Nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, 2 tháng Tư, 2005, Camera dei Deputati hay Hạ Viện Italia đã có buổi thuyết trình về Sự nghiệp giải phóng thế giới của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhân dịp này, Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, Niên Trưởng Hồng Y Đoàn, đã có bài thuyết trình được đăng lại trên tờ Quan Sát Viên Rôma ngày hôm sau.

Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây trên tờ Quan Sát Viên Rôma. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, tôi đang ở trên sân thượng của Phủ Quốc vụ khanh thì Đức Hồng Y Pericle Felici, sau làn khói trắng bốc lên từ nhà nguyện Sistina, đã công bố tên của Đức Tân Giáo hoàng: Đức Hồng Y Karol Wojtyła. Đức Tổng Giám Mục Agostino Casaroli (người đã trở thành Hồng Y vào năm sau), đang có mặt ở đó với chúng tôi, đã bình luận: “Các Hồng Y thật can đảm khi chọn một tổng giám mục từ một quốc gia bên kia 'bức màn sắt'! Thật can đảm!”

Tất cả chúng tôi vây quanh Đức Tổng Giám Mục Casaroli, đặt nhiều câu hỏi với ngài, trong khi chúng tôi chờ đợi Đức Tân Giáo Hoàng xuất hiện trên ban công của Đền Thờ Thánh Phêrô. Đức Tổng Giám Mục trả lời chúng tôi: “Ngài là một nhân vật mạnh mẽ và hấp dẫn với nhiều phẩm chất của mình, nhưng tôi không bao giờ nghĩ đến khả năng Đức Tân Giáo Hoàng lại có thể đến từ bên kia “bức màn sắt”“.

Giờ đây, hai mươi năm sau khi triều đại giáo hoàng đó kết thúc, chúng ta phải công nhận rằng Đức Gioan Phaolô II là một nhân vật phi thường, một Giáo hoàng đã đặt mình vào truyền thống với dấu ấn mới mẻ đáng kể, và triều đại giáo hoàng của ngài được đánh dấu bằng sự bao la và vĩ đại của những công trình ngài đã hoàn thành, bằng sự đồng thuận ngài đạt được và bằng sự hướng dẫn về mặt tinh thần và đạo đức của ngài trong hơn một phần tư thế kỷ.

Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng Wojtyła đã làm mọi người kinh ngạc không chỉ vì những gì ngài đã thực hiện được, mà còn vì tình yêu thúc đẩy ngài thực hiện những điều đó, cũng như mong muốn giúp đỡ mọi người trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa và gia tăng sự tôn trọng đối với nhân quyền, công lý, tình anh em và tình đoàn kết trên thế giới. Chúng ta không thể không thừa nhận rằng Chúa Quan Phòng đã giao cho Đức Gioan Phaolô II những nhiệm vụ lớn lao trong lịch sử thế giới vào thời đại của ngài.

Người của Chúa

Thánh Gioan Phaolô II trước hết và trên hết là một người vĩ đại của Thiên Chúa. Chiều kích đầu tiên và cơ bản của triều đại giáo hoàng của ngài là chiều kích tôn giáo. Động cơ của toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài, trung tâm truyền cảm hứng cho những suy nghĩ của ngài và tất cả các sáng kiến của ngài đều mang tính chất tôn giáo: tất cả những nỗ lực của vị Giáo hoàng Ba Lan đều nhằm mục đích đưa con người đến gần Thiên Chúa hơn và khiến Thiên Chúa trở lại như một nhân vật chính trong thế giới này. Đức Giáo Hoàng Ba Lan muốn rằng vẫn có một vị trí cho Thiên Chúa trong thế giới này của chúng ta.

Lời kêu gọi sôi nổi được tuyên bố trong Thánh lễ đầu tiên của ngài tại Quảng trường Thánh Phêrô: “Đừng sợ! Hãy mở, hãy thực sự mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô”, đã diễn tả rất rõ câu nói đầy cảm hứng và chương trình của toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài.

Những lời này thể hiện nỗi lo lắng tông đồ thúc đẩy ngài đi khắp các nẻo đường thế giới, gặp gỡ những con người thuộc mọi nền văn hóa và chủng tộc, để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Thiên Chúa, Đấng đã đến gần chúng ta trong Chúa Kitô, thì nhân loại mới có thể tìm thấy ơn cứu độ đích thực.

Ngài đã tuyên bố sự thật này một cách trung thực và dũng cảm đến nỗi ngay cả hai viên đạn bắn vào ngài ngày 13 tháng 5 năm 1981 cũng không thể làm suy yếu hay phá hoại được lóng can đảm tuyên xưng sự thật này cho thế giới.

Sự vĩ đại của triều đại giáo hoàng dài của ngài nằm trên hết ở việc đánh thức lại ý thức tôn giáo trên thế giới. Trong xã hội thế tục hóa vào thời đại của ngài, ngài đã giúp các Kitô hữu không sợ tự gọi mình là Kitô hữu. Lời kêu gọi trở về với Chúa của ngài không mệt mỏi, được gửi đến một xã hội ở phương Tây đang lãng quên ngài; và thậm chí đã chiến đấu chống lại ngài ở bên kia “bức màn sắt”.

Ngài có đức tin vào sức mạnh của tâm linh và đạo đức và là một nhân chứng có tầm vóc đặc biệt cũng vì sự mạch lạc rõ ràng của ngài: trong ngài không có sự đứt gãy giữa những gì ngài nghĩ và những gì ngài nói; giữa những gì ngài tin và những gì ngài là. Trong ngài có sự thống nhất hoàn toàn của đức tin và cuộc sống.

Người bảo vệ nhân quyền

Ngoài việc là một người của Chúa, Đức Gioan Phaolô II còn là một người bảo vệ nhiệt thành cho con người, cho phẩm giá, quyền lợi và tự do của mỗi con người. Đây cũng là một chủ đề đặc trưng trong giáo huấn của ngài, giúp nhiều người khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống. Gốc rễ của cam kết này đối với con người là một tầm nhìn rõ ràng về phẩm giá của mỗi con người, “độc nhất và không thể lặp lại”, như ngài vẫn nói. Mọi cuộc tấn công vào phẩm giá của bất kỳ con người nào đều là một sự xúc phạm đến Chúa, Đấng Tạo Hóa của chúng ta. Ngài đã tuyên bố và bảo vệ nhân quyền như những quyền mà Chúa đã đặt vào bản chất con người.

Là một cộng sự viên của ngài, tôi có thể làm chứng cho cam kết và lòng nhiệt thành mà ngài dành cho việc bảo vệ nhân quyền trong các cuộc tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia, đại sứ, và đại diện của các tổ chức quốc tế. Tôi cũng có cơ hội ghi nhận lòng dũng cảm và quyết tâm của ngài trong việc khẳng định cả quyền của cá nhân và quyền tự do, tự quyết của các dân tộc.

Ngài có thể nhìn xa hơn những người khác

Tôi chỉ đề cập đến hai trường hợp. Khi những nền tảng đầu tiên của Công Đoàn Đoàn Kết được đặt ra, Lech Wałęsa và những cộng sự đầu tiên của ngài đã đến gặp Đức Hồng Y Wyszyński, Giáo Chủ Ba Lan và Tổng giám mục Warsaw, người có “cái mũi” chính trị phi thường và hiểu biết sâu sắc về tình hình ở Ba Lan vào thời điểm đó. Tuy nhiên, trong lần tiếp xúc đầu tiên, ngài đã không khuyến khích họ; ngài nói rằng dự án của họ rất đẹp, nhưng sẽ không thể thực hiện được, do Nhà nước kiểm soát chặt chẽ mọi thứ thông qua mạng lưới cảnh sát chế độ và mạng lưới các cơ quan tình báo. Đó là một giấc mơ đẹp mà ngài chia sẻ, nhưng sẽ bị Chính phủ dập tắt ngay lập tức. Ngài cũng lo ngại rằng, nếu Chính phủ Ba Lan không dập tắt sáng kiến này, Liên Xô sẽ can thiệp bằng xe tăng của mình (như ở Budapest, Hung Gia Lợi và Praha, Tiệp Khắc). Xét về mặt con người, Đức Hồng Y Wyszyński đã đúng.

Wałęsa và bạn bè ngay lập tức quay sang Đức Gioan Phaolô II, người thay vào đó bắt đầu từ một quan điểm khác. Ngài nói với họ: “Những ý tưởng và dự án của các bạn là đúng đắn và một ngày nào đó sẽ thành công.” Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng họ nên kiên nhẫn chờ đợi thời cơ thuận lợi và khuyến nghị hết sức thận trọng, vì họ sẽ gặp phải sự phản đối công khai. Do đó, ngài đã khuyến khích họ. Từ thời điểm đó, Đức Hồng Y Wyszyński cũng ủng hộ và hậu thuẫn cho Công Đoàn Đoàn Kết; trên thực tế, chính ngài là người đề xuất tên gọi Solidarność /sô-li-đa-nồ/ hay Công Đoàn Đoàn Kết.

Tôi muốn nhắc lại một trường hợp khác. Trong chuyến đi thứ hai của mình đến Ba Lan (16-23 tháng 6 năm 1983), Đức Gioan Phaolô II không muốn bất kỳ ai nghĩ rằng chuyến thăm của ngài có nghĩa là sự khoan dung ngầm hoặc chấp nhận gián tiếp thực tế của cuộc đảo chính do Tướng Jaruzelski thực hiện hai năm trước đó. Vì lý do này, ngay từ bài phát biểu đầu tiên, ngài đã lên tiếng bảo vệ tự do và nhân quyền. Một số đoạn trong bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng cho thấy rõ ràng rằng ngài phản đối thiết quân luật vào tháng 12 năm 1981 và tình hình phát sinh do hậu quả của nó.

Đức Hồng Y Casaroli, một nhà ngoại giao thông minh và là cộng sự trung thành của Đức Giáo Hoàng, vào buổi tối ngày thứ hai, khi chỉ có ngài và Đức Gioan Phaolô II, đã nói với ngài rằng, theo Đức Hồng Y, tốt nhất là nên hạ giọng xuống, và đưa ra hai lý do để ủng hộ cho suy nghĩ của mình:

Thứ nhất, một số biểu hiện mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng có thể linh hứng cho ai đó có hành động chống lại tình hình độc tài và chống lại Chính phủ. Hậu quả là những người liên quan sẽ ngay lập tức bị bỏ tù và có lẽ sẽ biến mất;

Thứ hai, đúng là chính quyền cộng sản Ba Lan không thể làm gì được Đức Giáo Hoàng, nhưng sau khi ngài trở về Rôma, họ sẽ trả thù các giám mục và Giáo hội bằng cách hạn chế hàng loạt quyền tự do.

Đức Gioan Phaolô II chăm chú lắng nghe Đức Hồng Y Casaroli, nhưng ngài không để mình bị thuyết phục: ngài tiếp tục đi theo con đường mà ngài đã chọn cho đến cùng. Khi ngài trở về Rôma, tôi nhớ rằng tại bữa tối làm việc ngày hôm sau, ngài đã nói một cách tự tin: “Tôi rất vui khi có thể nói ra mọi điều mà tôi cho là đúng”. Như người ta vẫn nói trong ngạn ngữ dân gian Italia, ngài đã kéo sợi dây đến tận cùng, nhưng không đứt.

Tôi hiểu rõ trường hợp thứ hai này: Đức Gioan Phaolô II hiểu rõ sức mạnh của Giáo hội Ba Lan hơn Đức Hồng Y Casaroli. Nhưng trong trường hợp liên quan đến sự khởi đầu của Công Đoàn Đoàn Kết, tôi nghĩ ngài chỉ có thể nhìn xa hơn nhờ sự hỗ trợ đặc biệt đến với ngài từ Trời Cao qua lời cầu nguyện liên tục của ngài.

Người cầu nguyện

Làm việc gần gũi với Đức Gioan Phaolô II, có nhiều điều khiến tôi có ấn tượng mạnh mẽ như sự tự tin, sự chắc chắn, khả năng nói trước đám đông... khả năng nhìn xa hơn người khác của ngài, nhưng điều luôn làm tôi kinh ngạc nhất là cường độ sâu sắc trong lời cầu nguyện của ngài. Bạn không thể hiểu Đức Gioan Phaolô II nếu không xem xét mối quan hệ của ngài với Chúa.

Ngài là một người cầu nguyện vĩ đại, được thúc đẩy bởi một tinh thần Kitô giáo và lòng yêu mến Đức Mẹ mạnh mẽ. Ngài có trong mình một sự căng thẳng tâm linh và huyền bí không thể nhầm lẫn và chính từ lời cầu nguyện đã tuôn chảy sự an toàn, sự tự chủ tuyệt đối và sự thanh thản của ngài trong mọi hoàn cảnh.

Thật là một ấn tượng khi nhìn thấy ngài phó thác mình trong lời cầu nguyện: người ta có thể thấy nơi ngài một sự tham gia hoàn toàn, điều này đã cuốn hút ngài như thể ngài không có vấn đề gì phải giải quyết và cũng chẳng có những cam kết cấp bách nào kêu gọi ngài phải đến với một cuộc sống năng động. Thái độ của ngài điềm tĩnh và đồng thời tự nhiên một cách tự phát. Thật cảm động trước sự dễ dàng và sẵn sàng mà ngài chuyển từ sự tiếp xúc con người với mọi người sang sự hồi tưởng về một cuộc trò chuyện thân mật với Chúa. Khi ngài cầu nguyện, ngài cho thấy khả năng tập trung tuyệt vời. Khi ngài tập trung cầu nguyện, những gì đang diễn ra xung quanh ngài dường như không chạm đến ngài hay làm ngài bận tâm, vì ngài đắm chìm trong cuộc gặp gỡ với Chúa.

Ngài đã trưởng thành trong mọi quyết định quan trọng trong lời cầu nguyện. Trước mỗi quyết định quan trọng, Đức Gioan Phaolô II đều cầu nguyện về điều đó diễn ra trong một thời gian dài, đôi khi là trong nhiều ngày. Dường như ngài đang thảo luận về những vấn đề khác nhau với Chúa. Trong những quyết định có trọng lượng nhất định, ngài không bao giờ quyết định ngay lập tức. Đối với những người đối thoại đã hỏi ngài hoặc đề xuất điều gì đó, ngài trả lời rằng ngài muốn suy nghĩ trước khi đưa ra câu trả lời. Trên thực tế, ngài đã dành thời gian để lắng nghe một số ý kiến, nhưng trên hết, ngài có ý định cầu nguyện để xin ánh sáng từ trên cao trước khi quyết định.

Tôi nhớ một trường hợp, trong những năm tôi làm Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, trong đó tôi thấy rằng Đức Giáo Hoàng đã quyết định ủng hộ một lựa chọn khó khăn nào đó. Do đó, tôi đã hỏi ngài liệu chúng tôi có thể tiến hành truyền đạt điều đó không. Câu trả lời là: “Chúng ta hãy đợi, tôi muốn cầu nguyện thêm một chút trước khi quyết định.”

Khi một vấn đề đang được nghiên cứu và không thể tìm ra giải pháp công bằng và thỏa đáng, Đức Giáo Hoàng sẽ kết luận bằng cách nói: “Chúng ta phải cầu nguyện thêm lần nữa, để Chúa có thể giúp đỡ chúng ta.” Ngài dựa vào lời cầu nguyện để tìm thấy ánh sáng trên con đường cần theo.

Không mệt mỏi đến cùng

Trong giai đoạn đầu của triều đại giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã gây ấn tượng với năng lượng, sự năng động, vô số sáng kiến và những chuyến đi vĩ đại của ngài trên mọi nẻo đường thế giới. Trong giai đoạn cuối, ngài đã gây ấn tượng với sức mạnh và sự thanh thản mà ngài tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình, bất chấp những vấn đề sức khỏe và bệnh tật đáng chú ý; tuy nhiên, ngài luôn trong trạng thái tinh thần minh mẫn hoàn toàn.

Với tấm gương của những tháng cuối cùng, Đức Gioan Phaolô II đã dạy rằng những khó chịu của tuổi già và bệnh tật phải được chào đón một cách thanh thản. Việc nhờ đến sự hỗ trợ của tiến bộ y khoa là đúng đắn và thích hợp, nhưng sau đó người ta phải tin tưởng vào Chúa.

Bằng tấm gương của mình, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy chúng ta cách bước đi trên con đường hướng đến mầu nhiệm đang chờ đợi chúng ta khi cánh cửa vĩnh hằng mở ra cho mỗi người chúng ta.

Đây là lời dạy cuối cùng của ngài; một lời dạy không lời, nhưng là lời dạy với tư cách là Giáo hoàng.

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng Đức Gioan Phaolô II là một con người vĩ đại, một Giáo hoàng vĩ đại và một vị thánh vĩ đại.

Vĩ đại như một con người: ngài có chiều rộng của những ý tưởng và chiều sâu khác thường của tư tưởng, trong khuôn khổ triết học; ngài có khả năng ngôn ngữ tuyệt vời; một khả năng đáng ngạc nhiên là nói chuyện phù hợp với cá nhân và đám đông. Đồng thời, ngài là một nhà huyền môn có trong mình một sự căng thẳng tâm linh mạnh mẽ, nhưng là một nhà huyền môn chú ý đến con người và các tình huống; một nhà huyền môn có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử. Một Giáo hoàng mà thế giới kính trọng vì sự năng động không thể ngăn cản của ngài, vì nhiều cử chỉ của ngài, vì vô số sáng kiến của ngài, vì những chuyến đi vĩ đại của ngài và là một người được thế giới ngưỡng mộ vì công việc ngài đã hoàn thành để thế giới hiện đại của chúng ta mở rộng cánh cửa và trái tim của mình cho Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của con người.

Ngài cũng có khả năng phi thường trong việc đánh giá và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nghệ thuật, văn học, sự ấm áp của tình bạn, những thành tựu của con người. Luôn có sự nhất quán lớn giữa những gì ngài nói và những gì ngài làm, giữa những gì xuất hiện trong tư duy và những gì thực tế.

Một vị Giáo hoàng vĩ đại: ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đã đi khắp thế giới, đi qua tổng cộng một lần rưỡi khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng. Ở mọi nơi, ngài đều là người gieo hy vọng vĩ đại. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đã vào một hội đường Do Thái; vị Giáo hoàng đầu tiên đã đến thăm một đền thờ Hồi giáo. Ngài là một nhà truyền giáo bẩm sinh; khi đến thăm các cộng đồng Kitô giáo trên cả năm châu lục, ngài biết cách để mọi người lắng nghe mình.

Nhà báo Gian Franco Svidercoschi đã viết một cách táo bạo rằng Đức Gioan Phaolô II đã “thu hẹp khoảng cách giữa trời và đất”, theo nghĩa là ngài đã làm rất nhiều để giúp những người nam và nữ trên thế giới này đến gần Chúa hơn.

Một vị thánh vĩ đại: danh hiệu “người khổng lồ của Chúa” mà các nhà báo dành cho ngài có vẻ phù hợp. Đối với ngài, Chúa không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là Đấng Tạo Hóa và là Cha yêu thương chúng ta. Tiếng kêu vang lên giữa đám đông tại tang lễ của ngài: “hãy phong thánh ngay lập tức” thể hiện niềm tin trong trái tim của nhiều người, những người ngưỡng mộ tinh thần cao cả của ngài và sự gắn kết giữa những gì ngài nói và những gì ngài là.

Tóm lại, ngài là vị Giáo hoàng đã thay đổi tiến trình lịch sử trong thế kỷ qua và là người đã chứng minh cho mọi người thấy rằng con đường chân lý, các giá trị đạo đức và tinh thần là con đường duy nhất có thể đảm bảo một tương lai công bằng hơn, nhân đạo hơn và hòa bình hơn.

Nhiều người đã rút ra từ Đức Giáo Hoàng này niềm hy vọng và lòng tin vào việc tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Nhiều người đã học được từ ngài con đường để tìm ra thông lộ dẫn đến Thiên Chúa.

Chúng ta không được phép quên lời chứng và thông điệp mà Đức Gioan Phaolô II đã gửi đến chúng ta. Vì lý do này, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sáng kiến tưởng nhớ ngài tại đây, tại trụ sở của Hạ viện, nơi ngài đã đến, khi chấp nhận lời mời của Chủ tịch Casini và Thượng nghị sĩ Pera.


Source:L'Osservatore Romano