Theo tin Tòa Thánh, Sáng nay, 1 tháng 8, 2024, tại Sảnh Phép lành, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp kiến các thành viên của Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa thánh để trao đổi lời chúc mừng năm mới.

Sau lời giới thiệu của Trưởng Ngoại giao đoàn, Ngài Georges Poulides, Đại sứ Cộng hòa Síp tại Tòa thánh, Đức Giáo Hoàng đã có bài phát biểu sau đây:

Thưa quý vị, thưa quý bà và quý ông,

Tôi vui mừng được chào đón quý vị sáng nay và gửi lời chào riêng của tôi cũng như những lời chúc tốt đẹp cho Năm Mới. Một cách đặc biệt, tôi cảm ơn Ngài Đại sứ George Poulides, Trưởng đoàn Ngoại giao, vì những lời nói nhân ái, thể hiện một cách hùng hồn mối quan tâm của cộng đồng quốc tế vào đầu một năm mà chúng ta hy vọng là một năm hòa bình, nhưng thay vào đó đã lộ diện giữa những xung đột và chia rẽ.

Cuộc gặp gỡ của chúng ta là một dịp thích hợp để tôi cảm ơn quý vị vì những nỗ lực của quý vị nhằm thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và các quốc gia tương ứng của quý vị. Năm ngoái, “gia đình ngoại giao” của chúng ta thậm chí còn trở nên lớn mạnh hơn nhờ việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Vương quốc Oman và việc bổ nhiệm Đại sứ đầu tiên của nước này có mặt tại đây.

Ở đây tôi xin lưu ý rằng Tòa Thánh hiện đã bổ nhiệm một Đại diện Giáo hoàng thường trú tại Hà Nội, sau khi ký kết thỏa thuận liên hệ về tư cách của Đại diện Giáo hoàng vào tháng 7 năm ngoái. Đây là dấu hiệu cho thấy ý định theo đuổi tiến trình đã được khởi xướng trên tinh thần tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, cũng nhờ vào những liên hệ thường xuyên ở bình diện định chế và hợp tác với Giáo hội địa phương.

Năm 2023 cũng chứng kiến việc phê chuẩn Thỏa thuận bổ sung cho Thỏa thuận ngày 24 tháng 9 năm 1998 giữa Tòa thánh và Kazakhstan về quan hệ hỗ tương, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện và hoạt động của các cơ quan mục vụ ở quốc gia đó. Năm vừa qua cũng đánh dấu việc cử hành những ngày kỷ niệm quan trọng: kỷ niệm 100 năm quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Panama, kỷ niệm 70 năm quan hệ với Cộng hòa Hồi giáo Iran, 60 năm quan hệ với Hàn Quốc, và 50 năm quan hệ ngoại giao với Úc.

Kính thưa các Đại sứ,

Một chữ đặc biệt vang lên trong hai ngày lễ chính của Kitô giáo. Chúng ta nghe thấy điều đó trong bài hát của các thiên thần đã loan báo trong đêm Đấng Cứu Thế giáng sinh, và chúng ta nghe thấy điều đó một lần nữa trong lời chào của Chúa Giêsu phục sinh. Chữ đó là “hòa bình”. Hòa bình trước hết là một món quà của Thiên Chúa, vì chính Người đã để lại cho chúng ta sự bình an của Người (x. Ga 14: 27). Tuy nhiên, đó cũng là một trách nhiệm mà tất cả chúng ta phải mang vác: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” (Mt 5:9). Phấn đấu cho hòa bình. Một chữ rất đơn giản nhưng lại rất đòi hỏi và giàu ý nghĩa. Hôm nay tôi muốn tập trung suy tư của chúng ta về hòa bình, vào một thời điểm trong lịch sử khi nó ngày càng bị đe dọa, suy yếu và một phần bị mất đi. Về vấn đề này, trách nhiệm của Tòa Thánh trong cộng đồng quốc tế là trở thành tiếng nói tiên tri và kêu gọi lương tâm.

Vào đêm Giáng sinh năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã gửi một Thông điệp vô tuyến đáng nhớ tới các dân tộc trên thế giới. Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc sau hơn 5 năm xung đột và nhân loại cảm nhận được – theo cách nói của Đức Giáo Hoàng– “một ý chí rõ ràng và vững chắc hơn bao giờ hết: biến cuộc chiến tranh thế giới này, biến biến động hoàn cầu này thành điểm khởi đầu cho một kỷ nguyên mới được đánh dấu bằng sự đổi mới sâu xa”.[1] Khoảng 80 năm sau, động lực cho “sự đổi mới sâu xa” đó dường như đã rút đi và thế giới của chúng ta đang chứng kiến ngày càng nhiều xung đột đang dần biến điều mà tôi thường gọi là “một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba diễn ra từng phần” thành một cuộc xung đột hoàn cầu thực sự.

Ở đây, trước sự hiện diện của quý vị, tôi không thể không nhắc lại mối quan tâm sâu xa của tôi đối với các sự kiện đang diễn ra ở Palestine và Israel. Tất cả chúng ta vẫn còn bị sốc trước cuộc tấn công vào người dân Israel ngày 7 tháng 10, trong đó rất nhiều người vô tội bị thương, bị tra tấn và sát hại khủng khiếp, và nhiều người bị bắt làm con tin. Tôi nhắc lại sự lên án của mình đối với hành động này và mọi trường hợp khủng bố và cực đoan. Đây không phải là cách giải quyết tranh chấp giữa các dân tộc; những tranh chấp đó chỉ càng trầm trọng hơn, gây đau khổ cho mọi người. Quả thực, cuộc tấn công đã gây ra phản ứng quân sự mạnh mẽ của Israel ở Gaza, dẫn đến cái chết của hàng chục nghìn người Palestine, chủ yếu là dân thường, trong đó có nhiều thanh thiếu niên và trẻ em, đồng thời gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo đặc biệt nghiêm trọng và những đau khổ không thể tưởng tượng được.

Với tất cả các bên liên quan, tôi nhắc lại lời kêu gọi ngừng bắn trên mọi mặt trận, bao gồm cả Lebanon và giải phóng ngay lập tức tất cả các con tin bị giam giữ ở Gaza. Tôi yêu cầu người dân Palestine nhận được viện trợ nhân đạo và các bệnh viện, trường học và nơi thờ phượng nhận được mọi sự bảo vệ cần thiết.

Tôi hy vọng rằng cộng đồng quốc tế sẽ quyết tâm theo đuổi giải pháp cho hai quốc gia, một Israel và một Palestine, cũng như một quy chế đặc biệt được quốc tế đảm bảo cho Thành phố Jerusalem, để người Israel và người Palestine cuối cùng có thể sống trong hòa bình và an ninh.

Cuộc xung đột hiện nay ở Gaza càng làm mất ổn định thêm khu vực mong manh và đầy căng thẳng. Đặc biệt, chúng ta không thể quên người dân Syria, đang sống trong tình trạng bất ổn kinh tế và chính trị trầm trọng hơn sau trận động đất hồi tháng Hai năm ngoái. Mong cộng đồng quốc tế khuyến khích các bên liên quan thực hiện một cuộc đối thoại mang tính xây dựng và nghiêm túc cũng như tìm kiếm các giải pháp mới, để người dân Syria không còn phải chịu đau khổ do các lệnh trừng phạt quốc tế nữa.
Ngoài ra, tôi bày tỏ sự đau buồn sâu sắc đối với hàng triệu người tị nạn Syria vẫn còn hiện diện ở các nước láng giềng như Jordan và Lebanon.

Tôi đặc biệt nghĩ đến người dân Lebanon thân yêu và bày tỏ mối quan tâm của tôi đối với tình hình kinh tế và xã hội mà họ đang trải qua. Tôi hy vọng rằng tình trạng bế tắc về định chế vốn càng đè nặng thêm lên họ sẽ được giải quyết và Vùng đất Tuyết tùng (Cedars) sẽ sớm có Tổng thống.

Vẫn về lục địa Á Châu, tôi cũng kêu gọi sự chú ý của cộng đồng quốc tế đến Myanmar và khẩn cầu rằng mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để mang lại niềm hy vọng cho vùng đất này và một tương lai xứng đáng cho giới trẻ của nó, đồng thời không bỏ qua tình trạng nhân đạo khẩn cấp mà người Rohingya tiếp tục trải qua.

Bên cạnh những tình huống phức tạp này, cũng có những dấu hiệu hy vọng, như tôi đã trải nghiệm được trong chuyến hành trình đến Mông Cổ, với chính quyền của họ, một lần nữa tôi bày tỏ lòng biết ơn vì sự đón tiếp của họ. Tôi cũng muốn cảm ơn chính quyền Hungary vì sự hiếu khách mà tôi đã nhận được trong chuyến thăm đất nước này vào tháng 4 năm ngoái. Đó là một cuộc hành trình vào trung tâm Châu Âu, giàu lịch sử và văn hóa, nơi tôi cảm nhận được tình cảm của nhiều người, nhưng cũng cảm nhận được sự gần gũi một cuộc xung đột mà chúng ta coi là không thể tưởng tượng được ở Châu Âu của thế kỷ XXI.

Đáng buồn thay, sau gần hai năm chiến tranh quy mô lớn do Liên bang Nga tiến hành chống lại Ukraine, nền hòa bình vô cùng mong muốn vẫn chưa thể bén rễ trong tâm trí, bất chấp số lượng nạn nhân rất lớn và sự tàn phá nặng nề. Người ta không thể cho phép sự tồn tại dai dẳng của một cuộc xung đột tiếp tục lan rộng, gây tổn hại cho hàng triệu người; cần phải chấm dứt thảm kịch hiện nay thông qua đàm phán, tôn trọng luật pháp quốc tế.

Tôi cũng bày tỏ mối quan ngại của mình đối với tình hình căng thẳng ở Nam dẫy Caucasus giữa Armenia và Azerbaijan, đồng thời kêu gọi các bên tiến tới ký kết một hiệp ước hòa bình. Điều cấp bách là phải tìm ra giải pháp cho tình hình nhân đạo bi thảm của những người sống trong khu vực đó, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho những người tị nạn trở về quê hương của họ một cách hợp pháp và an ninh cũng như tôn trọng những nơi thờ phượng của các tôn giáo khác nhau hiện diện ở đó. Những bước đi này sẽ góp phần xây dựng bầu không khí tin cậy giữa hai nước, hướng tới nền hòa bình vô cùng mong muốn.

Hướng ánh nhìn về Châu Phi, chúng ta đang chứng kiến sự đau khổ của hàng triệu người do vô số cuộc khủng hoảng nhân đạo mà nhiều quốc gia vùng cận Sahara phải trải qua do chủ nghĩa khủng bố quốc tế, các vấn đề chính trị xã hội phức tạp và những tác động tàn khốc do biến đổi khí hậu gây ra. Thêm vào đó là những ảnh hưởng của các cuộc đảo chính quân sự đã xảy ra ở một số quốc gia và một số quy trình bầu cử được đánh dấu bằng tham nhũng, đe dọa và bạo lực.
Đồng thời, tôi nhắc lại lời kêu gọi của mình về những nỗ lực nghiêm túc từ phía tất cả những người tham gia vào việc áp dụng Thỏa thuận Pretoria tháng 11 năm 2022 nhằm chấm dứt tình trạng thù địch ở Tigray. Tương tự như vậy, để theo đuổi các giải pháp chuyên biệt cho những căng thẳng và bạo lực đang tấn công Ethiopia, cũng như cho cuộc đối thoại, hòa bình và ổn định giữa các quốc gia vùng Sừng Châu Phi.

Tôi cũng muốn nhắc đến những biến cố bi thảm ở Sudan, nơi đáng buồn sau nhiều tháng nội chiến không có lối thoát, cũng như hoàn cảnh của những người tị nạn ở Cameroon, Mozambique, Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Tôi đã vui mừng được đến thăm hai quốc gia vừa kể vào đầu năm ngoái, như một dấu hiệu cho thấy sự gần gũi của tôi với những người dân đang đau khổ của họ, mặc dù trong những bối cảnh và hoàn cảnh khác nhau. Tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới chính quyền của cả hai nước vì những nỗ lực của họ trong việc tổ chức những chuyến thăm này và vì lòng hiếu khách của họ. Cuộc hành trình của tôi đến Nam Sudan cũng mang hương vị đại kết, vì tôi được tham gia cùng với Đức Tổng Giám Mục Canterbury và Vị điều hành Đại hội đồng Giáo hội Scotland, như một dấu chỉ cam kết chung của các cộng đồng giáo hội của chúng ta đối với hòa bình và hòa giải.

Mặc dù không có chiến tranh công khai ở châu Mỹ, nhưng căng thẳng nghiêm trọng vẫn tồn tại giữa một số quốc gia, chẳng hạn như Venezuela và Guyana, trong khi ở những quốc gia khác, chẳng hạn như Peru, chúng ta thấy có dấu hiệu phân cực làm tổn hại đến sự hài hòa xã hội và làm suy yếu thể chế dân chủ.

Tình hình ở Nicaragua vẫn còn rắc rối: một cuộc khủng hoảng kéo dài với những hậu quả đau đớn đối với toàn thể xã hội Nicaragua và đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo. Tòa Thánh tiếp tục khuyến khích một cuộc đối thoại ngoại giao tôn trọng vì lợi ích của người Công Giáo và toàn thể người dân.

Thưa quý vị, thưa quý bà và quý ông,

Trong bối cảnh mà tôi đã phác họa mà không có bất cứ cao vọng đầy đủ nào, chúng ta thấy một thế giới ngày càng bị xé nát, nhưng thậm chí còn hơn thế nữa, hàng triệu người - đàn ông, đàn bà, cha, mẹ, con cái- mà khuôn mặt của họ phần lớn chúng ta không biết đến, và thường xuyên bị làm ngơ.

Hơn nữa, các cuộc chiến tranh hiện đại không còn chỉ diễn ra trên những chiến trường được xác định rõ ràng, cũng không chỉ liên quan đến binh lính. Trong bối cảnh mà dường như sự khác biệt giữa các mục tiêu quân sự và dân sự không còn được tôn trọng, thì không có cuộc xung đột nào mà không kết thúc bằng cách nào đó tấn công dân thường một cách bừa bãi. Các sự kiện ở Ukraine và Gaza là bằng chứng rõ ràng cho điều này. Chúng ta không được quên rằng những vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế là tội ác chiến tranh, và việc vạch mặt chúng là chưa đủ mà còn cần phải ngăn chặn chúng. Do đó, cần có nỗ lực lớn hơn từ phía cộng đồng quốc tế để bảo vệ và thực thi luật nhân đạo, vốn dường như là cách duy nhất để bảo đảm việc bảo vệ phẩm giá con người trong các tình huống chiến tranh.

Vào đầu năm nay, lời khuyên của Công đồng Vatican II trong Gaudium et Spes dường như đặc biệt hợp thời: “Về vấn đề chiến tranh, có nhiều công ước quốc tế khác nhau, được nhiều quốc gia ký kết, nhằm mục đích làm cho hành động quân sự và hậu quả của nó bớt vô nhân đạo hơn. … Những thỏa thuận này phải được tôn trọng; thực sự các cơ quan công quyền và chuyên gia trong những vấn đề này phải làm tất cả trong khả năng của họ để cải thiện những công ước này và do đó mang lại sự kiềm chế tốt hơn và hiệu quả hơn sự tàn khốc của chiến tranh”.[2]

Có lẽ chúng ta cần nhận thức rõ ràng hơn rằng nạn nhân dân sự không phải là “thiệt hại tài sản gián tiếp hàng ngang” mà là những người đàn ông, đàn bà, có họ tên, đang thiệt mạng. Họ là những đứa trẻ mồ côi và bị tước đoạt tương lai. Họ là những cá nhân phải chịu đói, khát và lạnh, hoặc bị què quặt do sức mạnh của chất nổ hiện đại. Nếu chúng ta có thể nhìn thẳng vào mắt từng người, gọi tên họ và tìm hiểu điều gì đó về lịch sử bản thân của họ, chúng ta sẽ thấy chiến tranh thực sự là như thế nào: không gì khác hơn là một thảm kịch to lớn, một “cuộc tàn sát vô ích”,[ 3] một điều xúc phạm phẩm giá của mỗi con người trên trái đất này.

Tuy nhiên, các cuộc chiến vẫn có thể tiếp tục nhờ vào kho vũ khí khổng lồ sẵn có. Cần phải theo đuổi chính sách giải trừ vũ khí, vì thật là viển vông khi nghĩ rằng vũ khí có giá trị răn đe. Điều ngược lại mới đúng: sự sẵn có của vũ khí sẽ khuyến khích việc sử dụng chúng và tăng cường sản xuất chúng. Vũ khí tạo ra sự ngờ vực và chuyển hướng nguồn lực. Có bao nhiêu sinh mạng có thể được cứu với những nguồn tài nguyên mà ngày nay đang bị sử dụng sai mục đích cho vũ khí? Sẽ tốt hơn nếu đầu tư những nguồn lực đó để theo đuổi an ninh hoàn cầu thực sự? Những thách thức của thời đại chúng ta vượt qua biên giới, như chúng ta thấy từ hàng loạt cuộc khủng hoảng – về lương thực, môi trường, nền kinh tế và chăm sóc sức khỏe – đã đánh dấu sự khởi đầu của thế kỷ này. Ở đây tôi nhắc lại đề xuất của mình là thành lập một quỹ hoàn cầu để cuối cùng loại bỏ nạn đói[4] và thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn hành tinh.

Trong số những mối đe dọa do những công cụ giết người này gây ra, tôi không thể không nhắc đến những mối đe dọa do kho vũ khí hạt nhân tạo ra và sự phát triển của các loại vũ khí hủy diệt và tinh vi hơn. Ở đây, một lần nữa, tôi khẳng định sự vô đạo đức của việc sản xuất và sở hữu vũ khí hạt nhân. Về vấn đề này, tôi bày tỏ hy vọng rằng các cuộc đàm phán sẽ được nối lại trong thời gian sớm nhất có thể để khởi động lại Kế hoạch hành động toàn diện chung, hay còn được gọi là “Thỏa thuận hạt nhân Iran”, để đảm bảo một tương lai an toàn hơn cho tất cả mọi người.

Tuy nhiên, để theo đuổi hòa bình, việc loại bỏ các phương tiện chiến tranh thôi thì chưa đủ; nguyên nhân gốc rễ của nó phải được loại bỏ. Đầu tiên trong số này là nạn đói, một tai họa tiếp tục gây đau khổ cho toàn bộ khu vực trên thế giới của chúng ta trong khi những khu vực khác lại bị đánh dấu bởi sự lãng phí lương thực khổng lồ. Sau đó là việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm giàu cho một số ít người trong khi khiến toàn bộ người dân, những người được hưởng lợi tự nhiên từ các tài nguyên này, rơi vào tình trạng cơ cực và nghèo đói. Gắn liền với điều này là tình trạng bóc lột những người bị buộc phải làm việc với mức lương thấp và thiếu triển vọng thực sự để phát triển nghề nghiệp.

Nguyên nhân của xung đột còn bao gồm thiên tai và thảm họa môi trường. Chắc chắn có những thảm họa mà con người không thể kiểm soát được. Tôi nghĩ đến các trận động đất gần đây ở Maroc và Trung Quốc đã cướp đi hàng trăm nạn nhân, cũng như trận động đất nghiêm trọng xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ và một phần Syria, gây ra nhiều thương vong và tàn phá khủng khiếp. Tôi cũng nghĩ đến trận lũ lụt tấn công Derna ở Libya, đã phá hủy thành phố một cách hữu hiệu, nhất là vì sự sụp đổ đồng thời của hai con đập.

Tuy nhiên, cũng có những thảm họa do hoạt động của con người hoặc do sự thờ ơ của con người và góp phần nghiêm trọng vào cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay, chẳng hạn như nạn phá rừng Amazon, “lá phổi xanh” của trái đất.

Khủng hoảng khí hậu và môi trường là chủ đề của Hội nghị lần thứ 28 các bên tham gia Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) được tổ chức vào tháng trước tại Dubai. Tôi rất tiếc vì không thể đích thân tham gia. Hội nghị bắt đầu cùng với thông báo của Tổ chức Khí tượng Thế giới rằng năm 2023 là năm ấm nhất được ghi nhận so với 174 năm trước đó. Cuộc khủng hoảng khí hậu đòi hỏi một phản ứng ngày càng cấp bách và sự tham gia đầy đủ của tất cả mọi người, bao gồm cả cộng đồng quốc tế nói chung.[5]

Việc thông qua văn kiện cuối cùng tại COP28 thể hiện một bước tiến đáng khích lệ; nó cho thấy rằng, trước nhiều cuộc khủng hoảng ngày nay, chủ nghĩa đa phương có thể được đổi mới thông qua việc quản lý vấn đề khí hậu hoàn cầu trong một thế giới nơi các vấn đề môi trường, xã hội và chính trị có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tại COP28, rõ ràng là thập niên hiện tại rất quan trọng để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Chăm sóc công trình sáng tạo và hòa bình “là những vấn đề cấp bách nhất và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau”.[6] Vì lý do này, tôi bày tỏ hy vọng rằng những gì được thông qua ở Dubai sẽ dẫn đến “sự tăng tốc mang tính quyết định của quá trình hoán cải sinh thái, thông qua các phương tiện… [cần] đạt được trong bốn lĩnh vực: hiệu năng năng lượng; các nguồn tài nguyên có thể tái tạo; việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch; và giáo dục về lối sống ít phụ thuộc hơn vào loại nhiên liệu vừa kể.[7]

Chiến tranh, nghèo đói, việc ngược đãi ngôi nhà chung của chúng ta và việc liên tục khai thác tài nguyên, dẫn đến thiên tai, cũng khiến hàng ngàn người phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm một tương lai hòa bình và an ninh. Trong cuộc hành trình, họ liều mạng dọc theo những tuyến đường nguy hiểm, như những tuyến đường xuyên qua sa mạc Sahara, trong rừng Darién ở biên giới giữa Colombia và Panama ở Trung Mỹ, ở phía bắc Mexico ở biên giới với Hoa Kỳ, và trên hết là trên biển Địa Trung Hải. Đáng buồn thay, trong mười năm qua, Địa Trung Hải đã trở thành một nghĩa trang lớn, khi những thảm kịch tiếp tục xảy ra do những kẻ buôn người vô lương tâm. Chúng ta đừng quên rằng con số lớn các nạn nhân bao gồm nhiều trẻ vị thành niên không có người đi cùng.

Thay vào đó, Địa Trung Hải phải là một phòng thí nghiệm hòa bình, “nơi mà các quốc gia và thực tại khác nhau có thể gặp nhau trên cơ sở tình người mà tất cả chúng ta đều chia sẻ”.[8] Tôi muốn nhấn mạnh điều này ở Marseille, trong chuyến tông du Rencontres Méditerranéennes (Gặp Gỡ Địa Trung Hải) và tôi biết ơn những người tổ chức và chính quyền Pháp đã biến chuyến đi đó thành khả hữu. Đối diện với một thảm kịch to lớn như vậy, cuối cùng chúng ta có thể dễ dàng khép kín trái tim mình, cố thủ trong nỗi sợ hãi về một “cuộc xâm lược”. Chúng ta nhanh chóng quên rằng chúng ta đang đối xử với những con người có khuôn mặt và tên tuổi, và chúng ta bỏ qua ơn gọi cụ thể của vùng này, vùng “biển của chúng ta” (mare nostrum), không phải là một ngôi mộ mà là nơi gặp gỡ và làm phong phú lẫn nhau giữa các cá nhân, các dân tộc và các nền văn hóa. Điều này không làm mất đi sự kiện này là việc di cư cần được qui định để chấp nhận, cổ vũ, đồng hành và hội nhập những người di cư, đồng thời tôn trọng văn hóa, sự nhạy cảm và an ninh của những dân tộc có trách nhiệm đối với việc chấp nhận và hội nhập đó. Tương tự, chúng ta cần nhấn mạnh đến quyền của mọi người được ở lại quê hương và nhu cầu tương ứng là tạo điều kiện để thực thi quyền này một cách hữu hiệu.

Khi đối diện với thách thức này, không quốc gia nào được để một mình, cũng như không quốc gia nào có thể nghĩ đến việc giải quyết vấn đề một cách cô lập, thông qua luật pháp hạn chế và đàn áp hơn được thông qua đôi khi dưới áp lực của sự sợ hãi hoặc để theo đuổi sự đồng thuận bầu cử. Về phương diện này, tôi hoan nghênh cam kết của Liên minh Châu Âu trong việc tìm kiếm một giải pháp chung thông qua việc thông qua Hiệp ước mới về Di cư và Tị nạn, đồng thời lưu ý một số hạn chế của nó, đặc biệt liên quan đến việc công nhận quyền tị nạn và nguy cơ bị giam giữ tùy tiện.

Kính thưa các Đại sứ,

Con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng sự sống, sự sống của mỗi con người, bắt đầu từ sự sống của thai nhi trong bụng mẹ, sự sống không thể bị đàn áp hoặc biến thành đối tượng buôn bán. Về vấn đề này, tôi thấy thật đáng trách về việc thực hành điều gọi là làm mẹ thay thế, một hành vi vi phạm nghiêm trọng phẩm giá của người phụ nữ và trẻ em, dựa trên việc khai thác những hoàn cảnh nhu cầu vật chất của người mẹ. Một đứa trẻ luôn là một món quà và không bao giờ là nền tảng của một hợp đồng thương mại. Do đó, tôi bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực ngăn cấm thực hành này trên toàn thế giới. Trong mọi thời điểm hiện hữu của nó, sự sống con người phải được bảo tồn và bảo vệ; tuy nhiên tôi lưu ý với sự tiếc nuối, đặc biệt là ở phương Tây, sự lan rộng liên tục của một nền văn hóa sự chết, nhân danh lòng thương xót giả tạo, loại bỏ trẻ em, người già và người bệnh.

Con đường dẫn tới hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng nhân quyền, phù hợp với công thức đơn giản nhưng rõ ràng trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà chúng ta vừa kỷ niệm 75 năm. Những nguyên tắc này là hiển nhiên và được chấp nhận rộng rãi. Đáng tiếc là trong những thập niên gần đây đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra các quyền mới nhưng không hoàn toàn phù hợp với những quyền được xác định ban đầu và cũng không phải lúc nào cũng được chấp nhận. Chúng đã dẫn đến những trường hợp thuộc địa hóa về mặt ý thức hệ, trong đó lý thuyết giới tính đóng vai trò trung tâm; điều vừa kể cực kỳ nguy hiểm vì trong chủ trương của mình, nó hủy bỏ những khác biệt nhằm biến mọi người thành bình đẳng như nhau. Những trường hợp thực dân hóa ý thức hệ này tỏ ra có hại và tạo ra sự chia rẽ giữa các quốc gia, thay vì thúc đẩy hòa bình.

Mặt khác, đối thoại phải là linh hồn của cộng đồng quốc tế. Tình hình hiện nay cũng là kết quả của sự suy yếu của các cấu trúc ngoại giao đa phương nảy sinh sau Thế chiến thứ hai. Các tổ chức được thành lập để thúc đẩy an ninh, hòa bình và hợp tác không còn có khả năng đoàn kết tất cả các thành viên quanh một bàn thương nghị. Có nguy cơ xảy ra “thuyết đơn tử [monadology]” và chia rẽ thành các “câu lạc bộ” chỉ thừa nhận các quốc gia được coi là tương thích về mặt ý thức hệ. Ngay cả những cơ quan quan tâm đến ích chung và các vấn đề kỹ thuật, vốn đã tỏ ra hiệu quả cho đến nay, cũng có nguy cơ bị tê liệt do sự phân cực về ý thức hệ và sự bóc lột bởi các quốc gia riêng lẻ.

Để khởi động lại cam kết chung phục vụ hòa bình, cần phải khôi phục cội nguồn, tinh thần và các giá trị đã hình thành nên các tổ chức đó, đồng thời tính đến bối cảnh đã thay đổi và biểu lộ sự quan tâm đối với những người không cảm thấy được đại diện đầy đủ trong cơ cấu của các tổ chức quốc tế.

Chắc chắn, đối thoại đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên trì và khả năng biết lắng nghe, thế nhưng, khi những nỗ lực chân thành được thực hiện nhằm chấm dứt những bất đồng thì có thể đạt được những kết quả quan trọng. Một thí dụ xuất hiện trong đầu tôi là Thỏa thuận Belfast, còn được gọi là Thỏa thuận Thứ Sáu Tuần Thánh, được ký bởi chính phủ Anh và Ái Nhĩ Lan, được kỷ niệm 25 năm vào năm ngoái. Chấm dứt ba mươi năm xung đột bạo lực, nó có thể là một thí dụ để thúc đẩy và khuyến khích các nhà chức trách tin tưởng vào các tiến trình hòa bình, bất kể những khó khăn và hy sinh mà chúng vốn hàm chứa.

Con đường dẫn đến hòa bình là thông qua đối thoại chính trị và xã hội, vì đó là nền tảng cho sự chung sống dân sự trong một cộng đồng chính trị hiện đại. Năm 2024 sẽ chứng kiến các cuộc bầu cử được tổ chức ở nhiều quốc gia. Bầu cử là một thời điểm quan trọng trong đời sống của bất cứ quốc gia nào, vì chúng cho phép mọi công dân có trách nhiệm lựa chọn người lãnh đạo của mình. Những lời của Đức Piô XII vẫn còn hợp thời hơn bao giờ hết: “Bày tỏ quan điểm riêng của mình về những nghĩa vụ và những hy sinh đặt lên họ; không bị buộc phải tuân theo trước khi được lắng nghe - đây là hai quyền của công dân được phát biểu trong nền dân chủ, như chính tên gọi của nó. Từ sự ổn định, hài hòa và những thành quả tốt đẹp được tạo ra bởi sự tiếp xúc này giữa người dân và chính quyền nhà nước, người ta có thể nhận ra liệu một nền dân chủ có thực sự lành mạnh và cân bằng hay không, đồng thời cảm nhận được sức sống và sự phát triển của nó”.[9]

Do đó, điều quan trọng là các công dân, đặc biệt là những người trẻ sẽ bỏ phiếu lần đầu tiên, coi việc đóng góp vào việc thăng tiến ích chung thông qua việc tham gia bầu cử một cách tự do và có hiểu biết là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của họ. Về phần mình, chính trị phải luôn được hiểu không phải là chiếm đoạt quyền lực mà là “hình thức bác ái cao nhất”, [10] và do đó là phục vụ người lân cận trong cộng đồng địa phương hoặc quốc gia.

Con đường dẫn tới hòa bình cũng phải trải qua cuộc đối thoại liên tôn, vốn trước hết đòi hỏi phải bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tôn trọng các nhóm thiểu số. Chẳng hạn, thật đau lòng khi nhận thấy rằng ngày càng có nhiều quốc gia đang áp dụng các mô hình kiểm soát tập trung đối với tự do tôn giáo, đặc biệt là bằng việc sử dụng rộng rãi kỹ thuật. Ở những nơi khác, các cộng đồng tôn giáo thiểu số thường rơi vào hoàn cảnh ngày càng bấp bênh. Trong một số trường hợp, họ có nguy cơ tuyệt chủng do sự kết hợp của chủ nghĩa khủng bố, các cuộc tấn công vào di sản văn hóa của họ và các biện pháp tinh vi hơn như phổ biến luật chống cải đạo, thao túng các quy tắc bầu cử và hạn chế tài chính.

Điều đặc biệt quan tâm là sự gia tăng các hành vi bài Do Thái trong những tháng gần đây. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại rằng tai họa này phải được loại bỏ khỏi xã hội, đặc biệt thông qua việc giáo dục tình huynh đệ và sự chấp nhận người khác.

Điều đáng lo ngại không kém là sự gia tăng các cuộc đàn áp và phân biệt đối xử chống lại các Kitô hữu, đặc biệt trong mười năm qua. Đôi khi, điều này liên quan đến các trường hợp bất bạo động nhưng có ý nghĩa xã hội về việc dần dần bị gạt ra ngoài lề và bị loại trừ khỏi đời sống chính trị và xã hội và năng lượng cũng như khỏi việc thực thi một số nghề nghiệp, ngay cả ở những vùng đất có truyền thống Kitô giáo. Tổng cộng, hơn 360 triệu Kitô hữu trên khắp thế giới đang phải chịu sự phân biệt đối xử và đàn áp ở mức độ cao vì đức tin của họ, với ngày càng nhiều người trong số họ bị buộc phải rời bỏ quê hương.

Cuối cùng, con đường dẫn đến hòa bình phải thông qua giáo dục, vốn là phương tiện chính để đầu tư vào tương lai và giới trẻ. Tôi có những kỷ niệm sống động về việc cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới ở Bồ Đào Nha vào tháng 8 năm ngoái. Khi tôi nhắc lại lòng biết ơn của mình đối với các nhà chức trách Bồ Đào Nha, dân sự và tôn giáo, vì công việc khó khăn của họ trong việc tổ chức sự kiện này, tôi tiếp tục trân trọng cuộc gặp gỡ với hơn một triệu người trẻ từ khắp nơi trên thế giới, tràn đầy nhiệt huyết và niềm say mê cuộc sống. Sự hiện diện của họ là một bài thánh ca tuyệt vời cho hòa bình và là một bằng chứng cho sự thật rằng “sự hiệp nhất lớn hơn xung đột” [11] và rằng “có thể xây dựng sự hiệp thông giữa những bất đồng” [12]

Trong thời gian gần đây, những thách thức mà các nhà giáo dục phải đối diện bao gồm việc sử dụng các kỹ thuật mới một cách có đạo đức. Các kỹ thuật loại này có thể dễ dàng trở thành một phương tiện truyền bá sự chia rẽ hoặc dối trá, “tin giả”, nhưng chúng cũng đóng vai trò là nguồn gặp gỡ và trao đổi lẫn nhau, và là phương tiện quan trọng cho hòa bình. “Những tiến bộ đáng chú ý trong kỹ thuật thông tin mới, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật số, do đó mang đến những cơ hội đầy phấn chấn cũng như những rủi ro nghiêm trọng đối với việc theo đuổi công lý và sự hòa hợp giữa các dân tộc”.[13] Vì lý do này, tôi nghĩ điều quan trọng là dành Thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm nay cho chủ đề trí khôn nhân tạo, một trong những thách thức quan trọng nhất trong những năm tới.

Điều thiết yếu là việc phát triển kỹ thuật phải diễn ra một cách có đạo đức và có trách nhiệm, tôn trọng vị trí trung tâm của nhân vị, mà vị trí của nó không bao giờ có thể bị thay thế bởi một thuật toán hay máy móc. “Phẩm giá vốn có của mỗi con người và tình huynh đệ gắn kết chúng ta trong tư cách thành viên của một gia đình nhân loại duy nhất phải củng cố sự phát triển của các kỹ thuật mới và đóng vai trò làm tiêu chuẩn không thể tranh cãi để đánh giá chúng trước khi chúng được sử dụng, để tiến bộ kỹ thuật số có thể diễn ra một cách tôn trọng thích đáng đối với công lý và góp phần vào chính nghĩa hòa bình”.[14]

Do đó, cần phải có sự suy gẫm cẩn thận ở mọi bình diện, quốc gia và quốc tế, chính trị và xã hội, để đảm bảo rằng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo vẫn phục vụ đàn ông lẫn đàn bà, thúc đẩy chứ không cản trở – đặc biệt là trong trường hợp giới trẻ – các mối quan hệ liên bản vị, một tinh thần huynh đệ lành mạnh, tư duy phê phán và khả năng phân định.

Về phương diện này, hai Hội nghị Ngoại giao của Tổ chức Sở hữu Trí thức Thế giới, sẽ diễn ra vào năm 2024 với sự tham gia của Tòa thánh trong tư cách một Quốc gia Thành viên, sẽ tỏ ra đặc biệt quan trọng. Theo quan điểm của Tòa Thánh, sở hữu trí thức chủ yếu hướng đến việc cổ vũ ích chung và không thể tách rời khỏi các yêu cầu đạo đức, kẻo nảy sinh những tình huống bất công và bóc lột quá mức. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ di sản di truyền của con người, bằng cách cấm các thực hành trái với phẩm giá con người, chẳng hạn như cấp bằng sáng chế cho vật liệu sinh học nhân bản và việc sinh vô tính các hữu thể nhân bản.

Thưa quý vị, thưa quý bà và quý ông,

Năm nay Giáo Hội đang chuẩn bị cho Năm Thánh sẽ bắt đầu vào lễ Giáng Sinh tới. Cách đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với chính quyền Ý, cấp quốc gia và địa phương, vì những nỗ lực của họ trong việc chuẩn bị cho Thành phố Rôma chào đón số lượng lớn người hành hương và giúp họ rút được hoa trái thiêng liêng từ kinh nghiệm của họ về Năm Thánh.

Ngày nay, có lẽ hơn bao giờ hết, chúng ta cần một Năm Thánh. Giữa nhiều nguyên nhân đau khổ dẫn đến cảm giác tuyệt vọng không chỉ ở những người bị ảnh hưởng trực tiếp mà còn trong toàn xã hội chúng ta; giữa những khó khăn mà giới trẻ của chúng ta phải trải qua, những người thay vì mơ về một tương lai tốt đẹp hơn lại thường cảm thấy bất lực và thất vọng; và giữa bóng tối của thế giới dường như đang lan rộng hơn là lùi xa này, Năm Thánh là một lời công bố rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân của Người và luôn luôn mở cửa cho Vương quốc của Người. Theo truyền thống Do Thái-Kitô giáo, Năm Thánh là mùa ân sủng giúp chúng ta cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa và hồng ân bình an của Người. Đó cũng là mùa của sự công chính, trong đó tội lỗi được tha thứ, sự hòa giải chiến thắng sự bất công, và trái đất được yên nghỉ. Đối với tất cả mọi người – Kitô hữu cũng như không Kitô hữu – Năm Thánh có thể là thời điểm mà gươm đao biến thành lưỡi cày, thời điểm mà một dân tộc sẽ không còn giơ gươm lên chống lại dân tộc khác, cũng như không còn học chiến tranh nữa (x. Is 2:4).

Anh chị em thân mến, đây là lời chúc chân thành của tôi dành cho mỗi người trong số quý vị, thưa các Đại sứ thân mến, cho gia đình và đồng nghiệp của quý vị cũng như cho những dân tộc mà quý vị đại diện.

Cảm ơn và chúc mừng năm mới tất cả quý vị!

______________________________

[1] Thông điệp phát thanh Giáng sinh gửi các dân tộc trên thế giới, ngày 24 tháng 12 năm 1944.
[2] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes về Giáo hội trong thế giới hiện đại (7/12/1965), 79.
[3] Xem. BENEDICT XV, Thư gửi các nhà lãnh đạo các dân tộc hiếu chiến (1 tháng 8 năm 1917).
[4] Xem Thông điệp Fratelli Tutti về tình huynh đệ và tình bạn xã hội (3 tháng 10 năm 2020), 262.
[5] Xem Tông huấn Laudate Deum gửi mọi người có thiện chí về cuộc khủng hoảng khí hậu (4 tháng 10 năm 2023).
[6] Bài phát biểu tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, ngày 2 tháng 12 năm 2023.
[7] Như trên.
[8] Diễn văn bế mạc “Rencontres Méditerranéennes”, Marseille, 23 tháng 9 năm 2023, 1.
[9] Thông điệp Giáng sinh trên đài phát thanh gửi các dân tộc trên thế giới, ngày 24 tháng 12 năm 1944.
[10] PIUS XI, Tiếp kiến các nhà lãnh đạo Liên đoàn Đại học Công Giáo, 18 tháng 12 năm 1927.
[11] Tông huấn Evangelii Gaudium về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay (24 tháng 11 năm 2013), 228.
[12] Như trên.
[13] Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2024 (8 tháng 12 năm 2023), 1.
[14] Như trên, 2.