Chuyện Ông Tư Dì Tư: Lời Cám Ơn
Cửa Sổ, Ảnh NTT


Sáng thứ Năm mùa thu, trời lành lạnh, ông Tư ngồi bên chung trà nóng, tâm sự với vợ,

— Ta nói hồi nọ lúc về bên Việt Nam thăm bà con xóm làng sau gần ba mươi năm không gặp mặt, mình yên lặng thì không sao, nhưng cứ hở miệng ra một cái là người ở trên phố dưới quận biết là mình từ bên Mỹ mới về.

Dì Tư mỉa mai,

— Thì ai biểu ông mở miệng ra tiếng tây tiếng u rổn rảng rộn ràng, làm sao mà người ta không biết là ông từ bên Mỹ mới về.

— Mần chi mà bà phải lên giọng bỉ thử với tui như thế! Bà biết tui đâu có phải là hạng người áo gấm về làng rồi là huênh hoang tự đắc lên mặt song tàn với bà con chòm xóm. Ta nói thiệt tình là tui cũng cố gắng hết sức không chêm một câu tiếng Anh, không bớt một chữ tiếng Việt trong khi nói chuyện với chòm xóm láng giềng. Cho nên nhiều người cứ ngạc nhiên, “Lạ hén! Sao chú Tư, ổng ở bên Mỹ cả gần ba chục năm nay rồi, nhưng giọng nói nghe không ngòng ngọng lơ lớ như tuồng bị rắn lục mổ ngay bắp chân!”. Tui mới cười hề hề đáp, “Cái mặt này nhìn là biết dân nhậu thịt rắn Tháp Mười với đế đen Gò Công, thì làm sao mà nói tiếng Việt lơ lớ cho đặng”.

Dì Tư dừng tay cuộn tròn miếng trầu xanh, nhìn chồng,

— Rồi, thì ông nói đi, làm sao mà ông mở miệng ra là người ta biết là ông ở bên đây mới về?

— Thì cũng có chi đâu. Cũng tại tui quen cái tật ghé vào chợ quận mua đôi dép Thái với cái áo thun ba lỗ cũng nói cám ơn, xẹt ngang qua chợ làng làm tô hủ tíu cũng lại lập cập mở miệng nói cám ơn. Cho nên ta nói dấu đầu rồi cũng lại lòi đuôi là như thế đó.

Dì Tư cự nự,

— Cái ông này! Ăn nói không e dè kiêng nể, không sợ người Việt Nam ở bển họ giận, họ nói ông lên mặt song tàn coi thường người ta...

— Tôi không có cái ý đó nghen. Tôi chỉ muốn nói là người ở bên Mỹ họ quen miệng hay nói cám ơn... Thế thôi.

Ông Tư phân trần,

— Thì đấy, bà có thấy không? Ở bên đây vô nhà hàng ăn uống, mình cũng phải móc bóp trả tiền đàng hoàng, chứ đâu có phải là ăn đồ cúng trên chùa hay là gặp ngày rằm hương thôn phát chẩn. Nhưng khi người ta bưng cơm đưa ra, mình cũng mở miệng nói lời cám ơn đàng hoàng tử tế. Rồi khi đứng dậy ra quầy trả tiền, tay mình móc bóp, miệng mình cũng lại lập cập mở lời nói cám ơn. Mình ở bên đây lâu rồi, cho nên ta nói riết rồi lời cám ơn nhập vào trong bụng lúc nào không hay.

Dì Tư đưa miếng trầu vào miệng, thong thả nhai,

— Tui thì không nghĩ chỉ có người Mỹ mới biết mở miệng nói cám ơn đâu. Cái người chi đó, tui nhớ đâu in tuồng là người Sa-Ma hay là Sa Mạc gì đó, họ cũng biết nói lời cám ơn vậy thôi.

— Bà muốn nói tới người mắc bệnh phong cùi xứ Samaria chứ gì (Luke 17:11-19)? Đúng, ta nói thiệt tình cũng không hiểu sao mà ngày hôm đó mười người phong cùi sau khi được Chúa chữa lành cho cả mười, thì chín người kia bỏ đi một nước. Chỉ có mỗi một người Samaria thuộc về sắc dân thù nghịch với dân Do Thái biết quay lại tìm Chúa Giêsu để nói lời cám ơn mà thôi. Chín người kia thiệt tình là đáng trách.

Dì Tư góp ý,

— Tui thì cũng không muốn bàn thêm, nhưng cũng có một số người họ nói với tui là nếu mình cám ơn nhiều quá, thì chẳng qua đó cũng chỉ là một cái hình thức khách sáo, cải lương hồ quảng mà thôi.

Ông Tư nhíu mày,

— Sao lại nói là một lời khách sáo? Bộ bà không thấy ông bà mình có câu, “Con lợn có béo thì lòng mới ngon”, hoặc là tôi nhớ đâu đó trong đạo Phật cũng có câu, “Tâm Phật, nhìn đâu cũng thấy Phật”. Lòng mình có đầy tràn tâm tình tri ân thì mình mới thốt ra được những lời tri ân cho những nghĩa cử tử tế của hàng xóm láng giềng chứ.

Ông Tư hớp một ngụm trà rồi tiếp tục,

— Ta nói thiệt tình là tui thích cái tinh thần của người Mỹ ở chỗ đó. Chính phủ cám ơn dân chúng. Con cái cám ơn bố mẹ. Hàng xóm ngỏ lời cám ơn hàng xóm. Đi vô chợ vào thương xá, mình mua một món hàng, người bán hàng tay trao món hàng, miệng họ cũng nhã nhặn nói cám ơn. Ai ai cũng cám ơn nhau, bởi người ta biết sống trên đời này ai cũng mắc nợ ai ít ra là một món nợ…

Dì Tư hỏi,

— Ông nói mắc nợ, mà mắc nợ như thế nào?

— Bộ bà không nhìn thấy hay sao? Nhà nước nợ dân chúng những lời cám ơn, bởi nếu không có những lá phiếu của dân chúng, thì đã không có nhà nước. Con cái nợ bố mẹ những lời cám ơn, bởi nếu không có bố mẹ, thì đã không có con cái. Hàng xóm nợ nhau những lời cám ơn, bởi nếu không có sự hiện diện của những căn nhà sát bên tối lửa tắt đèn, thì đã không có phố phường. Thương gia nợ khách hàng những lời cám ơn, bởi nếu không có người mua, cửa tiệm đã phải đóng cửa. Không có khách hàng tấp nập ghé vào, tiệm nào thì tiệm, ngay cả Walmart hay Frys Electronics thì cũng chỉ có đường tưng bừng khai trương âm thầm dẹp tiệm. Cho nên, ta nói tui là tui thích những ca sĩ, khi gặp những người ái mộ tiếng hát của mình, lúc nào họ cũng nhã nhặn nói lời cám ơn khán thính giả; bởi thật tình mà nói dù hát hay như chim sơn ca hoặc là thổi sáo mê hồn như Trương Chi, nhưng nếu không có khán thính giả, thì làm sao có ca sĩ sân khấu với tài tử màn bạc.

Ông Tư dừng lại chiêu vào trong miệng một ngụm trà xanh, rồi nho nhỏ giọng lại,

— Bà biết chi không? Có cái điều này tôi cũng muốn tâm sự với bà từ lâu rồi.

Đang nhai nhai miếng trầu trong miệng, dì Tư dừng lại cục thuốc rê, nhìn chồng,

— Ông muốn nói cái chi thì cứ nói đi, sao lại tự nhiên xuống giọng thì thào tuồng như kép độc chuẩn bị xuống sề hay sao vậy?

Ông Tư nịnh vợ,

— Có bà làm đào thương thì họa may, chứ tui thì mần chi mà dựng tuồng đóng vai kép độc cho đặng.

Ông Tư tiếp tục,

— Tôi nhớ có lần bà có nói với tôi là thấy con cái của hai vợ chồng mình được Chúa thương, ban cho học hành tới nơi tới chốn, rồi trong nhà có thằng Hai làm bác sĩ mở phòng mạch ở dưới phố, con Tư làm dì phước dòng truyền giáo ở bên Phi Châu; bởi thế, có nhiều người gặp bà ở ngoài phố hay ở trong nhà thờ cứ hay lớn miệng gọi bà, “Bà Cố”. Bà thì cứ lúng ta lúng túng không biết phải đối đáp ra sao, bởi không hiểu là họ đang thật tình hay là có ý chi đây. Cho nên thôi, nhân tiện câu chuyện đang vui miệng, tôi đề nghị với bà như thế này, nếu lần sau có ai gọi bà là “Bà Cố”, thì bà cũng không phải mất công cất tiếng thanh minh thanh nga làm chi. Những lúc người ta gọi bà là “Bà Cố”, thì bà chỉ việc nói, “Tạ ơn Chúa” như người Samaria phong cùi thủa xưa. Mà bà cứ nghĩ thử coi, thiệt tình đúng là như vậy. Nếu không có ơn Chúa, làm sao mà người Samaria biến mất những vết ghẻ lở hôi thúi trên thân xác, để mà làm lại một con người mới? Không có ơn Chúa hướng dẫn cho con tàu của mình được tàu Mỹ vớt, làm sao mà nhà mình đặt chân lên vùng đất mới với bầu trời mới để mà bắt đầu một cuộc sống mới tinh?

Ông Tư dừng lại, uống thêm một miếng trà Bảo Lộc,

— Lần trước về thăm lại quê hương họ hàng, thấy những người thành công với công ăn việc làm, trong bụng tôi cũng mừng cho họ. Nhưng cũng có những người tôi thấy đời sống cũng còn cực nhọc lắm. Trông người lại nghĩ tới ta. Hồi năm 75 mình mà không được vớt mang tới đảo Guam, thì bây giờ dám tôi thì cũng đang rảo rảo ở chợ quận, miệng rao, “Trà đá không?”, còn bà thì cũng đang te te bê cái rổ, chào hàng, “Mía ghim hôn?” ở bến xe của chợ huyện. Cứ như vậy thì làm sao trong nhà mình có nổi một ông Bác Sĩ và một bà dì Phước… Bà nghĩ tôi nói có đúng hay không?

www.nguyentrungtay.com