờ, thì ‘nhà thờ tại gia’ hay ‘Hội Thánh tại gia’ đã trở nên ‘nóng sốt’ khi Chúa Thánh Thần luôn sáng tạo để đốt lửa yêu mến trong tâm hồn các tín hữu. Khi chúng ta quy tụ tại nhà thờ giáo xứ, thì đó là sự quy tụ của tất cả các ‘Hội Thánh tại gia’; cả những người sống một mình cũng là ‘Hội Thánh tại gia’ vì mầu nhiệm Hội Thánh thông công. Khi các gia đình, các cộng đoàn tụ họp để thờ phượng, chia sẻ Lời Chúa, dạy giáo lý… thì chính họ, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, đang đào tạo và hỗ trợ đức tin cho nhau. Sẽ rất bất ngờ ở đây, khi sự thật là, Giáo Hội của Chúa Kitô không có một ngôi nhà thờ nào mãi cho đến thế kỷ thứ tư; nghĩa là, hơn 300 năm, Giáo Hội không có bóng dáng một ngôi nhà thờ nào! Vì thế, theo một nghĩa nào đó, Hội Thánh Chúa đã bắt đầu hình thành từ các gia đình, cộng đoàn, cái được gọi là ‘Hội Thánh tại gia’. Các thành viên phục vụ lẫn nhau tại nhà riêng, ở gia đình, và cả bên ngoài ngôi nhà của họ. Đó là những gì được thấy nơi những con người như Priscilla và Aquila mà các thư Phaolô nhắc đến rất nhiều lần. Chính sự hoạt động của Thánh Thần trên những gia đình này, mà muôn dân nhận biết “Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian” như Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thổ lộ.

Trong một bài huấn dụ, Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha, Đấng đã làm cho các đôi vợ chồng trở thành “những tác phẩm điêu khắc sống động thực sự” của Ngài; xin Ngài tuôn đổ Thánh Linh trên tất cả các đôi vợ chồng Kitô giáo theo gương Aquila và Priscilla, để họ biết mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô và cho anh chị em mình, biến căn nhà của họ thành các ‘Hội Thánh tại gia’, nơi họ sống hiệp thông và trao tặng ‘một nền phụng tự sự sống’, vốn ‘được sống bằng đức tin, đức cậy và đức mến’. Hãy cầu khẩn với hai vị thánh dệt lều Aquila và Priscilla này, xin các ngài dạy cho các gia đình cách thức để nên giống họ, nơi có “đất tốt”, để đức tin được phát triển”.

Tôi biết rất rõ một gia đình không bao giờ bỏ đọc kinh sáng, tối. Kinh sáng, họ dâng ngày vắn tắt; nhưng kinh tối, họ lần chuỗi, đọc trọn Lời Chúa của ngày hôm sau và thỉnh thoảng hát một bài. Ngày kia, chủ nhà, ông cụ 95 tuổi trở bệnh, phải đi điều trị; đang khi đợi xe, ông hỏi, “Đọc kinh sáng chưa?”; con cái thưa, “Dạ chưa!”. Vậy là ông bảo thắp đèn bàn thờ, đọc kinh, mặc cho xe đứng đợi. Đứa cháu nội nhỏ của ông bảo, “Ông nhớ nội bà, nên ngày nào cũng đọc kinh cầu cho linh hồn nội bà”. Và đó cũng là buổi kinh gia đình cuối cùng của ông. Đi bệnh viện, ông đã đi theo bà về chầu Chúa!

Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói, “Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn vẹn”. Thì có lẽ hơn bao giờ hết, trong những ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều có thể cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan để nhận ra cách thức Ngài kêu gọi chúng ta phục vụ lẫn nhau trong Hội Thánh Ngài; xin Ngài ban ơn can đảm và lòng quảng đại để chúng ta bắt đầu lại từ trong gia đình mình, cũng là một ‘Hội Thánh tại gia’; nhờ đó, chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn Chúa hứa. Tại sao không?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho gia đình con trở nên một cộng đoàn ‘muối men’, ‘cầu nguyện, yêu thương, hiệp nhất và có Chúa ở cùng’; hầu trở nên một ‘Hội Thánh đẹp xinh’ giữa lòng thế giới hôm nay”, Amen.

(Tgp. Huế)

Kính mời Anh Chị em nghe bài hát “Là Muối Là Men”, một sáng tác của người viết, ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=u7Y-4sU-qy0
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin vui giữa giờ tuyệt vọng của Giáo Hội tại Nigeria
Đặng Tự Do
16:43 14/05/2021


Như chúng tôi đã đưa tin, các Giám mục Nigeria đã kêu gọi tổng thống Muhammadu Buhari từ chức. Diễn biến này xảy ra sau khi Kitô hữu ở nước này ngày càng tỏ ra bất mãn với vị tổng thống Hồi Giáo mà họ tin rằng đang mượn tay các nhóm khủng bố Hồi Giáo để tận diệt Kitô Giáo qua hàng loạt các vụ tấn công vào các nhà thờ Công Giáo, các cộng đồng Kitô hữu của hai nhóm khủng bố Hồi Giáo Boko Haram và Fulani. Bên cạnh đó còn có hàng loạt các vụ bắt cóc tống tiền nhắm vào các linh mục và giáo dân.

Thủ đoạn của hai nhóm khủng bố Hồi Giáo Boko Haram và Fulani là gây án trên đất Nigeria và sau đó rút qua vùng biên giới với Chad, Niger và Cameroon.

Quân đội của Chad đã tuyên bố chiến thắng vào hôm Chúa Nhật trong trận chiến kéo dài nhiều tuần với quân Hồi Giáo.

Đám đông ở thủ đô N'Djamena đã hò reo vào Chúa Nhật khi những người lính trở về từ tiền tuyến trong một dàn xe tăng và xe bọc thép.

Xung đột và bất ổn chính trị rộng hơn đang được theo dõi chặt chẽ. Chad là một cường quốc chủ chốt ở Trung Phi và là đồng minh lâu năm của phương Tây chống lại các tay súng Hồi giáo trên khắp vùng Sahel.

Tổng thống Idriss Déby đã giành được chiến thắng trong mọi cuộc bầu cử tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm từ 1991 đến nay. Tổng cộng, ông đã lãnh đạo Chad trong 31 năm qua. Ngày 19 tháng Tư vừa qua, ông được tái cử nhiệm kỳ thứ sáu. Thay vì đọc diễn văn nhân dịp được tái cử, ông ra tiền tuyến thăm các binh sĩ và bị trúng đạn vào hôm Chúa Nhật 18 tháng Tư. Ông được chuyển về thủ đô nhưng đã chết hôm 20 tháng Tư, chỉ một ngày sau khi được tuyên bố thắng cử.
Source:Reuters
 
Ý công bố thiết kế công nghệ cao cho sàn của hí trường Côlôsêô
Đặng Tự Do
16:44 14/05/2021


Được xây dựng cách đây 2,000 năm, đấu trường Côlôsêô là hí trường lớn nhất trong đế chế La Mã. Nó từng có tới 70,000 chỗ ngồi và là nơi tổ chức các cuộc chiến đấu, hành quyết và săn bắt động vật của các đấu sĩ. Nó cũng có thể chứa đầy nước để tái hiện các trận chiến trên biển.

Bên dưới lòng đất của đấu trường là các phòng nơi cư ngụ của các đấu sĩ, những người bị hành quyết – trong đó có một số không nhỏ các vị tử đạo trong thời kỳ sơ khai, và những chuồng nuôi các loại dã thú.

Đến thế kỷ 19, lớp đất bên trên bị sụp xuống để lộ ra các phòng ốc bên dưới như chúng ta thấy ngày nay.

Đấu trường Côlôsêô cổ đại một lần nữa sẽ có một sàn bên trên các phòng ốc này nhờ một dự án công nghệ cao mới được Bộ văn hóa công bố vào Chúa Nhật.

“Đây là một dự án đặc biệt”, Bộ trưởng Văn hóa Dario Franceschini nói, trong khi mô tả chi tiết kế hoạch tạo ra một sàn linh hoạt để cung cấp cho khách du lịch một ý tưởng rõ ràng về cách đấu trường này hoạt động, và có một tầm nhìn như các đấu sĩ, những người đã chiến đấu cho đến chết ở đó.

“Bạn sẽ có thể đi bộ trên đó và đi đến trung tâm của đấu trường La Mã, nhìn thấy nó trong cùng một cách như du khách có thể thấy cho đến cuối thế kỷ 19”, Franceschini nói.

Một công ty kỹ thuật của Ý, Milan Ingegneria, đã giành được hợp đồng trị giá 18.5 triệu euro (tức là 22.2 triệu đô la) để thiết kế sàn mới và đã cam kết hoàn thành dự án vào năm 2023.

Sàn gỗ sẽ được tạo thành từ hàng trăm thanh gỗ có thể xoay để đưa ánh sáng tự nhiên vào các căn phòng dưới lòng đất.

Đấu trường La Mã là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Ý, thu hút khoảng 7.6 triệu du khách vào năm 2019, trước khi coronavirus tấn công.
Source:Reuters
 
Cha Weinandy nhận định: Cho rằng Tiến Trình Công Nghị Đức không hướng tới sự ly giáo là đánh lừa rất nhiều người
Đặng Tự Do
16:45 14/05/2021


Một thần học gia Công Giáo nhận định rằng thật là “ngu ngốc” khi phủ nhận rằng những gì Tiến Trình Công Nghị Đức đang tìm cách thay đổi không phải là ly giáo.

Cha Thomas Weinandy, OFM, đưa ra bình luận trên sau khi Giám mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, nhấn mạnh rằng người Công Giáo Đức không phải là “những kẻ ly giáo” đang tìm cách “tách mình ra khỏi Rôma với tư cách là Giáo hội quốc gia Đức”.

Cha Weinandy, một cựu thành viên của Ủy Ban Thần Học Quốc Tế của Vatican nhận định: “Cho rằng Tiến Trình Công Nghị Đức không hướng tới sự ly giáo là đánh lừa rất nhiều người”.

“Rõ ràng là Tiến Trình Công Nghị Đức đang đề xuất những thay đổi trong giáo huấn của Giáo hội có thể coi là lạc giáo. Điều đó không thể bị phủ nhận, và thật ngu ngốc nếu nói khác đi”.

Giám Mục Bätzing lập luận trong một cuộc phỏng vấn ngày 6 tháng 5 rằng Giáo hội ở Đức vẫn gắn bó với Rôma bất chấp những căng thẳng về việc chúc lành đồng giới, việc cho người Tin lành rước lễ và Tiến Trình Công Nghị”.

Giám Mục Bätzing cũng đã phát biểu một ngày trước cuộc biểu tình chống Tòa Thánh vào ngày 10 tháng 5 ở Đức để phản đối việc Vatican gần đây nói “không” với việc chúc lành cho các cặp đồng tính.

Cha Weinandy, trước đây từng là giám đốc điều hành của Ủy Ban Giáo lý của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, nói rằng những lời của Giám Mục Bätzing là cực kỳ mâu thuẫn.

Cha Weinandy cho rằng: “Giám mục Bätzing nói rằng ngài muốn phát triển Huấn quyền với những lập luận đúng đắn. Tuy nhiên, những gì ông đề xuất làm cơ sở cho các lập luận phát triển đúng đắn này lại mâu thuẫn và không nhất quán về mặt thần học và huấn quyền”

“Các chân lý cơ bản của đức tin và luân lý không tương thích với những gì mà Tiến Trình Công Nghị Đức đề xuất, chẳng hạn như sự chúc phúc cho các kết hiệp đồng tính luyến ái. Bất kỳ suy tư thần học nào đề xuất khác đi đều là sai lầm”.

Vị linh mục dòng Phanxicô Capuchin nói thêm rằng cụm từ “những kết quả mới nhất của khoa học nhân văn,” thường Giám Mục Bätzing nhắc đến, “thường chỉ là cố gắng chống chế của những kẻ xu thời”.

Ngài cũng cho rằng cụm từ “hoàn cảnh sống của con người ngày nay” thường được Giám mục Bätzing và các Giám Mục Đức khác viện dẫn là vô nghĩa.

“Luôn luôn có những kẻ gian dâm, hoặc sống trong hoàn cảnh ngoại tình, hoặc có hành vi đồng tính luyến ái. Sự khác biệt là nhiều người ngày nay, bao gồm cả các giám mục như Giám mục Bätzing, muốn chúc lành cho các hoạt động tình dục ấy như thể những hành vi đó không còn là tội lỗi nữa, nhưng chúng đang và sẽ luôn là tội lỗi”, vị linh mục dòng Phanxicô Capuchin nói với CNA hôm 8 tháng Năm.

“Vì vậy, dù Giám mục Bätzing sử dụng các cụm từ mang lại một vẻ ngoài thông thái và uyên bác tuyệt vời, chúng chỉ đơn thuần là trống rỗng, và thường lừa dối, dù 'nghe có vẻ kêu'".
Source:Catholic News Agency
 
Đức Hồng Y José Tolentino de Mendonça chủ sự lễ kỷ niệm 104 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima
Đặng Tự Do
17:46 14/05/2021
Một vị Hồng Y đã cử hành thánh lễ tại đền thờ Fatima của Bồ Đào Nha hôm thứ Năm 13 tháng 5 nói rằng thế giới cần một sự “tái khởi động về tinh thần” cũng như sự tái thiết kinh tế sau đại dịch.

Giảng về ngày lễ Đức Mẹ Fatima ngày 13 tháng 5, Đức Hồng Y José Tolentino de Mendonça, nhà lưu trữ và thủ thư của Hội Thánh Rôma, nói rằng sự phục hồi tài chính toàn cầu đòi hỏi một sự phục hưng tâm linh đi kèm.

Ngài nói: “Ở ngã rẽ lịch sử hiện tại này, chúng ta không thể cho phép sự hồi sinh của hy vọng chỉ tương hợp với mối quan tâm đối với các biểu hiện vật chất của cuộc sống. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một nhu cầu cấp bách về cung cấp lương thực, và nhiệm vụ cấp bách này, về cơ bản là một trong những yếu tố trong công cuộc tái thiết kinh tế, phải đoàn kết và huy động xã hội của chúng ta”.

“Nhưng các xã hội của chúng ta cũng cần một sự tái khởi động về tinh thần. Chúng ta không thể sống được nếu không có lương thực, nhưng chúng ta không thể sống chỉ nhờ lương thực. Những khoảnh khắc khủng hoảng sâu sắc nhất luôn được vượt qua bằng cách khởi động một tâm hồn mới, đề xuất những con đường hoán cải nội tâm và tái tạo tinh thần cho cuộc sống chung của chúng ta. Đây là thông điệp của Fatima, vào năm 1917 xa xôi đó, khi thế giới chìm trong cuộc chiến tranh hóa học đầu tiên trong lịch sử và là một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất”.

Vị Hồng Y 55 tuổi người Bồ Đào Nha đã giảng trong một thánh lễ tại Đền thờ Đức Mẹ Fatima vào dịp kỷ niệm ngày 13 tháng 5, năm 1917 khi ba đứa trẻ chăn cừu - Lucia dos Santos, Francisco và Jacinta Marto - đã nhìn thấy Đức Mẹ lần đầu tiên.

Hướng đến một cộng đoàn ít ỏi những người hành hương do những hạn chế vì coronavirus, Đức Hồng Y nói: “Đức Trinh Nữ đã yêu cầu gì đối với nhân loại, thông qua những trẻ chăn cừu trẻ tuổi này? Thưa: cầu nguyện, sám hối và hoán cải, tức là những phương tiện cụ thể để tái thiết nội tâm”.

Khi ngài giảng, các linh mục và khách hành hương ngồi cách xa nhau bên trong các vòng tròn được đánh dấu làm thành một hàng dài, trong khi các làn gió mát thổi qua đền thánh Đức Mẹ Fatima.

Khi gió giật tung áo lễ của mình, vị Hồng Y lưu ý rằng ngày thứ Năm 13 tháng 5 cũng là ngày đánh dấu 40 năm mưu toan ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại quảng trường Thánh Phêrô.

Một năm sau khi vụ việc xảy ra, vào ngày 13 tháng 5 năm 1982, vị Giáo Hoàng Ba Lan đã đến Bồ Đào Nha để tạ ơn Đức Mẹ Fatima đã cứu sống ngài.

Đức Hồng Y nói: “Cách đây ba mươi chín năm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chủ tọa Bí tích Thánh Thể này 'để tạ ơn Chúa Quan Phòng tại nơi này mà Mẹ Thiên Chúa dường như đã chọn một cách đặc biệt' để mạng sống của ngài đã được cứu trong cuộc tấn công một năm sau đó ở quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma. Và lời kêu gọi của Đức Gioan-Phaolô II là: người ta nên nhận ra ở Fatima việc chuẩn bị cho một thời điểm thiêng liêng mới”.

Đề cập đến thông điệp mới nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô, Fratelli tutti, vị Hồng Y nói rằng việc tái thiết sau đại dịch sẽ đòi hỏi một ý thức sâu sắc về tình huynh đệ.

Ngài nói: “Thế giới, đã kiệt quệ bởi đại dịch vẫn đang tiếp diễn này, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải cảnh giác và có trách nhiệm, không chỉ đói và khát cuộc sống bình thường trở lại: nhưng chúng ta cần những tầm nhìn mới, những ngữ pháp khác, chúng ta cần biết chấp nhận rủi ro để có ước mơ”.

“Đặc biệt với những người trẻ, và cách riêng là những người trẻ Bồ Đào Nha đang chuẩn bị chào đón Ngày Giới trẻ Thế giới vào năm 2023, tôi muốn nói từ Fatima: thay vì sợ hãi, hãy có những ước mơ. Hãy khám phá rằng Chúa là đồng minh của những giấc mơ đẹp nhất của các bạn. Hãy dám mơ về một thế giới tốt đẹp hơn. Hãy nhận ra rằng tương lai phụ thuộc vào phẩm chất và tính nhất quán của những giấc mơ của các bạn”.

Ngài nói tiếp: “Và cuối cùng, tôi hướng về các bạn, những người hành hương thân mến. Và tôi muốn nói với bạn rằng tôi cảm thấy không chỉ gần gũi với tất cả các bạn, mà còn thực sự coi tôi là một trong số các bạn. Thông điệp của Fatima, nhìn từ bên ngoài, có vẻ được định dạng và khắc khổ. Và nhiều người, chỉ nhìn thấy bề mặt của ngôi đền, chỉ thấy biểu hiện kịch tính của bao nhiêu giọt nước mắt, những yêu cầu và những lời hứa. Nhưng những người hành hương đến Fatima trải nghiệm rằng tại đây còn có nhiều điều hơn thế nữa”.

Đề cập đến bài đọc Tin Mừng trong Thánh Lễ, trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan Chương 19, từ câu 25 đến câu 27, được công bố bằng nhiều thứ tiếng, ngài nói: “Điều chúng ta cảm nghiệm là chúng ta đến đây bồn chồn, trống vắng, chia rẽ, không thể hòa giải hoặc khát khao, đến nỗi chúng tôi đến đây đầy hoang mang giống như Người Con hoang đàng, và Đức Maria đã lấp đầy chúng ta - với lòng thương xót, với sự ngọt ngào khó quên - với mệnh lệnh yêu thương mà Mẹ đã nhận được từ Chúa Giêsu: 'Hỡi bà, này là con bà,' đây là con cái của Đức Mẹ”.

Vào năm 2020, lễ kỷ niệm ngày 13 tháng 5 hàng năm tại đền thờ Fatima lần đầu tiên diễn ra mà không có sự hiện diện của những người hành hương do các hạn chế liên quan đến COVID-19.

ACI Digital đã tường trình rằng cuộc hành hương kỷ niệm quốc tế năm nay tại Fatima đã bắt đầu vào tối thứ Tư với chuỗi hạt Mân Côi và một đám rước dưới ánh nến khi tượng Đức Mẹ Fatima được rước từ Nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra đến Nhà cầu nguyện ngoài trời

Đức Hồng Y Mendonça, một nhà thơ và nhà thần học đã nhận được chiếc mũ Hồng Y vào năm 2019, sau đó đã chủ trì Phụng Vụ Lời Chúa trước sự chứng kiến của khoảng 7,500 người hành hương.

Vào tối thứ Năm, Đền thờ Đức Mẹ Fatima đã tổ chức cuộc marathon cầu nguyện toàn cầu cho đại dịch sớm kết thúc. Chuỗi Mân Côi, với ý hướng cầu nguyện cho tất cả các tù nhân, đã được phát trực tiếp vào lúc 5 giờ chiều, giờ địa phương trên trang web của đền thờ và kênh YouTube Vatican News.

Kết thúc bài giảng của ngài, Đức Hồng Y Mendonça nói: “Chúng ta, những người hành hương luôn đến Fatima tay không. Nhưng từ Fatima, chúng ta mang theo sự thức tỉnh trong chúng ta một giấc mơ. Fatima dạy chúng ta cách chiếu sáng một thế giới chìm trong bóng tối. Có thể là thế giới nhỏ của trái tim chúng ta, có thể là trái tim của thế giới rộng lớn”.

“Cảm ơn Đức Mẹ vì đã biến nơi này thành đòn bẩy của nhân loại chúng ta. Một phòng thí nghiệm không có cửa hay tường, luôn rộng mở để hy vọng! Trong anh chị em, chúng ta ngợi khen Chúa là Đấng cứu chuộc chúng ta khỏi mọi yếu đuối”.
Source:Catholic News Agency
 
Fatima: Tóm lược những điều người Công Giáo nên biết về biến cố Đức Mẹ hiện ra năm 1917
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
17:53 14/05/2021
Fatima là sự kiện Đức Mẹ hiện ra phổ biến và nổi tiếng nhất trong lịch sử gần đây của Giáo Hội Công Giáo.

Hơn một trăm năm trước, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với ba đứa trẻ chăn cừu trên một cánh đồng ở Fatima, Bồ Đào Nha. Đức Mẹ đưa ra những yêu cầu về việc đọc kinh Mân Côi, hy sinh cầu thay nguyện giúp cho những người tội lỗi, và một bí mật liên quan đến số phận của thế giới.

Mọi giám mục địa phương kể từ đó đã công nhận các cuộc hiện ra và cho rằng chúng đáng được tin tưởng. Đó là sự công nhận cao nhất mà một cuộc hiện ra của Đức Mẹ có thể nhận được từ Giáo hội.

Nhà nghiên cứu về phép lạ Michael O'Neill nói với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, rằng các lần hiện ra Fatima có thể được coi là “tiêu chuẩn vàng cho các lần hiện ra của Đức Mẹ”.

“Nó có mọi thứ bạn từng muốn tìm kiếm khi Đức Mẹ hiện ra. Nó có những bí mật, những lời tiên tri... bạn cũng có một ngày lễ trong lịch Phụng Vụ chung, sự chấp thuận của giám mục địa phương, và của mọi Đức Giáo Hoàng sau đó, các thị nhân được tuyên thánh và nhà thờ được xây dựng, vì vậy tất cả các dấu hiệu của một cuộc hiện ra của Đức Mẹ đều ở đó”. O'Neill đã ghi lại các chi tiết về Fatima, các lần hiện ra khác của Đức Mẹ và tất cả những điều kỳ diệu trên trang web của ông, miraclehunter.com.

Năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm địa điểm hiện ra vào ngày 12 đến 13 tháng 5, kỷ niệm 100 năm lần hiện ra đầu tiên của Đức Mẹ ở Fatima. Chuyến thăm bao gồm việc tuyên thánh cho hai trong số những thị nhân trẻ tuổi, là những người đã chết chỉ vài năm sau khi được thị kiến.

Mặc dù hơn 100 năm đã trôi qua, “những thông điệp của Fatima ngày nay vẫn phù hợp như những gì chúng có vào năm 1917”, O'Neill nói.

“Bản chất của thông điệp là một lời kêu gọi hoán cải và đó là điều quan trọng trong cuộc sống của chúng ta ở thời hiện đại, hệt như khi Đức Mẹ Maria hiện ra vào năm 1917. Đó là một cơ hội tuyệt vời để chúng ta rà soát lại lòng sùng kính, và tái kết hợp lòng sùng kính ấy vào cuộc sống của chúng ta ngày nay”.

Bối cảnh lịch sử

Năm 1917, đất nước Bồ Đào Nha, giống như hầu hết phần còn lại của thế giới, rơi vào chiến tranh.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khắp Âu Châu, Bồ Đào Nha nhận thấy mình không thể duy trì vị thế trung lập ban đầu và gia nhập lực lượng Đồng minh, để bảo vệ các thuộc địa ở Phi Châu và bảo vệ thương mại của họ với Anh. Khoảng 220,000 thường dân Bồ Đào Nha đã chết trong chiến tranh; hàng nghìn người do thiếu lương thực, hàng nghìn người khác do dịch cúm Tây Ban Nha.

Bên cạnh những khó khăn của chiến tranh, người Công Giáo trong nước cũng đang phải đối mặt với làn sóng chống giáo quyền mạnh mẽ.

Bắt đầu vào thế kỷ 18 dưới thời của chính khách Marquês de Pombal, làn sóng đạo chống Công Giáo lại bùng phát trở lại sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha được thành lập vào năm 1910.

Các nhà thờ và trường học Công Giáo đã bị chính quyền tịch thu, nhà nước ra lệnh cấm mặc tu phục giáo sĩ ở nơi công cộng, cấm rung chuông nhà thờ và tổ chức các lễ hội tôn giáo nổi tiếng. Trong khoảng thời gian từ năm 1911-1916, gần 2,000 linh mục, tu sĩ và nữ tu sĩ đã bị giết bởi các nhóm chống Công Giáo.

Đây là bối cảnh quốc gia Bồ Đào Nha khi Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với ba đứa trẻ chăn cừu ở Fatima vào năm 1917, và đưa ra những thông điệp về chiến tranh, hòa bình, đau khổ và sự hoán cải.

Một thiên thần báo tin Đức Maria sẽ đến

Vào mùa hè năm 1916, Lucia dos Santos, người con út trong một gia đình có bảy người con, bắt đầu chăn bầy cừu của gia đình mình cùng với ba người bạn của cô, là Teresa Matias, chị gái Maria Rosa, và Maria Justino. Trong thời gian này, một thiên thần đã hiện ra trước các cô gái ba lần khác nhau khi họ đang lần hạt Mân Côi trên cánh đồng, nhưng không nói với họ một lời nào. Mẹ của Lucia bác bỏ chuyện này vì cho là “chuyện vô lý của trẻ con”.

Một thời gian sau, Lucia đang chăn cừu với hai người em họ của mình, Francisco và Jacinta Marto. Một ngày nọ, vì háo hức chơi, lũ trẻ lần chuỗi Mân Côi vội vàng trong giờ ăn trưa của chúng bằng cách chỉ nói tên những lời cầu nguyện trên mỗi hạt.

Ngay sau khi họ bắt đầu chơi trò chơi, một thiên thần hiện ra, lần này thiên thần nói chuyện với bọn trẻ. Trong ba lần hiện ra khác nữa, thiên thần yêu cầu các em cầu nguyện và hy sinh. Thiên thần nói với họ rằng ngài là “Thiên thần Hộ mệnh của Bồ Đào Nha”, và thông báo với họ rằng Chúa Giêsu và Đức Maria có “kế hoạch của lòng thương xót” cho họ. Trong lần viếng thăm cuối cùng, ngài đã cho các em Rước Lễ.

“Điều đó khá độc đáo”, O'Neill nói. “Đã có hàng nghìn trình thuật về các thiên thần tự hiện ra; nhưng là một điều hiếm khi các ngài đến chỉ để loan báo sự hiện ra của Đức Maria”.

Lần hiện ra đầu tiên của Đức Maria

Năm sau, vào ngày 5 tháng 5 năm 1917, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 15 đã viết một bức thư mục vụ cho thế giới, xin các tín hữu dâng lên Đức Maria những lời nguyện xin tha thiết “để cảm động sự dịu dàng và lòng nhân từ chí thánh của Mẹ sao cho hòa bình có thể đạt được trong một thế giới đang bị kích động mạnh của chúng ta”.

Tám ngày sau, Đức Maria hiện ra lần đầu tiên, vào ngày 13 tháng 5, với ba đứa trẻ chăn cừu - Lucia, 10 tuổi, và hai em họ của cô, Francisco và Jacinta Marto, 9 và 7 tuổi.

Đức Mẹ hiện ra như “một quý bà mặc đồ trắng, rực rỡ hơn cả mặt trời” trên ngọn cây nhỏ trong cánh đồng trống có tên là Cova de Iria ở vùng nông thôn của thị trấn nhỏ Fatima, luôn trung thành với đức tin Công Giáo, và Đức Mẹ yêu cầu bọn trẻ quay lại chỗ cũ đó vào ngày 13 của tháng tiếp theo.

Trong khi không tiết lộ họ tên của mình ngay lập tức, người phụ nữ đã nói với bọn trẻ: “Ta đến từ Thiên đàng”. Khi được hỏi, Mẹ hứa rằng cả ba đứa trẻ sẽ được lên thiên đàng, mặc dù Francisco sẽ phải lần “nhiều tràng hạt” để đến được đó.

Ngoài ba đứa trẻ, không ai có mặt trong lần hiện ra đầu tiên; nhưng khi tin này lan rộng, đám đông tăng lên rất nhanh.

Lần hiện ra thứ hai: số phận của những đứa trẻ

Trong lần hiện ra thứ hai vào ngày 13 tháng 6, hàng chục người xem đã làm chứng rằng họ có thể nhìn thấy một đám mây phía trên một ngọn cây, nơi bọn trẻ nhìn thấy Đức Mẹ. Lần này, Đức Mẹ cho các em thấy Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, bị đâm thủng bởi những chiếc gai tượng trưng cho tội lỗi của nhân loại.

Lucia yêu cầu Đức Maria chữa lành cho một người bệnh, Đức Maria nói rằng ơn chữa lành sẽ được ban cho anh ta cùng với ơn hoán cải. Lucia một lần nữa yêu cầu Đức Maria đưa bọn trẻ lên thiên đường, và trong khi Đức Maria hứa sẽ sớm đưa Jacinta và Francisco, Mẹ nói với Lucia rằng cô còn phải ở trên trái đất “một thời gian nữa”.

“Chúa Giêsu muốn tận dụng con để làm cho danh ta được biết đến và yêu mến”, Đức Maria nói với Lucia. “Ngài muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của ta. Ta hứa ơn cứu rỗi cho những ai đón nhận điều đó, và những linh hồn đó sẽ được Chúa yêu thương như những bông hoa do ta mang đến để tô điểm cho ngai vàng của Ngài”.

Những đứa trẻ giữ bí mật về hình ảnh của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội trong một thời gian, cho đến khi Lucia trở thành một nữ tu. Đức Maria lại yêu cầu bọn trẻ quay lại vào ngày 13 của tháng sau.

Lần hiện ra thứ ba: Bí mật vĩ đại được ban cho

Vào ngày 13 tháng 7, Đức Maria tiết lộ những gì đã được gọi là “Bí mật vĩ đại” của Fatima, một bí mật mà Lucia chia thành ba phần và từ từ tiết lộ cho công chúng theo thời gian. Hai phần của bí mật được tiết lộ vào năm 1941, khi Lucia được giám mục địa phương yêu cầu ghi lại hồi ký của cô. Phần còn lại không được tiết lộ cho đến năm 2000, ban đầu là theo hướng dẫn của Đức Maria, và sau đó là hướng dẫn của Tòa thánh.

Đức Maria cũng bảo các em tiếp tục lần chuỗi Mân Côi hàng ngày, và quay lại cùng một địa điểm vào cùng ngày của tháng tiếp theo. Khi Lucia yêu cầu người phụ nữ tiết lộ danh tính của mình, Đức Mẹ lại hứa với những trẻ em rằng Mẹ sẽ tiết lộ toàn bộ bản thân vào tháng 10, và thực hiện một phép lạ vào ngày hôm đó “cho tất cả mọi người nhìn thấy và tin tưởng”.

Đức Mẹ cũng yêu cầu các em giúp đỡ những người tội lỗi: “Hãy hy sinh chính mình cho những người tội lỗi, và hãy đọc nhiều lần kinh nguyện này, đặc biệt là bất cứ khi nào các con thực hiện một sự hy sinh nào đó: Lạy Chúa Giêsu của con, đó là vì tình yêu mến Chúa, vì sự hoán cải của những người tội lỗi và để phạt tạ những tội lỗi xúc phạm Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria”.

Ngày càng đông, những người đến với trẻ em để xem cuộc hiện ra đã chứng kiến một số điều kỳ diệu trong cuộc hiện ra này. Nhiều người có thể nghe thấy một âm thanh yếu ớt khó tả, được cho là giọng nói của Đức Maria. Các nhân chứng cũng kể lại một sự thay đổi trong bầu không khí - khi Đức Mẹ hiện ra, bầu trời tối sầm lại, và không khí mùa hè nóng ẩm của Bồ Đào Nha bỗng trở nên mát mẻ và dễ chịu.

Đám đông cũng nghe thấy một tiếng sét lớn rung chuyển mặt đất vào thời điểm Đức Maria ra đi.

Lần hiện ra thứ tư: vụ bắt cóc

Tình cảm bài Công Giáo vẫn còn phổ biến trong nước, cho nên viên thị trưởng của Fatima đã tỏ ra nghi ngờ về các cuộc hiện ra ngày càng được truyền tụng trong dân gian, và đã cố gắng buộc bọn trẻ từ bỏ câu chuyện của họ, nhưng không thành công.

Vì muốn ngăn lũ trẻ nhìn thấy lần hiện ra thứ tư, Artur Santos, một người Công Giáo đã bội giáo và là một nhân vật Tam Điểm có thế lực, là thị trưởng địa phương, đã đề nghị bọn trẻ và cha mẹ chúng đi xe hơi của ông ta đến Cova vào ngày 13 tháng 8. Tuy nhiên, hắn ta đã nghĩ ra một mưu mẹo là bỏ rơi cha mẹ chúng giữa đường và chở bọn trẻ đến dinh thị trưởng ở Vila Nova de Ourem, cách cánh đồng Cova hơn 14km. Tìm cách hối lộ bọn trẻ không thành công, ông ta dọa giết chết chúng bằng dầu sôi, và hăm he sẽ nhốt chúng trong phòng giam với những tên tội phạm mặt mày dữ dằn. Tuy nhiên, những đứa trẻ cương quyết không phủ nhận câu chuyện của chúng.

Bực bội và lo sợ bị các tín hữu vốn yêu mến các cuộc hiện ra trả đũa, thị trưởng đã đưa các trẻ em trở lại Fatima sau hai ngày, khiến cha mẹ chúng hết sức vui mừng, nhẹ nhõm.

Vài ngày sau, Đức Maria hiện ra một cách riêng tư với các trẻ em, nhắc lại lời yêu cầu của Mẹ là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi hàng ngày để đền bù tội lỗi, và yêu cầu chúng trở lại vào ngày 13 của tháng tiếp theo.

Lần hiện ra thứ năm: một cột mây và một cơn mưa hoa

Thay vì làm nản lòng người xem, vụ bắt cóc vào tháng Tám đã dẫn đến một đám đông thậm chí còn lớn hơn khi Đức Mẹ hiện ra vào tháng Chín. Lần này, những dấu hiệu hữu hình về sự hiện diện của Đức Maria càng rõ rệt hơn đối với đám đông. Một số nhân chứng cho biết họ có thể nhìn thấy một quả cầu ánh sáng, và sau đó là một cột mây cao khoảng 5m bên trên ngọn cây nơi Đức Mẹ luôn hiện ra.

Nhiều người xem cũng mô tả một trận mưa rào của các vật thể nhỏ màu trắng - được cho là những bông tuyết hoặc các cánh hoa hồng - rơi từ trên trời xuống nhưng biến mất trước khi chúng chạm đất.

Đức Maria một lần nữa lặp lại lời hứa của mình với lũ trẻ rằng Mẹ sẽ trở lại vào tháng sau và sẽ nói với bọn trẻ rằng Mẹ là ai và Mẹ muốn gì, và rằng Mẹ sẽ thực hiện một phép lạ “để tất cả có thể nhìn thấy và tin tưởng”.

Lần hiện ra cuối cùng: Phép lạ Mặt trời quay

Vào ngày 13 tháng 10 năm 1917, đám đông đã lên đến 70,000 người – cả những người tin tưởng và những người hoài nghi đều tụ tập để xem lần Đức Mẹ hiện ra cuối cùng với các trẻ em ở Cova, và háo hức muốn thấy dấu hiệu từ trời mà Đức Maria đã hứa.

Đám đông bắt đầu tập trung lúc 11:30, không nhận ra rằng Đức Maria sẽ hiện ra vào buổi trưa theo mặt trời, chứ không phải vào buổi trưa theo giờ địa phương. Tuy nhiên, bọn trẻ biết khi nào Đức Maria sẽ đến. Các em đến lúc 1 giờ chiều, ngay trước 1 giờ 30 là buổi trưa theo mặt trời khi Đức Maria hiện ra.

Theo nhiều nhân chứng mô tả, một trận mưa lớn kéo dài từ đêm 12 tháng 10 đến rạng sáng ngày 13 tháng 10. Mặt đất mới được cày xới của cánh đồng Cova đã biến thành một đống bùn lầy ẩm ướt, trên đó đám đông tụ tập và chờ đợi trong hy vọng mong manh về một điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra.

Tiến sĩ Joseph Almeida Garrett, Giáo sư Khoa học Tự nhiên tại Đại học Coimbra, đã có mặt để chứng kiến điều kỳ diệu của mặt trời và đã viết lại lời kể chính mắt mình chứng kiến trong cuốn sách “Fatima in Lucia's own Words: The Memories of Sister Lucia”, nghĩa là “Fatima theo lời kể của chính chị Lucia: Hồi ức của Nữ Tu Lucia”.

Vì đến hiện trường quá sớm, mong đợi phép lạ vào buổi trưa theo giờ đồng hồ thay vì giờ mặt trời, nên anh đợi trong xe của mình, “nhìn một cách khinh bỉ về phía nơi mà họ nói sẽ có cuộc hiện ra, nơi đám đông đang phải giẫm lên mảnh đất lấm lem bùn lầy của cánh đồng mới cày”.

Cuối cùng, vào khoảng 1 giờ rưỡi, một cột khói bốc lên và biến mất xảy ra liên tục tại chỗ bọn trẻ. Những đám mây báo hiệu Đức Maria xuất hiện, và khi Mẹ đến, Lucia hỏi người phụ nữ rằng cô ấy muốn gì.

Đức Maria một lần nữa lặp lại yêu cầu của mình là lần chuỗi hàng ngày, Mẹ chính thức xưng danh tính mình và yêu cầu rằng một nhà nguyện được xây dựng tại địa điểm hiện ra để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Mẹ cũng hứa rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc và những người lính sẽ được trở về nhà. Mẹ cũng nói rằng Mẹ sẽ chữa lành cho một số người mà bọn trẻ đã xin cùng Mẹ, nhưng nói rằng mọi người phải “sửa đổi cuộc sống của họ và cầu xin sự tha thứ cho những tội lỗi của họ”.

Lucia kể lại, sau đó, Đức Mẹ Mân Côi ra đi, và hiện ra trở lại với các trẻ em, đầu tiên là với Thánh Giuse và hài nhi Giêsu, và sau đó Mẹ hiện ra với y phục phù hợp với các tước hiệu khác nhau - cụ thể là Đức Mẹ Sầu Bi, và sau đó là Đức Mẹ Núi Carmelô.

Khi đó, Đức Maria “chiếu ánh sáng của chính mình lên mặt trời”. Mưa tạnh, mây tan và bầu trời quang đãng, thu hút sự chú ý của những người đang đứng xem.

Tiếp theo là “phép lạ mặt trời nhảy múa”.

“Chúng tôi dễ dàng nhìn vào mặt trời, không làm chúng tôi chói mắt. Mặt trời dường như nhấp nháy và tắt, theo nhiều cách khác nhau. Mặt trời bắn ra những tia sáng theo nhiều hướng khác nhau và nhuộm mọi thứ bằng những màu sắc khác nhau... Điều đặc biệt nhất là mặt trời không hề làm tổn thương mắt chúng ta. Mọi thứ đều tĩnh lặng và yên tĩnh; mọi người đều nhìn lên phía trên…” Ti Marto, cha của những thị nhân Jacinta và Francisco Marto, kể lại.

O Dia, tờ báo ở thủ đô Lisbon của Bồ Đào Nha, đưa tin rằng “vào giữa trưa nắng ráo, mưa tạnh. Bầu trời có màu xám như ngọc trai, chiếu lên khung cảnh khô cằn rộng lớn một thứ ánh sáng kỳ lạ. Mặt trời có một tấm màn mỏng trong suốt để mắt có thể dễ dàng nhìn kỹ vào đó. Tông màu xám đẹp nhất của ngọc trai biến thành một tấm bạc vỡ ra khi những đám mây bị chia cắt và mặt trời bạc, được bao bọc trong cùng một thứ ánh sáng xám mỏng manh, được nhìn thấy đang quay cuồng và xoay tít trong vòng tròn của những đám mây vỡ. Mọi người kêu lên và quỳ gối xuống ngay nền đất lầy lội…”

Ngay cả tờ O Seculo, một tờ báo bài Công Giáo, của nhóm Tam Điểm ở Lisbon, cũng đã tường thuật phép lạ mặt trời nhảy múa dưới góc nhìn của tổng biên tập tờ báo, Avelino de Almedia, người đã tận mắt chứng kiến phép lạ.

Ông viết: “Người ta có thể nhìn thấy vô số người quay về phía mặt trời, hiện ra ở đỉnh cao nhất của nó, đi ra từ những đám mây”.

“Trước đôi mắt bị chói lóa của họ, mặt trời run rẩy, mặt trời chuyển động bất thường và nhanh chóng, bất chấp mọi quy luật của vũ trụ, và theo cách nói điển hình của nông dân, 'mặt trời nhảy múa'”.

Tiến sĩ Garrett nói thêm rằng mặt trời dường như “là một cơ thể sống động... Nó trông giống như một bánh xe tráng men làm bằng ngọc trai”. Anh ấy cũng nhớ lại khoảnh khắc khi mặt trời quay “một cách điên cuồng, dường như nới lỏng chính nó ra khỏi lớp nền vững chắc và tiến tới một cách đầy đe dọa trên trái đất, như thể muốn nghiền nát chúng tôi bằng sức nặng khổng lồ và rực lửa của nó. Cảm giác trong những khoảnh khắc đó thật khủng khiếp”.

Nhiều nhân chứng đã chứng thực hiện tượng mặt trời quay cuồng, nhảy múa đầy màu sắc mà tại một thời điểm dường như đang lao xuống trái đất một cách đáng sợ, với đám đông “nghĩ rằng ngày tận thế sẽ đến bất cứ lúc nào”, một nhân chứng kể lại. Sau khoảnh khắc đó, đám đông đã có lúc ướt sũng nước trong vũng bùn lầy lội phát hiện ra rằng họ đã hoàn toàn khô ráo.
Source:Catholic News Agency
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh những ngón tay cầu nguyện
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
09:04 14/05/2021
Hình ảnh những ngón tay cầu nguyện

Trước khi Chúa Giêsu trở về trời đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha cho các Môn Đệ, cho Hội Thánh những người tin theo Chúa ở trên trần gian.

"Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta.“ ( Ga 17,11)

Hình ảnh này nhắc nhớ đến sự liên kết gắn bó chăm sóc của Chúa Giêsu cho Hội Thánh, cho con người.

Khi cầu nguyện Chúa Giêsu đã hướng mắt tâm hồn lên trời cao, và có lẽ Ngài cũng chắp đôi tay hay giơ đôi tay lên cao!

Còn con người chúng ta khi cầu nguyện làm cử chỉ thế nào?

Có nhiều cung cách khác nhau tuỳ theo lòng đạo đức của mỗi người, cùng tùy theo nếp sống tình tự văn hóa thời đại nữa. Nhưng một cung cách, mà Đức Thánh Cha đương kim Phanxicô khi xưa lúc còn là Tổng giám mục Buenos Aires bên quê nhà nước Argentina đã có đề nghị cung cách cầu nguyện bằng năm ngón tay.

Kinh Thánh đã nói tới công dụng của những ngón tay trong việc gìn giữ phát triển nếp sống đạo đức tâm linh:

„Hỡi con, lời thầy, con hãy giữ,

huấn lệnh của thầy, hãy ấp ủ trong tim.

Hãy tuân giữ huấn lệnh của thầy, để cho con được sống,

hãy giữ lời thầy dạy như con ngươi mắt con.

Lời giáo huấn của thầy, hãy đeo vào ngón tay,

ghi khắc trong tâm khảm.“ ( Sách Châm Ngôn 7,1-3)

Hình ảnh một em bé chắp đôi tay đi theo cha mẹ đến đứng trước tòa Đức Mẹ hay các Thánh ở thánh đường đọc kinh Lạy Cha hay kinh Kính mừng Maria là một hình ảnh tuyệt đẹp sống động chan chứa tâm tình đạo đức hồn nhiên của một lòng trông cậy.

Và hình ảnh này cũng thấy nơi nhiều người khi lần chuỗi đọc kinh mân côi, thay vì có cỗ tràng hạt trong tay, họ vừa đọc kinh vừa lần theo 10 ngón tay nơi hai bàn tay. Như thế vừa dễ nhớ mà lại sống động giúp chú ý nhiều hơn.

Vậy những ngón tay nói lên công dụng ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh đạo đức?

Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng ban cho con người hai bàn tay, và mỗi bàn tay có năm ngón tay khác nhau, có công dụng khác nhau, có kích thước to nhỏ khác nhau. Và chúng tạo nên sự hài hòa đẹp cùng sức lực mạnh khoẻ cho thân thể con người.

- Ngón tay thứ nhất là ngón tay Cái nơi bàn tay bên phải cũng như bên trái là ngón to nhất cùng ngắn, và được sử dụng uyển chuyển nhiều nhất. Nó có sức mạnh khoẻ cứng hơn những ngón tay khác. Với ngón tay cái chúng ta có thể thu góp cầm chắc đồ vật lại.

Ngón tay cái này nhắc nhớ đến những người gần gũi thân thiết nhất, những người quan trọng cho cuộc đời chúng ta. Họ là Ông Bà, Cha Mẹ, anh chị em gia đình trong vòng họ hàng thân tộc, và cả bạn bè cùng người hàng xóm thân cận nữa.

Xin Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá càn khôn, chúc phúc lành gìn giữ che chở những người thân yêu gia đình mọi ngày trong đời sống. Vì họ là những người quan trọng thứ nhất cùng gắn bó thân thiết cho đời sống như ngón tay cái nơi bàn tay.

- Ngón tay thứ hai nơi bàn tay bên phải cũng như bên trái có tên là ngón Trỏ. Ngón trỏ đứng hàng thứ hai sát bên cạnh ngón tay cái. Với ngón tay trỏ dùng để chỉ hướng đường đi, hướng nhìn tới nơi có đồ vật… hay có khi ngón tay trỏ giơ lên cũng có ý cảnh tỉnh nhắc nhở. Khi cầm bút viết hay vật dụng như đũa ăn, dao kéo…ngón tay này được sử dụng cùng với ngón cái giúp cho vật dụng được vững chắc cùng uyển chuyển thuần nhuyễn.

Ngón tay trỏ nhắc nhớ đến những người giúp đỡ, những người dậy dỗ khai mở tâm trí chỉ bảo trong đời sống.

Kính lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá càn khôn, xin dâng cám ơn đã gửi đến cho đời sống con người những vị làm công việc đào tạo giáo dục. Họ là những người khai tâm mở mang tâm trí cho trẻ em bạn trẻ để phát triển văn hóa nghề nghiệp cho xã hội.

Cùng xin dâng lời cám ơn đã cho đời sống những người hy sinh dấn thân giúp đỡ trong xã hội. Họ là những linh mục tu sĩ nam nữ, những giáo lý viên nơi các xứ đạo lo việc phần tâm linh đạo gíao, những binh sĩ, cảnh sát, những người chiến sĩ cứu hỏa phòng chống chữa cháy hỏa hoạn gìn giữ trật tự xã hội bảo vệ quê hương quốc gia đất nước, những Y tá, bác sĩ, cứu thương trong các bệnh viện…Xin Thiên Chúa gìn giữ chúc phúc lành và ban cho họ sức khoẻ bằng an hồn xác trong nhiệm vụ hy sinh dấn thân giúp xã hội cùng con người.

- Ngón tay thứ ba ở vị trí trung tâm nơi bàn tay có tên là ngón Giữa nơi bàn tay bên phải cũng như bên trái. Ngón tay này dài nhất trong năm ngón tay.

Ngón tay giữa nhắc nhớ đến những người được người dân ủy quyền cho công việc điều hành chính trị đất nước. Họ là những Nghị sĩ Dân biểu, là những Vị trong bộ guồng máy chính phủ hành chánh, những Vị quan tòa thẩm phán, những Vị sáng lập công ty, những người điều hành nhà máy hãng xưởng kiến tạo công ăn việc làm xây dựng nền kinh tế.

Họ là những người có trách nhiệm lo cho đời sống xã hội của công có được hoà bình no ấm thịnh vượng không chỉ giới hạn trong một quốc gia đất nước, nhưng còn cho cả thế giới nữa.

Xin Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn, chúc lành ban cho họ sức khoẻ hồn xác và tài trí sự khôn ngoan cùng sự công chính trong việc kinh bang tế thế cho đời sống con người trong xã hội.

- Ngón tay thứ tư nơi hai bàn tay là ngón tay Đeo nhẫn. Ngón tay này ngắn hơn ngón giữa và gần như dài bằng ngón trỏ, nhưng lại là ngón có sức lực yếu nhất. Người nào chơi dụng cụ nhạc khí như đàn dương cầm có kinh nghiệm này rất nhiều. Vì thế phải cần tập luyện nhiều hơn. Vì ngón tay này nếu một mình nó yếu sức cùng không uyển chuyển được, nhưng phải cùng với những ngón tay khác. Vì thế, ngón tay này nhắc nhớ đến những người có đời sống yếu kém về thể xác cùng tâm trí, sống trong hoàn cảnh khó khăn về công ăn việc làm về tài chính tiền bạc vật chất. Họ cần được nâng đỡ ủi an vực dậy cho đứng vững.

Xin Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá càn khôn chúc phúc lành ban cho họ sức mạnh để họ có niềm hy vọng vươn lên cho đời sống.

- Ngón tay thứ năm là ngón tay cuối cùng nơi hai bàn tay là ngón Út. Ngón tay này nhỏ nhất trong năm ngón tay nhắc nhớ đến những gì bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, và những người sống gần kề bên cạnh gặp hoàn cảnh khó khăn nghèo khổ. Dẫu vậy chính chúng ta cũng phải nghĩ đến chính mình là người bé nhỏ trước mặt Chúa, người cần sự thương xót của Chúa.

Ngày xưa chính Chúa Giêsu Kitô đã có đời sống tự hạ từ trời cao xuống trần gian làm con người bé nhỏ hèn hạ.

Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn, trong bàn tay Chúa con người được gìn giữ che chở. Xin dâng lời cám ơn Chúa tất cả những gì tốt đẹp chúng con đã nhận được. Xin Chúa đừng xa chúng con trong những khi gặp cảnh khốn khó lo âu sợ hãi. Xin chúc phúc lành ban sức mạnh nâng đỡ chúng con mọi ngày trong đời sống. Những ngón tay nơi hai bàn tay không chỉ là cơ quan của thân thể con người có vị trí phận vụ quan trọng thiết yếu cho đời sống như Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa càn khôn đã tạo dựng cùng phú bẩm nên, nhưng chúng còn ẩn chứa hình ảnh tâm linh sâu xa.

Những hình ảnh đó giúp sống việc linh cầu nguyện trở nên cụ thể sống động và thân thiết.

Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
 
Thông Báo
7g tối thứ Bẩy 15/5, lần hạt cùng đền thánh Đức Mẹ Giêrusalem cho hòa bình và chấm dứt đại dịch
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
02:23 14/05/2021

 
VietCatholic TV
Bi thảm: Đức Cha Checchio rơi lệ nghe tin chủng sinh Việt Nam qua đời vì bị đụng xe ở New York
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
00:07 14/05/2021


Đức Cha James Checchio lên tiếng về trường hợp một chủng sinh Việt Nam bị thiệt mạng trong vụ đụng xe rồi bỏ chạy

Một chủng sinh của Giáo phận Metuchen đã thiệt mạng vào tối thứ Ba 11 tháng 5, trong một vụ đụng xe rồi bỏ chạy ở Manhattan.

Thầy Phêrô Trần Quốc Ngữ, 29 tuổi, là sinh viên thần học năm thứ nhất tại Chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội thuộc Đại học Seton Hall ở Nam Orange, New Jersey.

Thầy Phêrô Ngữ được báo cáo là đang băng qua đường East Side ở Manhattan, New York vào khoảng 10:15 tối ngày 11 tháng 5 thì bị một người tình nghi là say rượu lái xe đâm phải. Thầy Phêrô Ngữ được đưa ngay đến bệnh viện nhưng đã qua đời ngay sau đó.

Trong một tuyên bố được đưa ra hôm 12 tháng 5, Đức Cha James Checchio của Metuchen cho biết: “Bất cứ khi nào chúng ta nghe về sự mất mạng đột ngột, đặc biệt là sự mất mát của một người còn quá trẻ, chúng ta đều rất đau lòng.”

“Nhưng sự mất mát bi thảm của Thầy Phêrô - một sự mất mát rất lớn cho gia đình, cho anh em chủng sinh và cho Giáo hội địa phương của chúng ta - là vô cùng lớn và sẽ không thể chịu đựng được nếu không có đức tin Công Giáo và sự tin cậy nơi Cha Trên Trời của chúng ta, vì vậy tôi xin anh chị em hãy cùng tham gia với tôi trong lời cầu nguyện cho Thầy Phêrô, gia đình thầy và những người bị ảnh hưởng bởi mất mát khủng khiếp này”.

Người lái xe đã bỏ trốn khỏi hiện trường và bị bắt ngay trong đêm hôm đó khi chiếc xe của anh ta dính líu vào một vụ đụng xe khác.

Thầy Phêrô Ngữ sinh ra và lớn lên ở tỉnh An Giang, miền Nam Việt Nam, là một người con trong gia đình sáu anh chị em. Thầy Phêrô Ngữ đến Hoa Kỳ vào năm 2017 sau khi lấy bằng cử nhân Văn học Anh và đã từng làm giáo viên dạy tiếng Anh và giáo lý viên tại Việt Nam.

Theo giáo phận Metuchen, Thầy Phêrô Ngữ đang giúp xứ trong mùa hè tại Giáo xứ Đức Mẹ Czestochowa, South Plainfield, New Jersey; Giáo xứ Saint James the Less, Jamesburg, New Jersey; Saint Bernard thành Clairvaux, Bridgewater, New Jersey; và Giáo xứ Đức Mẹ Thăm viếng, ở New Brunswick, New Jersey.

“Trong mọi cuộc tiếp xúc của tôi với Thầy Phêrô, ngay trong lần thầy xin trở thành chủng sinh cho giáo phận của chúng ta, tôi thấy rõ ràng là thầy có một tình bạn bền chặt với Chúa Giêsu Kitô, một lòng sùng kính Thánh Thể, và một tình yêu đối với Đức Mẹ của chúng ta,” Đức Cha Checchio nói.

Đức Cha Checcio đã cử hành thánh lễ tại chủng viện ngay sau khi Thầy Phêrô Ngữ qua đời.

“Thầy là một người cầu nguyện và trung thành, vì vậy ngay cả khi phải trải qua thời gian thử thách này, tôi biết thầy ấy sẽ khuyến khích chúng ta cầu nguyện. Qua những nỗi buồn và nỗi đau của chúng ta, Đức Mẹ hiện diện với chúng ta và chắc chắn đang đồng hành với Thầy Phêrô trong vòng tay nhân hậu của Chúa Giêsu, con trai của Mẹ,” Đức Cha Checcio kết luận.
Source:Catholic News Agency
 
Tự Sắc Antiquum Ministerium thiết lập Thừa Tác Vụ Giáo Lý Viên của Đức Thánh Cha Phanxicô
Giáo Hội Năm Châu
05:13 14/05/2021

Hôm thứ Ba 11 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông thư dưới dạng Tự sắc Antiquum Ministerium, nghĩa là Thừa Tác Vụ Cổ Kính, nhằm thiết lập thừa tác vụ giáo lý viên trong Giáo Hội Công Giáo.

Tự sắc được giới thiệu trong cuộc họp báo, do Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh tái truyền giảng Tin mừng chủ tọa tại Phòng báo chí Tòa thánh.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

1. Giáo lý viên trong Hội thánh là một Thừa Tác Vụ cổ kính. Các nhà thần học thường cho rằng những ví dụ đầu tiên [về thừa tác vụ này] đã có mặt trong các bản văn Tân Ước. Sứ vụ dạy giáo lý có thể truy nguyên đến những “thầy dạy” mà Tông đồ Phaolô đã đề cập trong thư gửi cộng đoàn Côrinhtô: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao? Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả”. (1 Cr 12: 28-31).

Thánh Luca bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng cách nói rõ: “Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài Thêôphilô, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.” ( Lc 1: 3-4). Vị Thánh Sử dường như nhận thức rõ rằng các bài viết của ngài đưa ra một hình thức hướng dẫn cụ thể có thể bảo đảm chắc chắn cho những người đã được rửa tội. Về phần mình, Tông đồ Phaolô nói với các tín hữu thành Galát rằng: “Người được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình” (Gal 6: 6). Rõ ràng là văn bản này cung cấp thêm một chi tiết khác; nó đề cập đến sự hiệp thông trong cuộc sống như một dấu chỉ cho thành quả của việc dạy giáo lý đích thực.

2. Ngay từ đầu, cộng đoàn Kitô hữu được đặc trưng bởi nhiều hình thức thừa tác vụ khác nhau do những người nam và những người nữ thực hiện, là những người vâng phục công việc của Chúa Thánh Thần, đã hiến dâng cuộc đời của mình cho việc xây dựng Giáo Hội. Đôi khi, những đặc sủng mà Thánh Linh không ngừng tuôn đổ trên những người được rửa tội đã được thể hiện dưới những hình thái hữu hình và cụ thể trong công việc phục vụ trực tiếp cho cộng đồng Kitô hữu, và được công nhận như một thừa tác vụ không thể thiếu đối với cộng đồng. Tông đồ Phaolô chứng thực điều này một cách có thẩm quyền khi ngài nói rằng “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.” (1Cr 12: 4-11).

Do đó, trong truyền thống đặc sủng rộng rãi hơn của Tân Ước, chúng ta có thể thấy rằng một số người được rửa tội nhất định đã thi hành sứ vụ truyền đạt giáo huấn của các thánh tông đồ và các thánh sử dưới một hình thức hữu cơ và ổn định hơn liên quan đến các tình huống khác nhau trong cuộc sống (xem Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 8). Giáo Hội muốn nhìn nhận việc phục vụ này như là một biểu hiện cụ thể của một đặc sủng cá nhân góp phần to lớn vào việc thực thi sứ mệnh loan báo Tin Mừng của mình. Cái nhìn này về đời sống của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi tham gia vào việc truyền bá Phúc âm cũng khuyến khích Giáo Hội trong thời đại chúng ta đánh giá cao những cách thức mới khả thi để Giáo Hội luôn trung thành với lời Chúa sao cho Tin Mừng của Ngài có thể được rao giảng cho mọi tạo vật..

3. Lịch sử truyền giáo trong hơn hai thiên niên kỷ qua cho thấy rõ hiệu quả của sứ vụ các giáo lý viên. Các giám mục, linh mục và phó tế, cùng với nhiều nam nữ tu sĩ sống đời thánh hiến, đã cống hiến cuộc đời của mình cho việc hướng dẫn giáo lý để đức tin trở thành một hỗ trợ hữu hiệu cho cuộc sống của mỗi con người. Một số người trong số họ cũng tập hợp xung quanh mình những người khác trong số anh chị em của họ có cùng đặc sủng, và thành lập các dòng tu chuyên trách việc dạy giáo lý.

Chúng ta cũng không thể quên vô số anh chị em nam nữ giáo dân đã trực tiếp tham gia vào việc rao truyền Tin Mừng qua việc dạy giáo lý. Họ là những người nam và người nữ có đức tin sâu sắc, những chứng nhân đích thực của sự thánh thiện, và trong một số trường hợp, họ cũng là những người sáng lập các cộng đoàn Giáo Hội và cuối cùng chết như những người tử vì đạo. Trong thời đại của chúng ta cũng vậy, nhiều giáo lý viên có năng lực và tận tụy là những người lãnh đạo cộng đồng ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới và thực hiện một sứ mệnh vô giá là truyền bá và tăng trưởng đức tin. Hàng dài các chân phước, các thánh và các vị tử đạo là giáo lý viên đã nâng cao đáng kể sứ mệnh của Giáo Hội và xứng đáng được ghi nhận, vì nó tiêu biểu cho một nguồn tài nguyên phong phú không chỉ cho việc dạy giáo lý mà còn cho toàn bộ lịch sử linh đạo Kitô giáo.

4. Bắt đầu từ Công Đồng Chung Vatican II, Giáo Hội đã đánh giá lại tầm quan trọng của việc giáo dân tham gia vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Các Nghị Phụ Công Đồng đã nhiều lần nhấn mạnh đến nhu cầu lớn lao đối với các tín hữu giáo dân phải tham gia trực tiếp, bằng nhiều cách khác nhau tùy theo đặc sủng của họ, trong việc hình thành cộng đoàn Giáo Hội (“plantatio Ecclesiae”) và sự phát triển của cộng đồng Kitô hữu. “Cũng thế, có một đạo binh thực sự đáng khen và rất đáng thưởng công nhờ việc truyền giáo nơi Muôn Dân, đó là đạo binh các giảng viên giáo lý nam cũng như nữ; là những người đã thấm nhuần tinh thần tông đồ, họ vất vả rất nhiều để mang lại sự trợ giúp đặc biệt và hoàn toàn cần thiết cho việc bành trướng đức tin và Giáo Hội.”(xem Công Đồng Chung Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo Hội Ad Gentes, 17).

Cùng với giáo huấn quan trọng của Công đồng, cần đề cập đến sự quan tâm thường xuyên của các Đức Giáo Hoàng, các Thượng hội đồng Giám mục, các Hội đồng Giám mục và cá nhân các Giám mục, là những người, trong những thập kỷ gần đây đã góp phần vào việc đổi mới đáng kể việc dạy giáo lý. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, Tông huấn Catechesi Tradendae - Giáo Lý Trong Thời Đại Chúng Ta, Chỉ Nam Việc Dạy Giáo Lý, Hướng dẫn Tổng quát về Dạy Giáo lý và Chỉ Nam Giáo Lý gần đây, cũng như nhiều sách Giáo lý cấp quốc gia, khu vực và giáo phận, đã xác nhận tính trung tâm của một nền huấn giáo dành ưu tiên cho việc giáo dục và đào tạo liên tục các tín hữu.

5. Dù không đánh giá thấp sứ mệnh của Giám mục với tư cách là giáo lý viên chính trong Giáo phận của ngài, là nhiệm vụ mà ngài chia sẻ với linh mục đoàn của ngài, cũng không coi nhẹ trách nhiệm cụ thể của các bậc cha mẹ đối với việc đào tạo đức tin Kitô cho con cái của họ (xem Giáo luật nghi lễ Latinh, gọi tắt là CIC, số 774 §2; Giáo luật nghi lễ Đông phương, gọi tắt là CCEO, số 618), chúng ta cũng nên công nhận những người nam và nữ giáo dân cảm thấy được kêu gọi nhờ phép rửa tội của họ để hợp tác trong công việc dạy giáo lý (xem CIC số 225; CCEO số 401 và 406). Ngày nay, sự hiện diện này càng cấp thiết hơn vì chúng ta ngày càng nhận thức được nhu cầu truyền giáo trong thế giới đương đại (xem Tông huấn Evangelii Gaudium - Niềm Vui Phúc Âm, 163-168), và sự trỗi dậy của một nền văn hóa toàn cầu hóa (xem Thông điệp Fratelli Tutti, 100, 138). Điều này đòi hỏi sự tương tác thực sự với những người trẻ, đó là chưa kể đến nhu cầu phải có các phương pháp luận sáng tạo và các nguồn lực có khả năng thích ứng việc loan báo Tin Mừng với sự biến đổi truyền giáo mà Giáo Hội thực hiện. Trung thành với quá khứ và trách nhiệm với hiện tại là những điều kiện cần thiết để Giáo Hội thực hiện sứ mệnh của mình trên thế giới.

Đánh thức lòng nhiệt thành cá nhân từ phía tất cả những người đã được rửa tội và làm sống lại ý thức về lời kêu gọi của họ để thực hiện một sứ mệnh thích hợp trong cộng đồng đòi hỏi sự chú ý lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh, Đấng luôn hiện diện và sinh hoa trái (xem CIC số 774 §1; CCEO số 617). Ngày nay, Thánh Linh cũng đang kêu gọi những người nam và người nữ lên đường và gặp gỡ tất cả những ai đang chờ đợi để khám phá vẻ đẹp, sự tốt lành và chân lý của đức tin Kitô giáo. Các mục tử có nhiệm vụ hỗ trợ họ trong tiến trình này và làm phong phú đời sống của cộng đồng Kitô thông qua việc công nhận các thừa tác vụ giáo dân có khả năng đóng góp vào sự biến đổi xã hội thông qua việc “thâm nhập các giá trị Kitô vào các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế.” (Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm, 102).

6. Hoạt động tông đồ giáo dân chắc chắn là “thế tục”. Nó đòi hỏi giáo dân “tìm kiếm Nước Trời bằng cách tham gia vào các công việc trần thế và hướng dẫn chúng theo ý muốn của Thiên Chúa” (xem Công Đồng Chung Vatican II - Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31). Trong cuộc sống hàng ngày, đan xen với các mối quan hệ gia đình và xã hội, người giáo dân nhận ra rằng họ “được ban cho ơn gọi đặc biệt này: đó là làm cho Giáo Hội hiện diện và sinh hoa kết quả trong những nơi và những hoàn cảnh mà chỉ nhờ họ, Giáo Hội mới có thể trở thành muối của thế gian” (thượng dẫn, 33). Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng ngoài việc tông đồ này, “giáo dân có thể còn được mời gọi góp phần trực tiếp hơn và bằng nhiều cách vào công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm, giống như những tín hữu nam nữ đã chịu vất vả vì Chúa Kitô để giúp đỡ Tông đồ Phaolô rao giảng Phúc Âm (thượng dẫn)

Vai trò của các giáo lý viên là một hình thức phục vụ cụ thể giữa những công việc khác trong cộng đồng Kitô. Các giáo lý viên trước hết được kêu gọi trở thành chuyên gia trong công tác mục vụ truyền đạt đức tin khi đức tin phát triển qua các giai đoạn khác nhau, từ việc công bố Tin Mừng ban đầu, cho đến việc hướng dẫn nhằm trình bày cuộc sống mới của chúng ta trong Chúa Kitô, và chuẩn bị cho các bí tích khai tâm Kitô, và sau đó là việc đào tạo tiếp tục ngõ hầu mỗi người có thể giải thích về niềm hy vọng bên trong tâm hồn họ (xem 1 Pr 3:15). Đồng thời, mỗi giáo lý viên phải là một chứng nhân cho đức tin, một người thầy và một nhà khai tâm đức tin, một người bạn đồng hành và một nhà sư phạm, là người giảng dạy cho Giáo Hội. Chỉ qua cầu nguyện, học tập và tham gia trực tiếp vào đời sống của cộng đoàn, họ mới có thể lớn lên trong căn tính này cũng như trong sự chính trực và trách nhiệm mà nó đòi hỏi (x. Hội đồng Giáo hoàng về Cổ võ Tân Phúc âm hóa, Chỉ Nam Giáo lý, 113).

7. Với tầm nhìn xa trông rộng, Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã ban hành Tông thư Ministeria Quaedam - Một Số Thừa Tác Vụ - với ý định không chỉ nhằm điều chỉnh các thừa tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi (xem Tông thư Spiritus Domini – Thần Khí Chúa), mà còn khuyến khích các Hội đồng Giám mục cổ vũ cho các các thừa tác vụ khác, bao gồm thừa tác vụ Huấn Giáo. “Bên cạnh các thừa tác vụ chung cho toàn thể Giáo Hội Latinh, không có gì ngăn cản các Hội đồng Giám mục yêu cầu Tòa thánh thiết định những thừa tác vụ khác, vì những lý do cụ thể, mà các ngài cho là cần thiết hoặc rất hữu ích trong khu vực của các vị. Trong số này, ví dụ, có các tác vụ Giữ Cửa [Nhà thờ], Trừ Tà và Huấn Giáo”. Lời mời gọi khẩn thiết tương tự cũng được tìm thấy trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi - Loan Báo Tin Mừng; trong việc kêu gọi phân định các nhu cầu hiện tại của cộng đồng Kitô hữu trong sự liên tục trung thành với nguồn gốc của nó, Đức Giáo Hoàng đã khuyến khích việc phát triển các hình thức thừa tác vụ mới cho việc canh tân hoạt động mục vụ. “Những thừa tác vụ như thế, tuy có vẻ mới mẻ, nhưng gắn liền với những kinh nghiệm mà Giáo Hội đã trải qua trong suốt lịch sử. Chúng ta có thể kể đến thừa tác vụ dạy giáo lý… rất quý báu cho việc thành lập và tăng trưởng của Giáo Hội cũng như cho việc soi sáng cho những người chung quanh và cả đến những người ở xa Giáo Hội.” (Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Tông huấn Evangelii Nuntiandi – Loan Báo Tin Mừng, 73).

Chắc chắn, “ngày càng có nhiều nhận thức về bản sắc và sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội. Quả thật chúng ta có thể trông cậy vào nhiều giáo dân, mặc dù vẫn chưa đủ, những người có ý thức sâu xa về cộng đồng và trung thành tuyệt đối với các nhiệm vụ bác ái, dạy giáo lý và cử hành đức tin” (Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm, 102). Theo đó, việc tiếp nhận một thừa tác vụ giáo dân như Giáo lý viên sẽ nhấn mạnh hơn nữa đến cam kết truyền giáo thích hợp cho mỗi người đã được rửa tội, tuy nhiên, đó là một dấn thân phải được thực hiện một cách hoàn toàn “thế tục”, tránh mọi hình thức giáo sĩ hóa.

8. Mục vụ này có một khía cạnh chuyên nghiệp nhất định, được chứng minh qua Nghi thức Trao Tác Vụ, và do đó, đòi hỏi Giám mục phải có sự phân định thích đáng. Trên thực tế, đó là một hình thức phục vụ ổn định được cung cấp cho Giáo Hội địa phương phù hợp với các nhu cầu mục vụ được xác định bởi đấng bản quyền địa phương, nhưng là một hình thức được thực hiện như một công việc của giáo dân, theo yêu cầu của chính bản chất thừa tác vụ này. Thật phù hợp khi những người được gọi vào thừa tác vụ Giáo lý viên là những người nam và người nữ có đức tin sâu sắc và sự trưởng thành nhân bản, là những người tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng Kitô hữu, có khả năng chào đón người khác, quảng đại và sống một đời sống hiệp thông huynh đệ. Họ cũng cần được đào tạo phù hợp về kinh thánh, thần học, mục vụ và sư phạm để trở thành những người truyền đạt có năng lực cho chân lý đức tin và họ phải có một số kinh nghiệm trước đây về việc dạy giáo lý (xem Công Đồng Chung Vatican II, Sắc lệnh về Mục vụ của các Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 14; CIC số 231 §1; CCEO số 409 §1). Điều cần thiết là họ phải là những người cộng tác trung thành với các linh mục và phó tế, chuẩn bị thi hành chức vụ của mình ở bất cứ nơi nào có thể thấy cần thiết và được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tông đồ thực sự.

Vì vậy, sau khi đã cân nhắc mọi sự, và theo thẩm quyền tông đồ của mình

Tôi quyết định thành lập Thừa Tác Vụ Giáo Lý Viên

Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích trong thời gian ngắn tới đây sẽ lo liệu công bố Nghi thức trao thừa tác vụ giáo dân giáo lý viên.

9. Tôi mời gọi các Hội đồng Giám mục hãy hữu hiệu hóa thừa tác vụ giáo lý viên, thiết định chương trình huấn luyện cần thiết và những tiêu chuẩn lựa chọn để tín hữu có thể lãnh nhận thừa tác vụ này, và tìm ra những hình thức thích hợp nhất cho việc phục vụ mà các giáo lý viên được kêu gọi thi hành, phù hợp với nội dung của Tông thư này.

10. Thượng Hội đồng của các Giáo Hội Phương Đông hoặc các Hội Đồng Giáo Phẩm có thể chọn lọc những gì được thiết lập ở đây cho các Giáo Hội thuộc thẩm quyền của các vị, và phù hợp với luật cụ thể của các ngài.

11. Các giám mục nên cố gắng hết sức để tuân theo lời khuyến dụ của các Nghị phụ Công đồng: “Các mục tử… phải biết mình được Chúa Kitô thiết định không phải để một mình lãnh nhận tất cả gánh nặng sứ vụ cứu độ của Giáo hội đối với thế giới. Thay vào đó, họ phải đánh giá cao nhiệm vụ cao cả của mình là chăn dắt các tín hữu, đồng thời nhìn nhận các tác vụ và đặc sủng của anh chị em giáo dân để tất cả theo những cách riêng biệt, nhưng đồng tâm nhất trí, hợp tác trong nhiệm vụ chung” (Lumen Gentium, 30 ). Ước gì việc phân biệt những ân sủng mà Chúa Thánh Thần không ngừng ban cho Giáo Hội sẽ duy trì nỗ lực của các ngài trong cố gắng làm cho thừa tác vụ Giáo lý viên giáo dân có hiệu quả đối với sự phát triển cộng đoàn của các ngài.

Những gì tôi đã đề cập đến trong Tông thư dưới dạng Tự Sắc này, tôi truyền rằng nó có sức mạnh vững chắc và ổn định, bất chấp bất cứ điều gì ngược lại, ngay cả khi điều đó đáng được đề cập đặc biệt, và truyền công bố trên tờ Quan Sát Viên Rôma, và có hiệu quả thi hành ngay lập tức, và sau đó được xuất bản trong công báo chính thức của Tòa Thánh Acta Apostolicae Sedis.

Làm tại Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, Rôma vào ngày 10 tháng 5 năm 2021, Lễ Thánh Gioan Thành Avila, Linh mục và Tiến sĩ Hội Thánh, trong năm thứ chín triều Giáo hoàng của tôi.

+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Source:Holy See Press Office
 
Tin vui giữa giờ tuyệt vọng của Giáo Hội tại Nigeria. Hí trường Côlôsêô sẽ được tân trang rất mới lạ
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:38 14/05/2021


1. Tin vui giữa giờ tuyệt vọng của Giáo Hội tại Nigeria

Như chúng tôi đã đưa tin, các Giám mục Nigeria đã kêu gọi tổng thống Muhammadu Buhari từ chức. Diễn biến này xảy ra sau khi Kitô hữu ở nước này ngày càng tỏ ra bất mãn với vị tổng thống Hồi Giáo mà họ tin rằng đang mượn tay các nhóm khủng bố Hồi Giáo để tận diệt Kitô Giáo qua hàng loạt các vụ tấn công vào các nhà thờ Công Giáo, các cộng đồng Kitô hữu của hai nhóm khủng bố Hồi Giáo Boko Haram và Fulani. Bên cạnh đó còn có hàng loạt các vụ bắt cóc tống tiền nhắm vào các linh mục và giáo dân.

Thủ đoạn của hai nhóm khủng bố Hồi Giáo Boko Haram và Fulani là gây án trên đất Nigeria và sau đó rút qua vùng biên giới với Chad, Niger và Cameroon.

Quân đội của Chad đã tuyên bố chiến thắng vào hôm Chúa Nhật trong trận chiến kéo dài nhiều tuần với quân Hồi Giáo.

Đám đông ở thủ đô N'Djamena đã hò reo vào Chúa Nhật khi những người lính trở về từ tiền tuyến trong một dàn xe tăng và xe bọc thép.

Xung đột và bất ổn chính trị rộng hơn đang được theo dõi chặt chẽ. Chad là một cường quốc chủ chốt ở Trung Phi và là đồng minh lâu năm của phương Tây chống lại các tay súng Hồi giáo trên khắp vùng Sahel.

Tổng thống Idriss Déby đã giành được chiến thắng trong mọi cuộc bầu cử tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm từ 1991 đến nay. Tổng cộng, ông đã lãnh đạo Chad trong 31 năm qua. Ngày 19 tháng Tư vừa qua, ông được tái cử nhiệm kỳ thứ sáu. Thay vì đọc diễn văn nhân dịp được tái cử, ông ra tiền tuyến thăm các binh sĩ và bị trúng đạn vào hôm Chúa Nhật 18 tháng Tư. Ông được chuyển về thủ đô nhưng đã chết hôm 20 tháng Tư, chỉ một ngày sau khi được tuyên bố thắng cử.
Source:Reuters

2. Ý công bố thiết kế công nghệ cao cho sàn của hí trường Côlôsêô

Được xây dựng cách đây 2,000 năm, đấu trường Côlôsêô là hí trường lớn nhất trong đế chế La Mã. Nó từng có tới 70,000 chỗ ngồi và là nơi tổ chức các cuộc chiến đấu, hành quyết và săn bắt động vật của các đấu sĩ. Nó cũng có thể chứa đầy nước để tái hiện các trận chiến trên biển.

Bên dưới lòng đất của đấu trường là các phòng nơi cư ngụ của các đấu sĩ, những người bị hành quyết – trong đó có một số không nhỏ các vị tử đạo trong thời kỳ sơ khai, và những chuồng nuôi các loại dã thú.

Đến thế kỷ 19, lớp đất bên trên bị sụp xuống để lộ ra các phòng ốc bên dưới như chúng ta thấy ngày nay.

Đấu trường Côlôsêô cổ đại một lần nữa sẽ có một sàn bên trên các phòng ốc này nhờ một dự án công nghệ cao mới được Bộ văn hóa công bố vào Chúa Nhật.

“Đây là một dự án đặc biệt”, Bộ trưởng Văn hóa Dario Franceschini nói, trong khi mô tả chi tiết kế hoạch tạo ra một sàn linh hoạt để cung cấp cho khách du lịch một ý tưởng rõ ràng về cách đấu trường này hoạt động, và có một tầm nhìn như các đấu sĩ, những người đã chiến đấu cho đến chết ở đó.

“Bạn sẽ có thể đi bộ trên đó và đi đến trung tâm của đấu trường La Mã, nhìn thấy nó trong cùng một cách như du khách có thể thấy cho đến cuối thế kỷ 19”, Franceschini nói.

Một công ty kỹ thuật của Ý, Milan Ingegneria, đã giành được hợp đồng trị giá 18.5 triệu euro (tức là 22.2 triệu đô la) để thiết kế sàn mới và đã cam kết hoàn thành dự án vào năm 2023.

Sàn gỗ sẽ được tạo thành từ hàng trăm thanh gỗ có thể xoay để đưa ánh sáng tự nhiên vào các căn phòng dưới lòng đất.

Đấu trường La Mã là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Ý, thu hút khoảng 7.6 triệu du khách vào năm 2019, trước khi coronavirus tấn công.
Source:Reuters

3. Cha Weinandy nhận định: 'Cho rằng Tiến Trình Công Nghị Đức không hướng tới sự ly giáo là đánh lừa rất nhiều người'

Một thần học gia Công Giáo nhận định rằng thật là “ngu ngốc” khi phủ nhận rằng những gì Tiến Trình Công Nghị Đức đang tìm cách thay đổi không phải là ly giáo.

Cha Thomas Weinandy, OFM, đưa ra bình luận trên sau khi Giám mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, nhấn mạnh rằng người Công Giáo Đức không phải là “những kẻ ly giáo” đang tìm cách “tách mình ra khỏi Rôma với tư cách là Giáo hội quốc gia Đức”.

Cha Weinandy, một cựu thành viên của Ủy Ban Thần Học Quốc Tế của Vatican nhận định: “Cho rằng Tiến Trình Công Nghị Đức không hướng tới sự ly giáo là đánh lừa rất nhiều người”.

“Rõ ràng là Tiến Trình Công Nghị Đức đang đề xuất những thay đổi trong giáo huấn của Giáo hội có thể coi là lạc giáo. Điều đó không thể bị phủ nhận, và thật ngu ngốc nếu nói khác đi”.

Giám Mục Bätzing lập luận trong một cuộc phỏng vấn ngày 6 tháng 5 rằng Giáo hội ở Đức vẫn gắn bó với Rôma bất chấp những căng thẳng về việc chúc lành đồng giới, việc cho người Tin lành rước lễ và Tiến Trình Công Nghị”.

Giám Mục Bätzing cũng đã phát biểu một ngày trước cuộc biểu tình chống Tòa Thánh vào ngày 10 tháng 5 ở Đức để phản đối việc Vatican gần đây nói “không” với việc chúc lành cho các cặp đồng tính.

Cha Weinandy, trước đây từng là giám đốc điều hành của Ủy Ban Giáo lý của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, nói rằng những lời của Giám Mục Bätzing là cực kỳ mâu thuẫn.

Cha Weinandy cho rằng: “Giám mục Bätzing nói rằng ngài muốn phát triển Huấn quyền với những lập luận đúng đắn. Tuy nhiên, những gì ông đề xuất làm cơ sở cho các lập luận phát triển đúng đắn này lại mâu thuẫn và không nhất quán về mặt thần học và huấn quyền”

“Các chân lý cơ bản của đức tin và luân lý không tương thích với những gì mà Tiến Trình Công Nghị Đức đề xuất, chẳng hạn như sự chúc phúc cho các kết hiệp đồng tính luyến ái. Bất kỳ suy tư thần học nào đề xuất khác đi đều là sai lầm”.

Vị linh mục dòng Phanxicô Capuchin nói thêm rằng cụm từ “những kết quả mới nhất của khoa học nhân văn,” thường Giám Mục Bätzing nhắc đến, “thường chỉ là cố gắng chống chế của những kẻ xu thời”.

Ngài cũng cho rằng cụm từ “hoàn cảnh sống của con người ngày nay” thường được Giám mục Bätzing và các Giám Mục Đức khác viện dẫn là vô nghĩa.

“Luôn luôn có những kẻ gian dâm, hoặc sống trong hoàn cảnh ngoại tình, hoặc có hành vi đồng tính luyến ái. Sự khác biệt là nhiều người ngày nay, bao gồm cả các giám mục như Giám mục Bätzing, muốn chúc lành cho các hoạt động tình dục ấy như thể những hành vi đó không còn là tội lỗi nữa, nhưng chúng đang và sẽ luôn là tội lỗi”, vị linh mục dòng Phanxicô Capuchin nói với CNA hôm 8 tháng Năm.

“Vì vậy, dù Giám mục Bätzing sử dụng các cụm từ mang lại một vẻ ngoài thông thái và uyên bác tuyệt vời, chúng chỉ đơn thuần là trống rỗng, và thường lừa dối, dù 'nghe có vẻ kêu'".
Source:Catholic News Agency

4. Hỏi đáp về Thừa Tác Vụ Giáo Lý Viên - cuộc họp báo tại Vatican

Hôm thứ Ba 11 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập thừa tác vụ giáo lý viên, qua Tông Thư dưới dạng Tự Sắc Antiquum Ministerium, nghĩa là “Thừa Tác Vụ Cổ Kính”

Bạn có thể thắc mắc thừa tác vụ này là gì và nó dành cho ai. Trong phần giải thích này, Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, tóm tắt những câu trả lời về thừa tác vụ mới này từ cuộc họp báo do Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella chủ tọa.

Thừa tác vụ giáo lý viên mới được thiết lập có nghĩa là gì?

Thưa: Một thừa tác vụ được thiết đặt là một loại hình thái phục vụ chính thức, chuyên nghiệp trong Giáo Hội Công Giáo. Thừa tác vụ ấy có thể dành cho giáo dân, chẳng hạn như đọc sách hoặc giúp lễ, hoặc được dành cho những người được thụ phong, chẳng hạn như phó tế hoặc linh mục.

Thừa tác vụ giáo lý viên mới được thành lập dành cho những giáo dân có ơn gọi đặc biệt phục vụ Giáo Hội Công Giáo với tư cách là người giảng dạy đức tin.

Thừa tác vụ này là “ổn định” có nghĩa là nó tồn tại trong suốt cuộc đời, không phụ thuộc vào việc người đó có tích cực thực hiện hoạt động đó trong mọi phần của cuộc đời mình hay không.

Nhưng các giáo lý viên đã tồn tại. Điều này khác biệt như thế nào?

Thưa: Nhiều giáo lý viên ngày nay phục vụ Giáo hội ở cấp giáo xứ, nhưng thừa tác vụ giáo lý viên được thiết lập sẽ gắn liền với giáo phận và do giám mục giáo phận quản lý.

Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella giải thích trong một cuộc họp báo ở Vatican ngày 11 tháng 5 rằng “qua việc thiết lập một thừa tác vụ, Giáo hội xác nhận rằng người được trao cho đặc sủng đó đang thực hiện cho cộng đồng một sự phục vụ giáo hội đích thực”.

Đức Tổng Giám Mục Fisichella là chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cổ vũ Tân Phúc âm hóa, là cơ quan giám sát các thừa tác vụ được thiết lập trong Giáo hội.

Việc thiết lập thừa tác vụ này, cùng với các tác vụ đọc sách và giúp lễ, “sẽ giúp cho anh chị em giáo dân được chuẩn bị tốt hơn trong việc truyền đạt đức tin”, Đức Tổng Giám Mục nói.

Ngài cũng nhấn mạnh rằng giáo lý viên được trao tác vụ chuyên lo việc truyền đạt đức tin qua việc rao truyền và giảng dạy - họ không có bất kỳ trách nhiệm phụng vụ nào.

Giáo lý viên cộng tác với giám mục địa phương và các linh mục trong việc giảng dạy đức tin cho cộng đồng địa phương. Và điều đó có thể là một lợi ích rất lớn ở những nơi khan hiếm linh mục.

Đức Thánh Cha Phanxicô “nhận thức rõ rằng nhiều khu vực ở Mỹ Châu Latinh và Phi Châu ngày nay vẫn có các giáo lý viên đứng đầu cộng đồng”, Đức Giám Mục Fisichella nói. Ngài nhấn mạnh tính chất độc đáo của mỗi thừa tác vụ, lưu ý rằng chúng không thể thay thế cho nhau.

“Ở đây có rất nhiều điều mới trong thừa tác vụ này. Những người nam nữ được kêu gọi để thể hiện ơn gọi rửa tội của họ theo cách tốt nhất có thể, không phải để thay thế cho các linh mục hay những người thánh hiến, nhưng với tư cách là những giáo dân đích thực, trong bản chất đặc biệt nơi thừa tác vụ của họ, có thể trải nghiệm đầy đủ ơn gọi làm chứng nhân và phục vụ hữu hiệu các ơn gọi từ phép rửa của họ trong cộng đồng và thế giới”.

Ai đủ tiêu chuẩn để được gia nhập thừa tác vụ giáo lý viên?

Thưa: Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng một giáo dân được kêu gọi để trở thành giáo lý viên phải có “đức tin sâu sắc và sự trưởng thành nhân bản”, là một người tích cực tham gia vào đời sống của cộng đồng Kitô, và “có khả năng chào đón người khác, quảng đại và sống đời sống hiệp thông huynh đệ”.

Các Hội đồng Giám mục sẽ chịu trách nhiệm quyết định “tiến trình hình thành cần thiết và các tiêu chuẩn để được nhận vào thừa tác vụ mới”.

Từng cá nhân các giám mục được giao nhiệm vụ xác định các ứng viên thích hợp trong lãnh thổ riêng của các ngài, và bảo đảm họ được chuẩn bị thích hợp thông qua “sự đào tạo phù hợp về kinh thánh, thần học, mục vụ và sư phạm”.

Kinh nghiệm dạy giáo lý trước cũng là một điều kiện tiên quyết.

Đức Tổng Giám Mục Fisichella nói rằng “điều hiển nhiên là không phải tất cả những ai là giáo lý viên ngày nay đều có thể được trao thừa tác vụ giáo lý viên”.

“Quan trọng nhất chính là chiều kích chuyên nghiệp trong đó hàm ý một sự sẵn sàng để phục vụ Giáo Hội nơi vị giám mục coi là có lợi nhất. Các chức vụ không được ban cho để thỏa mãn cá nhân, nhưng để phục vụ cho Giáo hội địa phương, nơi giám mục cho rằng sự hiện diện của giáo lý viên là cần thiết”.

Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích của Vatican sẽ công bố Nghi thức Trao Thừa Tác Vụ Giáo Lý Viên. Nghi thức này sẽ được công bố “trong một thời gian ngắn”.

Ý tưởng thừa tác vụ giáo lý viên xuất phát từ đâu?

Thưa: Trong tông thư của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh lịch sử của giáo lý viên, bắt đầu với Thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho tín hữu Côrinhtô, đề cập đến “những thầy dạy” trong cộng đồng Kitô tiên khởi

Ngài nói rằng các giáo lý viên đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng việc truyền giáo của Giáo hội trong những thế kỷ tiếp theo và ghi nhận sự đánh giá mới đối với các giáo lý viên giáo dân trong công cuộc loan báo Tin Mừng sau Công Đồng Vatican II.

Đức Tổng Giám Mục Fisichella cho biết Hội Đồng Giáo Hoàng của ngài, theo yêu cầu của Đức Thánh Cha Phanxicô, đã nghiên cứu thể chế của thừa tác vụ giáo lý viên giáo dân trong hơn năm năm với sự cộng tác của các Hội Đồng Giám Mục và các chuyên gia.
Source:Catholic News Agency