Ngày 01.11 vừa qua, Bà Dilma Rousseff đã đắc cử và trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Brasil và sẽ nhậm chức vào ngày 01.01.2011. Một trong những lời đầu tiên khi công bố kết quả, là cam kết đấu tranh cho nữ quyền và bình đẳng giới, điều mà Bà đã phải nén lại trong suốt thời gian tranh cử,cùng với lập trường ủng hộ nạo phá thai, vì sẽ làm tiêu tan tham vọng chính trị của Bà trong đất nước tuyệt đại đa số Công giáo nầy. Nay thì đã khác rồi: quyền bính trong tay, cái đuôi giấu kín sẽ được Bà phô ra!

Từ một tổ chức do một tín hữu Công giáo người Anh sáng lập, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế quay lại ủng hộ nạo phá thai. Con số người được họ can thiệp không là gì, so với tiếng nói của họ đã khiến cho bao trẻ vô tội phải chết oan.Ngày nay người ta biết những quốc gia,những tổ chức đã phải cúi đầu trước áp lực của những tập đoàn đa quốc gia làm giàu trên các chế phẩm ngừa tránh thai hoặc phá thai,như các thuốc RU 486 hoặc Ella One, đem lại siêu lợi nhuận cho họ, vượt xa những vụ buôn bán vũ khí. Dễ gì chúng bỏ qua,không gây ra đủ thứ áp lực xã hội,kinh tế,chính trị, bất kể lương tâm đạo đức. Đạo Công giáo là một chướng ngại vật lớn lao nhất cho túi tham không đáy của chúng và vì thế,chúng không dại gì trực diện đương đầu với các thẩm quyền Giáo Hội,mà sẵn sàng giấu kín cái đuôi tà độc,nhưng dùng đủ mưu mánh để tấn công Giáo Lý Công giáo,về sự sống,về hôn nhân và gia đình. Không tỉnh táo, không kiên định lập trường, không cầu nguyện và không hành động, chúng ta sẽ bị thuyết phục và buông xuội,hoặc chí ít cũng làm ngơ với lập luận ích kỷ “hồn ai nấy giữ”. Những người nầy dù sao cũng chỉ nhân danh (đúng hơn: mượn danh) con người,nhân bản,nhân ái để hành động.

Nhưng một thế lực với những mớ giáo lý chắp vá,hỗn tạp,hung hăng và quái dị, lại nhân danh Đấng Allah. Và những gì xuất phát từ tham vọng, dục vọng, hận thù,thì không thể gọi được ( và được gọi) là giáo lý,tôn giáo.Nó chẳng khác gì “kinh thánh đỏ” của Mao Trạch Đông trong thập niên 1960s và 1970s,mà nay đã đi vào dĩ vãng,cho dù hình ảnh Mao Trạch Đông vẫn sờ sờ trên mặt tiền Tử Cấm Thành, để “nhìn” cảnh tàn sát xảy ra ở Thiên An Môn, với hàng chục ngàn thương vong do cái ‘giáo lý” được thần thánh hoá mù quáng ấy.

Nếu nhìn vào thực tế sự bành trướng của Hồi giáo, những vụ bạo lực mà họ thoải mái phủi tay quy cho hành động của“phe cực đoan”, thì nguyên nhân chính của tất cả sự hỗn quân hỗn quan nầy được ví như chiếc hộp Pandora trong thần thoại Hy Lạp: Lúc bấy giờ, nhân loại đang sống trong cảnh lạc viên, không lo âu suy nghĩ. Epimetheus đã bảo Pandora không bao giờ được mở chiếc hộp mà nàng đã nhận từ Zeus. Họ sống hạnh phúc được một thời gian. Pandora bắt đầu thắc mắc không biết thứ gì ở trong chiếc hộp xinh đẹp ấy. Lúc đầu, nàng theo lời chồng. Nhưng sau một thời gian ngắm nghía mân mê chiếc hộp, món quà từ Heras- sự tò mò- đã thắng, nàng mở nó ra, phóng thích hàng loạt điều bất hạnh xuống cho nhân loại: bệnh tật, tuổi già, lòng ganh ghét đố kỵ, bạo lực, thù hận, cái chết, chiến tranh... Trong hộp chỉ còn lại một ít "Hy vọng". Một lý do vì sao Hồi giáo trở thành được chấp nhận nhiều đến vậy và lan nhanh đến thế, là vì nó phục vụ cho sự yếu đuối của con người. Sự thống trị của nam giới không chỉ được phép,mà còn được luật pháp biện hộ và bênh vực… Trong Hồi giáo ngày nay, chúng ta nghe về những vụ chém giết, chặt chân tay vì tội trộm cắp và những tội phạm khác, xử ném đá đến chết vì tội bất trung và ngoại tình, chặt đầu, v..v..Những luật nầy có vẻ dã man và cổ xưa. Chúng ta có thể tìm thấy những hình phạt nầy trong Cựu Ước chăng? Chắc chắn là không có trong Tân Ước.

Chúa Giêsu đã sửa tập tục ly dị. Trong Matthêu 19, người Do Thái hỏi Chúa Giêsu liệu ly dị có được cho phép vì bất kỳ lý do gì không. Khi Chúa Giêsu nói không, họ nói rằng Môsê đã cho phép điều đó và nếu như thế, thì tốt hơn là đừng kết hôn…Chúa Giêsu trả lời – “đó là vì lòng chai dạ đá của họ,mà Môsê đã cho phép làm điều đó,nhưng không phải như thế từ khởi nguyên,khi Cha Ta dựng nên họ có nam có nữ và cả hai trở thành một xác thịt”. Và nhất là lời khẳng định đã biến hôn nhân trở thành Bí Tích: ”Sự gì Thiên Chúa liên kết,loài người không được phân ly nữa”(Mt 19,6), dù với bất cứ lý do gì! Người ta không nhân danh con người,không nhân danh Thiên Chúa,mà nhân danh một “thế lực” được cả con người lẫn Thiên Chúa chứng nhận: một thẩm quyền không ai dám phủ nhận,ngoại trừ Chúa Giêsu, khi và bởi vì Người là con người thật và là Thiên Chúa thật. Việc nầy cũng giống như một nguyên thủ quốc gia sửa sai lời của một đại sứ,vốn phát biểu mang tính “đối phó” theo tình thế và tình huống bắt buộc. Chúa Giêsu phải sửa lại lời “cho phép” của Môsê, vì tầm quan trọng của nó: không chỉ đối với hôn nhân trần thế, mà là cái nhìn phục sinh, trong đó hôn nhân là con đường, là nấc thang, để giúp con người cộng tác vào công trình tạo dựng và công trình cứu độ của Thiên Chúa,chứ không phải là cứu cánh đời người; qua đó,con người hướng lên, đi lên cùng Thiên Chúa,như một sự về nguồn. Vì dừng lại ở hôn nhân đời nầy, mà từ Do Thái giáo,Hồi giáo,con người trần tục mọi thời đại không nhận ra chân giá trị của hôn nhân và viễn cảnh phục sinh, từ đó dẫn tới bao sai lầm, mà sai lầm lớn nhất là mất “hy vọng”, mất niềm tin vào sự phục sinh, chẳng khác nào lập trường của những người Sađucêô đến căn vặn Chúa Giêsu hôm nay,những người không chỉ “suy bụng ta ra bụng người”, mà đúng ra là “lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, đem một chuyện trần tục và dựa vào thế lực tôn giáo, để luận bàn về chuyện siêu nhiêu, chuyện Nước Trời, với mục đích là bác bỏ sự sống lại, điều mà họ thành công qua bao nhiêu năm làm cho các đối thủ (như là Biệt phái) phải “câm họng” và khiến nhiều người theo họ, phủ nhận sự sống lại và sự sống đời sau, nghĩa là cũng phủ nhận Thiên Chúa.

Cũng vì cái nhìn sai lạc,phiếm diện, mà người ta hay nhân danh nầy nọ (công lý, nhân quyền, nhân phẩm,..) và coi chúng như những giá trị cao siêu nhất, để đấu tranh, để khích bác và gây bất công,chia rẽ, phạm đến quyền và phẩm giá của người khác. Người ta chỉ nhìn vào sáu điều “chớ” trong mười điều răn Đức Chúa Trời – khía cạnh “thụ động” – mà cố tình quên khiá cạnh ‘tích cực”,năng động đằng sau những “chớ” nầy: phải! được “tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự;sau lại yêu người như mình ta vậy”. Lời Chúa không thể bị suy diễn,bóp méo,phục vụ cho tham vọng,dục vọng, ích kỷ,hận thù,hỉ - nộ - ái - ố và “tham sân si” của con người. Không được lấy lòng dạ hẹp hòi,tội lỗi của con người, để đo lòng Thiên Chúa.