CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG: LỢI VÀ HẠI

Chúng ta đang sống trong thời đại mà mọi lãnh vực từ văn hoá đến khoa học có những bước tiến thật dài so với những thế kỷ trước; riêng trong ngành công nghệ thông tin, những phát minh đã khiến cho người ta phải kinh ngạc. Một sự kiện xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, thì chỉ trong nháy mắt hàng triệu người ở khắp các châu lục đều nhận được những thông tin, đôi khi còn có cả hình ảnh kèm theo. Hơn thế nữa, người ta lại còn có thể tìm tòi, tra cứu những điều mà người ta muốn biết trong mọi lãnh vực tôn giáo, chính trị, khoa học, nghệ thuật v.v.. Quả thật, thế giới rộng lớn này như được thu nhỏ trong tầm tay. Tuy nhiên, những thành quả của ngành công nghệ thông tin cũng gây ra không ít những tai hại, do sự lạm dụng thái quá hoặc sử dụng vào những mục đích không minh bạch.

Một trong những phương tiện truyền thông hết sức lợi hại là internet, nhưng không phải là bất cứ ai hay bất cứ ở đâu cũng có thể sử dụng được; vì có người quan niệm internet gây tác hại nhiều hơn là lợi, nên rất hạn chế sử dụng…Đôi khi lại còn khuyến cáo người khác không nên dùng, vì cho rằng người ta có thể lợi dụng những thông tin của mình để sử dụng cho mục đích xấu của họ. Trong thực tế, việc sử dụng internet còn gặp rất nhiều khó khăn…

Vậy thì những phương tiện truyền thông lợi hay hại như thế nào? Bài viết này chỉ muốn chia sẻ một quan điểm cá nhân mà thôi. Để viết bài chia sẻ này, tôi dựa vào một giáo huấn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II và với những gì tôi nhận thức được trong thực tế qua những tiếp xúc cá nhân hoặc những phương tiện thông tin khác nhau. Với suy nghĩ và tầm nhìn giới hạn, chắc hẳn sẽ có những thiếu sót, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một đóng góp nho nhỏ với ước mong các đấng có thẩm quyền và trách nhiệm, quan tâm đến những phương tiện truyền thông, để dân Chúa có được những thông tin cần thiết và trung thực, hầu mọi người có thể hiệp thông với mọi biến cố trong Giáo Hội. Mặt khác, các ngài cũng cần biết đón nhận những thông tin, để rồi sàng lọc, cân nhắc và đánh giá đúng mức hầu có những hướng dẫn hợp lý hơn.

1. Giáo Hội có quan tâm đến những phương tiện truyền thông không?

Ngay kỳ họp II, khoá III, ngày 4-12-1963 Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã công bố một sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội (Inter Mirifica). Đây là một văn kiện hết sức mới mẻ, vì là lần đầu tiên Giáo Hội trình bày lập trường về vấn đề này. Vào thời điểm này ngành công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế, riêng Internet chỉ bắt đầu xuất hiện vào giữa thập niên 70, nhưng sắc lệnh đã đưa ra những nguyên tắc mà ngày nay vẫn còn giá trị khi mà ngành công nghệ thông tin đã tiến triển vượt bực.

Giáo Hội thấy được những ích lợi của những phương tiện truyền thông, cũng như những thiệt hại do việc cố ý dùng sai những phương tiện này. Sắc lệnh khẳng định rằng Giáo Hội có bổn phận dùng cả phương tiện truyền thông xã hội để rao giảng Tin Mừng, hơn nữa còn có quyền sử dụng và làm chủ bất cứ loại nào trong các phương tiện truyền thông xã hội đó, khi thấy cần thiết và ích lợi cho việc giáo dục đức tin (TT 2; 3).

Như thế, phương tiện truyền thông dưới bất cứ hình thức nào, tự nó có một giá trị tích cực và cần thiết. Con người không thể phát triển trọn vẹn nếu thiếu những thông tin cần thiết, nhưng còn nguy hại hơn bởi những thông tin một chiều hoặc bị xuyên tạc. Vậy thì phải sử dụng những phương tiện truyền thông như thế nào để nó thực sự đem lại ích lợi cho cộng đồng nhân loại. Đó là nhiệm vụ của các chủ chiên, những vị có thẩm quyền phải thấy được trách nhiệm của mình, để hướng dẫn các tín hữu thế nào cho họ biết sử dụng những phương tiện truyền thông cách xứng hợp, chứ không phải chỉ biết ngăn cản, hạn chế hoặc phê phán những suy nghĩ cần chia sẻ của những cá nhân với cộng đồng anh em, nhất là đừng đổ vấy cho người khác cái trách nhiệm truyền thông, cho rằng chính họ làm mất uy tín của những vị lãnh đạo tinh thần…vì những bài viết hay những lời nói. Đừng quên rằng, nếu các ngài sống theo tinh thần Phúc Âm, lấy Chúa Ki-tô làm đích cho đời mình, thực sự trở nên một Đức Ki-tô khác, mặt khác luôn quan tâm đến đoàn chiên, sống quảng đại và đối xử trong tình cha con, thì chẳng sợ thứ “thần dữ” nào làm hại, làm mất uy tín. Trong thực tế, nhiều vị lãnh đạo tinh thần có uy tín đâu để mà mất! Ấy chỉ vì các vị giảng một đàng, sống một nẻo, thì lấy đâu ra uy tín.

2. Giáo Hội đưa ra những nguyên tắc nào khi sử dụng những phương tiện truyền thông?

Sắc lệnh Truyền Thông ( số 4 ) nêu ra những nguyên tắc luân lý: cân nhắc nội dung những gì được truyền thông; đồng thời cũng phải chú ý đến mục đích cũng như những đối tượng và thời gian liên quan đến việc truyền thông này. Hơn nữa, sắc lệnh còn nhắc nhở những người có liên hệ đến vấn đề này, phải tự đào tạo cho mình một lương tâm ngay thẳng. Điều này hết sức quan trọng, thực tế cho thấy, chính vì thiếu lương tâm mà một số phương tiện truyền thông đã gây ra những thiệt hại về tinh thần, làm xáo trộn đời sống đạo lý, gây ra những chia rẽ, hiểu lầm, nghi kỵ lẫn nhau.

Một nguyên tắc không thể bỏ qua, đó là việc thông tri đúng lúc các biến cố và các sự kiện, giúp cho từng cá nhân biết đầy đủ và liên tục các việc đó, như thế, chính họ có thể tham gia vào ích chung một cách hữu hiệu…( TT 5). Nếu theo tinh thần của Sắc lệnh, thì thái độ im lặng hoặc tránh né vấn đề của những vị có trách nhiệm có được coi là đúng đắn không? Đọc Tin Mừng, chúng ta “chứng kiến” nhiều pha gay cấn là những khi Chúa Giê-su phải đối diện với những tình huống hết sức phức tạp do đối phương hạch hỏi hoặc gài bẫy, có những chuyện Người lên tiếng ngay: như khi dùng bữa với người tội lỗi (x.Mt 9,9-12); hoặc khi bị chất vấn về chuyện ăn chay, Người đã ví sự hiện diện của Người như chàng rể trong tiệc cưới, khách dự tiệc là các môn đệ chưa cần ăn chay, nếu có thì là chuyện sau này, nhưng ăn chay theo một tinh thần mới, chứ không thể bình cũ rượu mới được (x.Mt 9,14-17). Cũng có khi Chúa Giê-su thinh lặng, không phải là một sự thinh lặng mang tính đồng loã, cũng không phải là sự thinh lặng sợ hãi quyền lực. Sự thinh lặng gây sức chú ý và giảm sự hung hăng của đối phương, để rồi lên tiếng đúng lúc bằng một lời chất vấn mà người ta không thể không trả lời qua thái độ rút lui có trật tự (x. Ga 8,1- 11: câu chuyện người phụ nữ ngoại tình). Nhất là khi công lý và sự thật bị chà đạp thì việc lên tiếng thông tri là cần thiết, cho dù đứng trước những đe doạ, những hiểm nguy (x.Ga 18,19-24: Chúa Giê-su đứng trước thượng tế Kha-nan).

Có một điều khiến tôi suy nghĩ rằng, Chúa Giê-su rồi cuối cùng cũng đã phải lãnh nhận một bản án hết sức bất công, chứa đầy thù hận ghen ghét của giới lãnh đạo. Nhưng Chúa Giê-su không hề có thái độ thụ động, không xuề xoà nhận tội. Trái lại Người đã nhiều lần lên tiếng không chỉ trước toà án đạo do các thượng tế và các kỳ mục đảm trách, mà ngay tại toà án đời với tổng trấn Phi-la-tô, kẻ cầm quyền sinh sát trong tay (x.Ga 19,10). Chúa Giê-su không ngần ngại nói thẳng với Phi-la-tô rằng: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn”(c.11).

Như vậy, các phương tiện truyền thông cần phải được sử dụng để mọi người có được những thông tin cần thiết trong mọi lãnh vực của cuộc sống, nâng cao tầm nhìn về các biến cố đang xảy ra, hầu có thể hiệp thông cách này cách khác tuỳ hoàn cảnh và khả năng của mình. Phương tiện truyền thông cũng giúp cho rất nhiều người nâng cao kiến thức trong công việc của mình. Sắc lệnh Truyền Thông còn kêu gọi các tín hữu đừng ngần ngại, mà hãy hăng say sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội vào các công việc tông đồ khác nhau tuỳ theo những đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh và thời gian ( cf. TT 13). Sau hết các phương tiện truyền thông còn là cách thế bày tỏ những quan điểm, nói lên những bất công, oan trái mà những người có chức quyền, có thế lực chỉ muốn che đậy, khoả lấp. Cũng chính vì phương tiện truyền thông bị giới hạn ở nhiều vùng, mà những bất công trong lối hành xử của một số linh mục thoái hoá bị che đậy, tha hồ hách dịch, quan liêu, sống hưởng thụ và bỏ bê mục vụ. Dân chúng chỉ biết than thở với nhau, nhưng rất sợ đến tai cha sẽ bị trù dập khi có những nhu cầu thiêng liêng.

3. Truyền thông và dư luận.

Theo Từ điển tiếng Việt, hai từ này có nghĩa khác nhau:

-Truyền thông: truyền dữ liệu theo những quy tắc và cách thức nhất định.

-Dư luận: ý kiến nhận xét, khen chê của số đông đối với việc gì.

Như vậy, truyền thông đúng nghĩa mang tính kỹ thuật hơn, và có tính xác thực hơn. Nếu trong thực tế, có những thông tin một chiều, sai sự thật, thì đó chỉ là vì người ta đã sử dụng cách bất chính, mà Sắc lệnh gọi là cố ý dùng sai những phương tiện này, bởi vì chưa được đào tạo để có một lương tâm ngay thẳng.

Còn dư luận, như định nghĩa của Từ điển, nó chỉ là những nhận xét phiến diện, do thiếu thông tin, nhất là vì đã có sẵn một định kiến, hoặc ác cảm. Chính vì thế, dư luận có một giới hạn và kém giá trị hơn truyền thông. Một kiểu “chơi chữ” khá hay của đức cha Bùi Tuần: dư luận thường là luận dư, cho thấy dư luận không luôn luôn phản ánh sự thật (x. bài BIẾT MÌNH trong tập “Giới Luật Yêu Thương”). Dư luận đôi khi còn mâu thuẫn với nhau. Xin lấy ví dụ cụ thể là trường hợp của chính tôi. Chỉ từ vài năm nay, được tiếp cận với internet, tôi có viết một số bài góp ý, nhận định, chia sẻ những cảm nhận của mình liên quan đến một vài lãnh vực Kinh Thánh, Phụng Vụ hay Mục vụ…và dĩ nhiên không tránh khỏi những đụng chạm với vị này vị khác trong Giáo Hội. Tôi chỉ nói những điều phải nói, và những điều tôi nói chỉ là những điều căn bản, là những gì tôi học được bằng cách này cách khác. Tôi không hề có ý khoe khoang tự cho là mình gì, vì tôi luôn nhủ thầm rằng những gì mình biết chỉ là hạt cát trong bãi cát mênh mông của sa mạc tri thức, có ai hỏi tôi học hành đến đâu mà đòi viết lách, thì tôi thành thực trả lời đúng như những lần khai lý lịch về trình độ học vấn: 12/12. Nhưng có ai cấm tôi đọc sách và hỏi thầy hỏi bạn để hiểu biết thêm đâu. Và nhất là tôi xác tín rằng điều gì đúng thì phải nhận là đúng, như 2 x 5 = 10, thì đứa trẻ học lớp ba và anh tiến sĩ toán không thể nói khác nhau. Cho nên tôi cứ bày tỏ suy nghĩ mà tôi xác tín với một ý hướng xây dựng. Ấy vậy mà dư luận cho rằng phải có người đứng sau lưng tôi, xúi tôi, thậm chí hướng dẫn tôi viết, vì cho rằng giáo dân không thể có khả năng để viết như vậy. Lại có dư luận khác nói rằng: ông ta viết lăng nhăng, chẳng có giá trị gì, nhìn thấy tên đã biết ông ta là viết gì rồi, nên chẳng thèm đọc. Nghe những dư luận như vậy tôi chỉ cười và nghĩ quả thật dư luận chỉ là luận dư nên chẳng hề bận tâm. Kiến thức của con người cốt ở biết quan sát, biết suy tư, tạo cho mình một hướng đi rõ rệt, biết đến đâu làm đến đó, điều gì chưa hiểu thì hỏi, hỏi thầy, hỏi bạn, hỏi sách vở…không mặc cảm mà cũng chẳng dám tự phụ. Học là như thế, chứ đâu phải ai cũng có điều kiện để vào học viện này học viện kia, trung tâm này trung tâm kia. Thiếu gì người xuất thân từ những học viện, những trung tâm, có bằng này cấp nọ, mà ăn nói, cư xử như kẻ vô học hoặc như một bợm nhậu giang hồ.

Tóm lại, dư luận thường là những lời bàn qua tán lại, hàm chứa một sự ghen ghét, tức tối. Muốn hạn chế những dư luận cần có những thông tin chân thực.

4. Những kiểu truyền thông thiếu trung thực.

Người làm công tác truyền thông cần phải trung thực, nghĩa là phản ánh đúng sự thật, không làm sai lạc, trước sau như một. Càng có chức vụ càng cần sự trung thực. Sắc lệnh đặc biệt nói đến các vị chủ chiên, các linh mục phải chu toàn phận sự truyền thông, vì nó liên hệ chặt chẽ với nhiệm vụ thông thường của các ngài là việc giảng dạy. Một linh mục chuyên đi giảng và viết báo, trong một bài báo ông kể lể công lao của các linh mục, hết lòng lo cho dân, nhưng dân chúng không biết ơn, còn kêu ca trách móc các linh mục, và ông ví von “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Thế mà, chỉ ít lâu sau, trong một dịp mừng lễ bổn mạng của ông, giáo dân chúc mừng kèm theo một phong bì dày, ông toét miệng cười nói những lời đầy tình nghĩa, đại ý nói anh chị em là ân nhân của chúng tôi, rất cám ơn sự ưu ái của anh chị em, nhờ có anh chị em mà tôi có đất dụng võ. Thật là mâu thuẫn và không kém khôi hài, ông làm mục vụ mà lại tự coi mình như một anh sơn đông mãi võ, kiếm tiền độ nhật.

Tôi còn nghe nói đến một sự kiện, một linh mục và một giám mục đến gặp gỡ một nhóm nọ để trao đổi một vấn đề gì đó, cuộc gặp gỡ đó chưa có kết quả rõ ràng. Thế mà sau đó phát sinh đủ thứ dư luận gây những bất lợi cho nhóm này. Đó là những ví dụ cho thấy sự thiếu trung thực trong việc truyền thông, tạo ra những dư luận xấu.

Kết luận.

Như đã nói ở trên, tôi chỉ muốn chia sẻ một quan điểm về những phương tiện truyền thông trong cái tầm nhìn giới hạn của tôi. Trong lãnh vực này còn nhiều điều phức tạp và tế nhị, đó là phần của những vị có thẩm quyền và có chuyên môn cao. Nhưng dù sao đi nữa, phương tiện truyền thông vẫn là một phương tiện hữu ích để mọi người có thể bày tỏ những suy nghĩ, những khát vọng chính đáng của mình. Và chắc chắn lợi nhiều hơn hại. Nếu những phương tiện truyền thông có những tác hại không mong muốn, thì cũng chẳng khác gì khi ta dùng thuốc trị bệnh, thì hầu như loại thuốc nào cũng có tác dụng phụ, buồn ngủ, buồn nôn, chóng mặt, nổi mề đay…Phương tiện truyền thông không chỉ dùng để nói những điều tích cực, để khoe thành tích của một cộng đoàn hay cá nhân, để truyền tải những điều mà trên bảo sao dưới nghe vậy. Đó chỉ là thứ truyền thông một chiều. Phương tiện truyền thông đôi lúc cũng cần phải được sử dụng để tường thuật hay trình bày những cái thiếu sót, những gương mù gương xấu và những việc làm sai trái gây những thiệt hại cho cá nhân hay cho cộng đoàn ( x.TT 7).

Viết xong 15giờ00 ngày 7-4-2010

prhoanal@yahoo.com.vn