1. Tổng giám mục Ukraine khuyến khích Tổng thống đắc cử Donald Trump đến Ukraine

Một tổng giám mục Ukraine cho biết ngài đã khuyến khích Tổng thống đắc cử Donald Trump đến thăm Ukraine để giúp “xây dựng chính sách cho tương lai”.

Trong một cuộc phỏng vấn vào thứ sáu với người dẫn chương trình “EWTN News In Depth” Catherine Hadro, Đức Tổng Giám Mục Borys Gudziak của Tổng giáo phận Công Giáo Ukraine Philadelphia cho biết ngài đã nói chuyện ngắn gọn với Tổng thống đắc cử Donald Trump trước cuộc bầu cử tại bữa tối Al Smith ngày 17 tháng 10, nơi ngài khuyến khích Tổng thống đắc cử Donald Trump đến thăm Ukraine. Đức Cha Gudziak sau đó đã viết một lá thư cho tổng thống đắc cử với nội dung tương tự.

“Tôi nghĩ nếu ngài ấy đi ngay bây giờ, trước lễ nhậm chức, chẳng hạn, cùng với một nhóm các nhà lãnh đạo tôn giáo trong một sứ mệnh nhân đạo, ngài ấy sẽ tự mình chứng kiến những gì đang diễn ra trên thực địa”, Đức Cha Gudziak giải thích. “Tất cả những người đã đến Ukraine — các Hồng Y, các nhà lãnh đạo chính trị, các nhân viên nhân đạo, những người hoài nghi, những người hiểu biết nhiều — tất cả đều ra về với nhiều hiểu biết hơn, nhiều hơn nữa và hiểu sâu sắc hơn những gì đang diễn ra”.

“Vì vậy, tôi khuyến khích Tổng thống đắc cử Donald Trump đến Ukraine,” Gudziak nói, “để làm “một cơ sở để xây dựng chính sách cho tương lai.”

Ngày 19 tháng 11 đánh dấu 1.000 ngày kể từ cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine, khiến hàng trăm ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người phải di dời. Hôm thứ Ba, Ukraine đã sử dụng hỏa tiễn của Hoa Kỳ để tấn công sâu hơn vào lãnh thổ Nga, sau khi Tổng thống Joe Biden cho phép sử dụng như vậy.

Đức Cha Gudziak nói về cột mốc buồn này: “Đây là thời điểm để tang.”

“Có nỗi đau lớn và những vết thương lớn trong người dân chúng ta, trong Giáo hội của chúng ta,” ngài lưu ý. “Đồng thời, có lòng biết ơn lớn lao. Hầu hết các nhà quan sát quốc tế, và đặc biệt là Putin, nghĩ rằng Ukraine sẽ sụp đổ trong vòng ba ngày hoặc ba tuần. Và bây giờ, ba năm sau, người dân vẫn đứng vững, tiếp tục đứng vững, bảo vệ phẩm giá mà Chúa ban cho họ, tự do của họ, nền dân chủ của họ.”

Thiệt hại thảm khốc

Hàng trăm ngàn người đã thiệt mạng do cuộc xâm lược của Nga, với hơn 14 triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa. Tổng giám mục lưu ý rằng 4.000 trường học và 2.000 bệnh viện đã bị phá hủy.

“Có rất nhiều đau khổ, chấn thương lớn sẽ kéo dài,” Đức Cha Gudziak nói. “Nhưng cũng có cảm giác can đảm và biết ơn vì ân sủng của Chúa rằng Nga đã không xâm lược toàn bộ Ukraine và đất nước vẫn được tự do.”

Khi được hỏi về tình hình của người Công Giáo ở Ukraine, Đức Cha Gudziak cho biết rằng “đời sống công cộng của Giáo Hội Công Giáo gần như đã bị dập tắt” ở miền Đông Ukraine, nơi Nga đã xâm lược một số phần của ba khu vực.

“Hiện không có linh mục Công Giáo Ukraine nào hoạt động ở đó, và một số linh mục đã bị bắt cóc và tra tấn trong 18 tháng, những người đã được trả tự do vào mùa hè — họ cho thấy những vết sẹo của cuộc sống bị giam cầm ở Nga”, vị tổng giám mục cho biết.

“Đối với người Công Giáo, điều rõ ràng là sự xâm lược của Nga có nghĩa là [sẽ] dập tắt đời sống nhà thờ bình thường của chúng ta,” ngài nói tiếp.

Nhưng Đức Cha Gudziak lưu ý rằng các tổ chức bác ái Công Giáo đã cùng nhau hỗ trợ người dân Ukraine, bao gồm Caritas Ukraine, một tổ chức bác ái Công Giáo tại Ukraine.

“Các giám mục và linh mục đang có mặt, phục vụ mọi người, cử hành các bí tích, loan báo tin mừng, nhưng cũng rất tích cực tham gia vào công tác nhân đạo, giúp đỡ những người mất nhà cửa, tài sản, phân phát quần áo, thực phẩm, thúc đẩy chăm sóc y tế,” ngài nói.

“Điều rất quan trọng là Giáo hội nhắc nhở mọi người về phẩm giá mà Chúa ban cho họ, về sự thật rằng Chúa ở cùng họ, rằng từng sợi tóc trên đầu họ đều được đếm” và rằng đất nước đã trải qua “những trải nghiệm thậm chí còn đau thương hơn”, ngài nói.

“Trong Thế chiến II, giữa Đức Quốc xã và Liên Xô, 6 triệu đến 7 triệu cư dân Ukraine đã bị giết và toàn bộ đất nước bị tàn phá,” Đức Cha Gudziak nói tiếp. “Người dân Ukraine biết rằng họ đã sống qua cuộc đóng đinh và đã phục sinh trong quá khứ. Vì vậy, Giáo hội công bố Kerygma phục sinh này: Chúng ta mang thập giá của mình và Chúa sẽ ban cho chúng ta sự sống.”


Source:Catholic News Agency

2. Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine: Một ngàn ngày chiến tranh, số người chết ngày càng gia tăng

Đức Tổng Giám Mục Visvaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine, mô tả thực tại hằng ngày khó khăn của dân Ukraine, nhưng đồng thời cũng nhận ra những yếu tố hy vọng là sự liên đới: sự trợ giúp của những người thiện nguyện tại nước này là những dấu chỉ nhân đạo trong tăm tối của xung đột.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, nhân kỷ niệm một ngàn ngày chiến tranh tại Ukraine, giữa ảo tưởng nơi khả năng giải quyết của các tổ chức quốc tế và sự tín thác qua các hoạt động của một Giáo hội không ngừng vun trồng và phổ biến niềm hy vọng, cũng như gần gũi dân chúng đang đau khổ từ quá lâu vì sự gây hấn của quân Nga. Cuộc phỏng vấn diễn ra hôm trước ngày Nga tấn công ồ ạt trên toàn nước Ukraine bằng các hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa, đánh vào các cơ cấu hạ tầng, và làm cho nhiều người chết và bị thương.

Đức Sứ thần Tòa Thánh nhìn nhận rằng nhiều khi chỉ còn phương thế cầu nguyện là sức mạnh duy nhất, nhưng ngài rất tin tưởng lời cầu nguyện có thể làm phép lạ. Các mục tử ở cạnh các tín hữu của mình và điều này là một hồng ân của Giáo Hội Công Giáo cũng như của các Giáo hội khác, và các cộng đồng tín ngưỡng. Đức Tổng Giám Mục Kulbokas nói: “Tôi đã sống điều đó tại thành Kherson, khi nghe các câu chuyện của các linh mục ở lại với dân, như điểm tham chiếu cho dân chúng và vì thế, dân rất biết ơn các linh mục. Do vậy, việc ở lại với nhau là điều rất quan trọng. Ngoài ra, hoạt động của các linh mục tuyên úy quân đội cũng rất quan trọng, vì các quân nhân không biết ngày mai mình có còn sống hay không, và chính trong những trường hợp đó, câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống là rất quan trọng. Tôi đã nghe kể những người thiện nguyện mang thuốc men cho binh sĩ và thường nghe các quân nhân này nói rằng anh chị đối với tôi giống như Chúa Giêsu, vì anh chị đến tận đây để mang thuốc men cho tôi. Vì thế, tại những nơi đó có một cảm thức tình nhân đạo rất mạnh”.

3. Đức Hồng Y Gerhard Müller: Bảy Tội Chống Lại Chúa Thánh Thần: Một Thảm Kịch Thượng Hội Đồng

Trong một bài luận mạnh mẽ đăng trên tờ First Things với nhan đề “The Seven Sins Against the Holy Spirit: A Synodal Tragedy”, nghĩa là “Bảy Tội Chống Lại Chúa Thánh Thần: Một Thảm Kịch Thượng Hội Đồng”, Đức Hồng Y Gerhard Müller, cựu bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, lập luận rằng ý tưởng về một Giáo hội “đồng nghị” “ít nhất là một phần, nếu không muốn nói là hoàn toàn, là trái ngược với sự hiểu biết của Công Giáo về Giáo hội”.

Vị Hồng Y người Đức cáo buộc:

Các phe phái có động cơ thầm kín đã chiếm đoạt nguyên tắc đồng nghị truyền thống, nghĩa là sự hợp tác giữa các giám mục, hay tính đồng đoàn, và giữa tất cả các tín hữu và mục tử của Giáo hội, dựa trên chức tư tế chung của tất cả những người đã chịu phép rửa tội, để thúc đẩy chương trình nghị sự tiến bộ của họ.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

“Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh” (Kh 2:11). Đoạn Kinh Thánh này thường được trích dẫn để biện minh cho cái gọi là “Giáo hội đồng nghị”, một khái niệm ít nhất là một phần, nếu không muốn nói là hoàn toàn, trái ngược với sự hiểu biết của Công Giáo về Giáo hội. Các phe phái có động cơ thầm kín đã chiếm đoạt nguyên tắc truyền thống của tính đồng nghị, nghĩa là sự hợp tác giữa các giám mục, hay tính đồng đoàn, và giữa tất cả các tín hữu và mục tử của Giáo hội, dựa trên chức tư tế chung của tất cả những người đã chịu phép rửa tội, để thúc đẩy chương trình nghị sự tiến bộ của họ. Bằng cách thực hiện một bước ngoặt 180 độ, giáo lý, phụng vụ và đạo đức của Giáo Hội Công Giáo sẽ trở nên tương thích với một ý thức hệ thức thời tân ngộ đạo.

Chiến thuật của họ rất giống với chiến thuật của những người theo thuyết Ngộ đạo cổ đại, mà Thánh Irinê thành Lyon, người được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong làm Tiến sĩ Giáo hội, đã viết: “Bằng những suy luận có lý được xây dựng khéo léo của mình, họ lôi kéo tâm trí của những người thiếu kinh nghiệm và bắt họ làm tù binh... Những người này làm sai lệch các lời mạc khải của Chúa và chứng tỏ mình là những người giải thích xấu xa về lời mặc khải tốt lành. Bằng những suy luận có lý và có vẻ hợp lý, họ khéo léo dụ dỗ những người ngây thơ tìm hiểu về một sự hiểu biết đương đại hơn” cho đến khi những người ấy không thể “phân biệt được sự dối trá với sự thật” (Chống lại các tà thuyết, Sách I, Lời tựa). Sự mặc khải trực tiếp của Chúa được sử dụng như vũ khí để khiến cho việc tự tương đối hóa Giáo hội của Chúa Kitô trở nên có thể chấp nhận được, chẳng hạn như nói “mọi tôn giáo đều là con đường dẫn đến Chúa”. Sự giao tiếp trực tiếp giữa Chúa Thánh Thần và những người tham gia Thượng hội đồng được viện dẫn để biện minh cho những nhượng bộ giáo lý tùy tiện, chẳng hạn như “hôn nhân cho tất cả mọi người”; các viên chức giáo dân nắm giữ “quyền lực” của giáo hội; và việc phong chức phó tế nữ như một chiến tích trong cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ. Họ coi những điều này như là kết quả của một sự hiểu biết sâu sắc hơn, có thể vượt qua mọi sự phản đối từ giáo lý Công Giáo đã được thiết lập.

Nhưng bất kỳ ai, dưới chiêu bài kêu gọi sự soi sáng cá nhân và tập thể từ Chúa Thánh Thần, muốn tìm cách tương đối hóa giáo huấn của Giáo hội cho phù hợp với một ý thức hệ thù địch với mặc khải; và với sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối, đều có tội theo nhiều cách khác nhau, đó là “tội chống lại Chúa Thánh Thần” (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Điều này, như sẽ được giải thích dưới đây trong bảy khía cạnh khác nhau, không gì khác hơn là “sự chống đối với chân lý đã biết” khi “một người chống đối chân lý mà anh ta đã thừa nhận, để phạm tội một cách tự do hơn” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae II-II, q. 14, a. 2).

1. Tội thứ nhất: Bác bỏ Chúa Thánh Linh như một ngôi Thiên Chúa

Sẽ là tội lỗi đối với Chúa Thánh Thần nếu người ta không tuyên xưng Người là một ngôi Thiên Chúa, là Đấng hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con, là Thiên Chúa duy nhất, nhưng lại nhầm lẫn Người với một thần tính vô danh của các nghiên cứu tôn giáo tương đối, tinh thần dân gian tập thể của những người theo chủ nghĩa Lãng mạn, chủ nghĩa ý chính chung của Jean-Jacques Rousseau (tiếng Pháp: volonté générale, ý chí của đa số nhân dân) chủ nghĩa thế giới quan của Georg WF Hegel, hay phép biện chứng lịch sử của Karl Marx, và cuối cùng với các chủ nghĩa không tưởng chính trị, từ chủ nghĩa cộng sản đến chủ nghĩa siêu nhân vô thần.

2. Tội thứ hai: Bác bỏ Chúa Giêsu Kitô là sự mạc khải trọn vẹn của chân lý và ân sủng

Sẽ là tội lỗi đối với Chúa Thánh Thần nếu người ta diễn giải lại lịch sử giáo huấn Kitô giáo như một sự tiến hóa của mặc khải, được phản ánh trong các cấp độ nhận thức ngày càng cao trong giáo hội tập thể, thay vì tuyên xưng sự trọn vẹn vô song của ân sủng và chân lý trong Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên xác phàm (Ga 1:14–18).

Để chống lại những người theo thuyết ngộ đạo của mọi thời đại, Thánh Irinê thành Lyon, Tiến sĩ Hiệp Nhất, đã thiết lập một lần và mãi mãi, các tiêu chuẩn của khoa chú giải Kinh Thánh Công Giáo; theo đó, nhận thức luận về thần học phải dựa trên: Thứ nhất là Kinh thánh; thứ hai là truyền thống tông đồ; và thứ ba là thẩm quyền giảng dạy của các giám mục nhờ vào sự kế vị tông đồ.

Theo phép loại suy giữa hữu thể và đức tin, các chân lý được mặc khải của đức tin không bao giờ có thể mâu thuẫn với lý trí tự nhiên, nhưng có thể (và thực sự) xung đột với sự lạm dụng về mặt ý thức hệ của nó. Không có những hiểu biết khoa học mới nào, là những điều luôn luôn có thể sai lầm về nguyên tắc, lại có thể vượt qua các chân lý của sự mặc khải siêu nhiên và luật luân lý tự nhiên, là những điều luôn luôn không thể sai lầm tự bản chất bên trong của chúng. Do đó, Đức Giáo Hoàng không thể thực hiện hoặc làm thất vọng những hy vọng về sự thay đổi trong các học thuyết được mặc khải của đức tin, bởi vì “chức vụ giảng dạy của ngài không cao hơn lời Chúa, nhưng phục vụ lời Chúa, và chỉ giảng dạy những gì đã được truyền lại” (Dei Verbum, 10).

Mô hình duy nhất và vĩnh cửu về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa luôn luôn vẫn là Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, đầy ân sủng và chân lý (Ga 1:14–18). Trái ngược với ảo tưởng về sự vượt trội về mặt trí tuệ của những người theo thuyết ngộ đạo cũ và mới với niềm tin của họ vào sự tự sáng tạo và tự cứu chuộc của con người, Giáo hội khẳng định chung cuộc rằng Chúa Giêsu Kitô là chân lý trọn vẹn của Thiên Chúa trong một “sự mới mẻ” không ai có thể vượt qua (Irenaeus of Lyon, Against Heresies, Book IV, 34, 1). Bởi vì: “Không có sự cứu rỗi trong bất kỳ ai khác, vì dưới gầm trời này, không có danh nào khác được ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Cv 4:12).

3. Tội thứ ba: Chống lại sự hiệp nhất của Hội Thánh trong Chúa Kitô

Thật là tội lỗi chống lại Chúa Thánh Thần khi sự hiệp nhất của Giáo hội trong việc giảng dạy đức tin bị phó mặc cho sự tùy tiện và sự thiếu hiểu biết của các hội đồng giám mục địa phương, những người được cho là phát triển về mặt giáo lý ở các tốc độ khác nhau, dưới chiêu bài gọi là phi tập trung. Thánh Irênê thành Lyon tuyên bố chống lại những người theo thuyết Ngộ đạo: “Mặc dù bị phân tán khắp thế giới, thậm chí đến tận cùng trái đất... Giáo Hội Công Giáo sở hữu một đức tin duy nhất trên toàn thế giới” (Irenaeus of Lyon, Against Heresies, Book I, 10, 1–3).

Sự hiệp nhất của Giáo hội hoàn vũ “trong cùng một thân thể và một Thánh Linh” được đặt nền tảng trên phương diện Kitô học và Bí tích. Vì: “một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Eph. 4:5–6). Và thật là trái ngược với cùng một “sự hiệp nhất của Thánh Linh” (Eph. 4:3) khi lôi kéo những người mang sứ mệnh chung của Giáo hội (giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ) vào cuộc đấu tranh giành “quyền lực” theo nghĩa chính trị, thay vì nắm bắt rằng Chúa Thánh Linh thực hiện sự hợp tác hài hòa của họ. Mỗi người chúng ta cần “phải sống sự thật trong tình yêu thương trong mọi cách để vươn tới Đức Kitô, Đấng là đầu” (Eph. 4:15).

4. Tội thứ tư: Bác bỏ chức giám mục như một định chế của quyền thiêng liêng

Đây là tội chống lại Chúa Thánh Thần, Đấng đã bổ nhiệm các giám mục và linh mục làm mục tử của Hội thánh Chúa (Công vụ 20:28), phế truất họ, hoặc thậm chí thế tục hóa họ, hoàn toàn theo ý muốn cá nhân, mà không có một tiến trình giáo luật. Các tiêu chuẩn khách quan để có thể đưa ra các biện pháp kỷ luật đối với các giám mục và linh mục là khi các vị ấy bội giáo, ly giáo, lạc giáo, có hành vi sai trái về mặt đạo đức, lối sống cực kỳ vô thần và rõ ràng là không có năng lực để đảm nhiệm chức vụ. Điều này đặc biệt đúng đối với việc lựa chọn các giám mục tương lai khi ứng viên được bổ nhiệm mà không được xem xét cẩn thận, không “nắm vững lời đáng tin cậy theo giáo huấn (sana doctrina)” (Titus 1:9).

5. Tội thứ năm: Chống lại luật đạo đức tự nhiên và các giá trị không thể thương lượng

Thật là tội lỗi với Chúa Thánh Thần khi các giám mục và nhà thần học chỉ ủng hộ Đức Giáo Hoàng một cách cơ hội công khai khi ngài ủng hộ các sở thích về ý thức hệ của họ. Không ai có thể im lặng khi bảo vệ quyền sống của mỗi cá nhân từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên. Vì giáo hoàng là người giải thích chân thực nhất về luật đạo đức tự nhiên trên trái đất, trong đó lời Chúa và sự khôn ngoan của Chúa chiếu sáng trong sự tồn tại và bản thể của tạo vật (Ga 1:3). Nếu luật đạo đức tự nhiên, hiển nhiên trong lương tâm của mỗi con người (Rô-ma 2:14), không hình thành nguồn gốc và tiêu chuẩn để phán xét các luật lệ của nhà nước, là những điều luôn có thể sai lầm, thì quyền lực chính trị sẽ trượt vào chủ nghĩa toàn trị, chà đạp lên những quyền con người tự nhiên mà lẽ ra phải hình thành nền tảng của mọi xã hội dân chủ và nhà nước lập hiến. Đây là điều mà Đức Giáo Hoàng Piô XI đã tuyên bố trong thông điệp Mit Brennender Sorge, năm 1937, chống lại Luật chủng tộc Nuremberg có hiệu lực pháp lý chính thức của nhà nước Đức: “Chính trong ánh sáng của các lệnh truyền của luật tự nhiên này, mà mọi luật pháp tích cực, bất kể người lập pháp là ai, đều phải được đánh giá theo nội dung đạo đức của nó, và do đó, theo thẩm quyền mà nó nắm giữ trên lương tâm. Luật pháp của con người mâu thuẫn trắng trợn với luật tự nhiên sẽ là một vết nhơ mà không có sức mạnh, không có quyền lực nào có thể tẩy sạch được” (Mit Brennender Sorge, 30).

6. Tội thứ sáu: Phủ nhận Giáo Hội như là bí tích hiệp nhất nhân loại

Thật là tội lỗi với Chúa Thánh Thần khi sự chia rẽ về chính trị và ý thức hệ của xã hội kể từ thời Khai sáng Âu Châu và Cách mạng Pháp được đưa vào triết lý phục hồi hoặc cách mạng về lịch sử; và khi vì đó mà Giáo hội duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền bị tê liệt bởi sự chia rẽ nội bộ giữa các phe phái “tiến bộ” và “bảo thủ”.

Vì Giáo hội trong Chúa Kitô không chỉ là bí tích của sự hiệp thông mật thiết nhất giữa nhân loại với Thiên Chúa, mà còn là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất nhân loại trong mục đích tự nhiên và siêu nhiên của nó (Lumen Gentium, 1).

Sự phân định về đàng thiêng liêng không được thực hiện với mục đích chính trị, mà là về mặt thần học, liên quan đến chân lý của mặc khải, được trình bày trong giáo lý đức tin bất khả ngộ của Giáo hội. Do đó, tiêu chuẩn khách quan của đức tin Công Giáo là tính chính thống trái ngược với tà giáo, và càng không phải là ý chí chủ quan để bảo tồn hoặc thay đổi các khía cạnh văn hóa ngẫu nhiên.

Với lễ kỷ niệm 1700 năm sắp tới của Công đồng Nicê (năm 325), chúng ta có thể ghi nhớ phương châm sau: Thà đi lưu vong năm lần với Thánh Athanasiô còn hơn nhượng bộ dù chỉ một chút với những người theo thuyết Ariô.

7. Tội thứ bảy: Bác bỏ bản chất siêu nhiên của Kitô giáo, và sử dụng Kitô giáo cho mục đích thế gian

Tội lỗi phổ biến nhất chống lại Chúa Thánh Thần là khi nguồn gốc và bản chất siêu nhiên của Kitô giáo bị phủ nhận để buộc Giáo hội của Thiên Chúa Ba Ngôi phải tuân theo các mục tiêu và mục đích của một dự án cứu rỗi thế gian, dù đó là sự trung hòa khí hậu theo chủ nghĩa xã hội sinh thái hay Chương trình nghị sự 2030 của “giới tinh hoa toàn cầu”.

Bất kỳ ai thực sự muốn lắng nghe những gì Thánh Linh đang nói với Giáo hội sẽ không dựa vào những cảm hứng duy linh và những lời sáo rỗng về ý thức hệ thức thời, nhưng sẽ đặt tất cả niềm tin của mình, trong cuộc sống và cái chết, chỉ vào Chúa Giêsu, Con của Chúa Cha và Đấng được xức dầu của Chúa Thánh Thần. Chỉ một mình Ngài đã hứa với các môn đệ của mình về Chúa Thánh Thần của chân lý và tình yêu cho đến muôn đời: “Những ai yêu mến Ta sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu thương họ, và Chúng Ta sẽ đến với họ và ở với họ.... Nhưng Đấng Bảo Trợ, là Chúa Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, sẽ dạy các con mọi điều, và nhắc nhở các con mọi điều Ta đã nói với các con” (Ga 14:23–26).


Source:First Things