Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Dignitatis Humanae Changing History”, nghĩa là “Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae thay đổi lịch sử”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Ngày 7 tháng 12 năm 1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục long trọng ban hành Tuyên ngôn Tự do Tôn giáo của Công đồng Vatican II, được biết đến với tên gọi trích từ lời mở đầu bằng tiếng Latinh là Dignitatis Humanae hay Phẩm Giá Con Người. Qua đó, Công đồng đã thúc đẩy Giáo Hội Công Giáo chuyển mình thành tổ chức bảo vệ nhân quyền cơ bản hàng đầu thế giới – là điều mà cố Giáo sư Michael Howard, Giáo sư Lịch sử Hiện đại tại Đại học Oxford, đã từng nói với tôi là một trong hai cuộc cách mạng vĩ đại của thế kỷ XX, cuộc cách mạng còn lại là việc những người Bolshevik đánh cắp cuộc cách mạng của nhân dân Nga năm 1917.

Và thế là chúng ta lại có thêm một sự trớ trêu nữa trong lịch sử. Bởi chính Cách mạng Nhân quyền Công Giáo đã đóng vai trò then chốt trong việc chấm dứt Cách mạng Bolshevik của Lenin và nhà nước quái vật mà nó tạo ra, là Liên Xô.

Bạn hỏi thế nào ư?

Hãy nghĩ về các mối liên kết theo cách này:

Không có Công đồng Vatican II, không có sự phổ cập lãnh đạo Công Giáo toàn cầu.

Không có sự phổ cập lãnh đạo Công Giáo toàn cầu, không có Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị.

Không có Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, không có cuộc cách mạng lương tâm rộng rãi, được duy trì bằng tôn giáo, giống như cuộc cách mạng đã làm thay đổi đời sống công cộng ở Đông Âu từ năm 1979 đến năm 1989.

Không có cuộc cách mạng lương tâm, không có sự tự giải phóng phi bạo lực của các “quốc gia bị giam cầm” ở Trung và Đông Âu vào năm 1989-1991.

Không có sự tự giải phóng của các quốc gia chư hầu của Khối Hiệp ước Warsaw và các “nước cộng hòa” giả hiệu của Liên Xô, thì không có sự sụp đổ của Liên Xô vào tháng 8 năm 1991.

Và chốt chặn trong chuỗi quan hệ nhân quả đó chính là Dignitatis Humanae.

Tại sao? Bởi vì nếu không có lời khẳng định long trọng của Công đồng về quyền tự do tôn giáo như một quyền cơ bản của con người - một chân lý dựa trên phẩm giá của con người mà cả mặc khải lẫn lý trí đều có thể nhận biết - thì Giáo hội sẽ không thể bảo vệ một cách hợp lý quyền của những người có tôn giáo (và thực sự là tất cả những người có lương tâm) trước sự bá quyền vô thần của chủ nghĩa cộng sản Âu Châu.

Một Giáo hội bám víu vào tàn dư của cơ sở tôn giáo cũng không thể khẳng định một cách đáng tin cậy rằng quyền lực nhà nước vốn dĩ có hạn chế và không có vai trò hợp pháp trong “những hành động tự nguyện và tự do mà con người hướng tới Chúa… không thể bị bất kỳ chính quyền con người nào ra lệnh hoặc cấm đoán” (như bản tuyên bố đã nêu).

Tóm lại, Dignitatis Humanae không chỉ bảo vệ quyền cơ bản của con người được tự do không bị cưỡng bức trong thánh địa lương tâm, nơi con người có thể tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Dignitatis Humanae còn là một hình ảnh thần học tương tự như một hỏa tiễn siêu thanh dẫn đường chính xác, nhắm thẳng vào một tuyên bố cốt lõi của dự án cộng sản cho rằng không có thánh địa nào của bản sắc và sự toàn vẹn cá nhân mà nhà nước độc đảng không thể kiểm soát và thao túng.

Không có gì ngạc nhiên khi Yuri Andropov, chủ tịch KGB, cơ quan tình báo bí mật của Liên Xô, cực kỳ thông minh và vô cùng độc ác, coi cuộc bầu cử năm 1978 của Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị - người thúc đẩy Dignitatis Humanae tại Công đồng Vatican II và là người bảo vệ nhiệt thành quyền tự do tôn giáo khi làm Tổng Giám Mục Kraków - là mối đe dọa chết người đối với chính Liên Xô, chứ không chỉ đối với vị thế của Liên Xô tại Ba Lan.

Trái ngược với quan điểm thiếu căn cứ vào năm 1965 và ngày nay, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae không phải là lời mở đầu cho chủ nghĩa thờ ơ tôn giáo. Trên thực tế, đoạn văn then chốt của nó, sau khi định nghĩa quyền tự do tôn giáo là dựa trên bản chất và phẩm giá của con người, đã ngay lập tức gắn quyền đó với một nghĩa vụ:

Chính vì phẩm giá của mình mà mọi người, vì họ là những con người, tức là những hữu thể được phú bẩm lý trí và ý chí tự do, và do đó mang trách nhiệm cá nhân, vừa được thúc đẩy bởi bản chất của họ, vừa bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đạo đức phải tìm kiếm chân lý, đặc biệt là chân lý tôn giáo. Họ cũng bị ràng buộc phải trung thành với chân lý một khi đã nhận biết nó và định hướng toàn bộ cuộc sống của mình theo những đòi hỏi của chân lý. Nhưng con người không thể thực hiện nghĩa vụ này theo cách phù hợp với bản chất của mình nếu họ không được hưởng cả tự do tâm lý lẫn sự miễn nhiễm khỏi sự ép buộc từ bên ngoài. (DH 2)

Tuyên ngôn Tự do Tôn giáo không phải là sự đầu hàng trước chủ nghĩa tự do thế tục; nó không phải là sự nhượng bộ trước chủ nghĩa hoài nghi hiện đại về khả năng nhận thức chắc chắn của con người về bất cứ điều gì; và nó cũng không phải là lá cờ trắng của giáo hội vẫy trước lý thuyết chính trị Khai sáng. Nó là một ví dụ điển hình về sự phát triển của giáo lý—trong trường hợp này, là sự phục hồi và áp dụng vào hoàn cảnh đương đại hai chân lý có nguồn gốc từ Kinh Thánh.

Chân lý đầu tiên trong số đó là Thiên Chúa muốn được những người tự do tôn thờ, như thể hiện rõ qua kinh nghiệm Xuất Hành của dân Israel. Chân lý thứ hai là có những điều của Thiên Chúa không phải của Caesar, như Chúa đã dạy trong Mt 22:21.

Giáo Hội Công Giáo đã trung thành với bản chất được Thiên Chúa sắp đặt trong Tuyên ngôn Dignitatis Humanae. Lòng trung thành đó sẽ mang lại trong lịch sử những hậu quả đầy ấn tượng - thậm chí có thể nói là do Chúa quan phòng.


Source:George Weigel