Bài chia sẻ số HAI - VÔ THỨC: MỘT CHẾ ĐỘ SINH HOẠT

Bài chia sẻ số Một trên đây đã cho chúng ta thấy: vào những ngày tháng đầu tiên, sau khi một đứa bé ra đời, Tự Ngã và Vô Thức trùng hợp và ăn khớp với nhau. Nhờ sự can thiệp của người mẹ và những người lớn khác trong gia đình, với tư cách là Siêu Ngả, Bản Ngã của đứa bé bắt đầu từ từ xuất hiện. Tuy nhiên, khi trở nên Bản Ngã, chưa hẳn đứa bé đã ý thức một cách trọn vẹn về tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm của mình, thậm chí sau khi biết nói và có khả năng tư duy. Thêm vào đó, chính người mẹ khi đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa con, chưa hẳn bà đã ý thức một cách rõ rệt và sáng suốt về tất cả những gì bà đang làm, đang nói và đang cảm, khi tiếp xúc và trao đổi với đứa con. Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Vô Thức hay là Vô Minh có nghĩa là « Không Biết, Ngu Muội, U Tối, hay là Đui Mù trên bình diện tâm linh ».

Một đàng, Vô Thức có mặt trong tất cả ba cấu trúc Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Đàng khác, Vô Thức luôn luôn len lỏi nằm vùng và tác động trong suốt cuộc sống làm người của mỗi cá nhân, ở giữa lòng xã hội. Cho nên, theo ý kiến của một số đồ đệ của Freud, nội tâm có hai cơ cấu tổ chức khác nhau: Một bên là cơ cấu bao gồm Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Cơ cấu thứ hai là chiến trường xung đột giữa hai thành tố: Vô thức và Ý Thức.

Theo lối nhìn của tôi, khi nói đến Vô Thức và Ý Thức, Freud không đề xuất thêm một cơ cấu tổ chức thứ hai của Nội tâm. Đó chỉ là hai chế độ sinh hoạt, hay đúng hơn, hai mức độ thức tỉnh, hai mức độ sáng suốt, hai mức độ hiểu biết, hai CHẤT LƯỢNG làm người. Cho nên, để trở nên Bản Ngã, chúng ta phải thường xuyên phát huy khả năng chuyển biến Vô Thức thành Ý Thức. Đành rằng, đó là một tiến trình không bao giờ kết thúc, chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta còn mang thân phận làm người.

Sào huyệt thứ nhất của Vô Thức: ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hằng ngày.

Khi người mẹ báo cáo với bác sĩ: « Đứa con của tôi rất khó tính. Nó khóc la và quấy rầy tôi suốt ngày. Tôi không làm được gì cả với bé », Vô thức của bà đã có mặt trong tất cả ba mệnh đề đơn sơ và vắn gọn ấy. Bà tưởng rằng: mỗi điều bà trình bày cho bác sĩ khám bệnh đều là những tin tức rõ ràng và chính xác.

Thực ra, nếu bác sĩ có những kiến thức chuyên môn về Phân Tâm Học, với những câu hỏi, ông sẽ có khả năng gọi Vô Thức của bà mẹ và đem Vô Thức ấy ra vùng ánh sáng của Ý Thức.

- Câu hỏi thứ nhất: « Bà vừa trình bày cho tôi nghe: đứa con của bà rất khó tính, có phải vậy không ? Bà làm ơn nói thêm cho tôi biết rõ hơn: cháu khó tính bằng cách nào, cháu làm gì cụ thể ? ». Ở dưới những lời khẳng định của bà mẹ, bác sĩ đã đào bới, yêu cầu bà tìm ra những tin tức cụ thể, những sự kiện khách quan. Trên đó, bà đã thiết lập những giả thuyết và rút ra những kết luận.

- Câu hỏi thứ hai: « Như bà vừa nói ra, đứa con của bà khóc la và quấy rầy bà suốt ngày. Suốt ngày có phải là suốt 24 tiếng đồng hồ, không bao giờ dừng lại ? ». Với câu hỏi nầy, bác sĩ đã gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một cơ chế tâm lý mang tên là xu thế phóng đại, cường điệu. Theo lối nói bình dân, đó là khuynh hướng « có bé xé ra to », hay là « vơ đũa cả nắm ».

- Câu hỏi thứ ba: « Như bà đã trình bày, bà không làm được gì cả với đứa con của bà. Nhưng thực ra bà muốn làm gì với cháu, mà bà không làm được ? ». Câu hỏi nầy nhằm giúp bà mẹ định nghĩa một cách chính xác, những động từ mà bà thường dùng. Hẳn thực, khi bà mẹ có một mục tiêu rõ rệt, ngang tầm phát triển của đứa con, bà sẽ có khả năng thực hiện và thành tựu mục tiêu ấy.

Một vài ví dụ đơn sơ và dễ hiểu như vậy cho chúng ta thấy được một phần nào: Vô Thức không phải là một « bí mật cao siêu, mầu nhiệm ». Trái lại, Vô Thức có mặt ở trước và bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta không thấy, không nghe, không cảm, vì Vô Thức đã trở thành tập quán, xương da, máu thịt của chúng ta.

Nhằm đánh thức và giúp chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, tác giả A. ROBBINS kêu mời mỗi người hãy nhìn năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày, phát biểu một ý kiến (5).

Kỹ thuật năm ngón tay trái

- Một, ngón tay út phía bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ như: luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi...chúng ta đặt ra cho mình câu hỏi: Luôn luôn không có ngoại lệ à? Tất cả không thiếu một ai cả sao?

- Hai, ngón tay đeo nhẫn. Các từ: phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi: Ai đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?

- Ba, ngón tay giữa. Các động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực hiện...Cách đặt câu hỏi: Hợp tác...bằng những cách làm cụ thể và khách quan nào ?

- Bốn, ngón tay trỏ. Các danh từ tổng quát và trừu tượng như: người Việt Nam, hòa bình, tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi: Người Việt Nam cụ thể là ai, tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ? Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?

- Năm, ngón tay cái. Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều, tốt hơn, quá xấu...Cách đặt câu hỏi: So sánh với ai, cái gì để quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?

Sào huyệt thứ hai của Vô Thức : Đúng-Sai, Có lý-Vô lý, Tốt-Xấu.

Khi khẳng định về ba cách đánh giá vừa được nêu ra, chúng ta đã ở vào giai đọan thứ ba của một tiến trình tư duy. Đành rằng người nghe chúng ta, sẽ không thể nào hay biết gì về hai giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Nhưng chính người phát biểu - là chúng ta - có ý thức đến hai giai đoạn kia hay không ? Bao nhiêu ngộ nhận, hiểu lầm và xung đột giữa chúng ta với người khác, đều bắt nguồn từ « những con đường tắt », hay là « những bước nhảy vọt » ấy.

Trở lại với tiến trình của Tư Duy - còn được gọi là những nấc thang của Suy Tư và Lý Luận - chúng ta cần phân biệt ba giai đoạn thiết yếu:

- Giai đoạn một: Lắng nghe, ghi nhận và tiếp thu những tin tức khách quan và cụ thể, do môi trường sinh hoạt cung ứng. Tôi thấy gì, tôi nghe gì, với đôi mắt và hai lỗ tai của tôi, chứ không phải do dư luận đồn thổi ?

- Giai đoạn hai : Từ những dữ kiện ấy, tôi đề xuất giả thuyết nào ? Tôi « thuyên giải làm sao », nghĩa là quyết định và chọn lựa ý nghĩa nào, giữa bao nhiêu con đường xuôi ngược khác nhau ?

- Giai đoạn ba: sau khi rà soát lại những tin tức và trắc nghiệm, kiểm chứng lại giả thuyết, tôi rút ra kết luận như thế nào ? Và với kết luận ấy, tôi nói gì, làm gì, cảm gì với con người xương thịt, cụ thể đang ở trước mặt tôi ?

Mặc dù với ba bước đi lên, được thực hiện và cân nhắc, một cách có hệ thống và khoa học, tôi vẫn còn phải thú nhận, với tất cả lòng thành tâm và khiêm tốn, rằng: kết luận cuối cùng của tôi chỉ là một lối nhìn CHỦ QUAN của tôi mà thôi. Một người khác, trong vai trò và vị trí hiện tại, cũng như với những điều kiện giáo dục và kinh nghiệm về cuộc sống... có thể có những tin tức hoàn toàn khác biệt. Từ đó, người ấy sẽ có một lối thuyên giải khác. Và kết luận cuối cùng của người ấy sẽ phản ảnh lợi ích riêng tư và quá trình học vấn của người ấy.

Dựa vào đâu, tôi khẳng định rằng: Tôi đúng, tôi có lý, tôi có toàn quyền về sự thật ? Phải chăng chỉ vì tôi đang ở dưới một « chế độ Vô Thức » ?

Để cùng nhau và giúp nhau dấn bước vào con đường Ý Thức, mỗi người trong chúng ta hãy nhìn nhận và đón nhận ba loại câu chuyện khác nhau:

- Câu chuyện « Ngôi Thứ Nhất » của tôi,

- Câu chuyện « Ngôi Thứ Hai » của người khác, đang nói chuyện và tiếp xúc với tôi,

- Câu chuyện « Ngôi Thứ Ba » của một bà mẹ đang « cưu mang cả hai chúng ta, trong cùng một bọc trứng », hay là của một người cha « có một con tim và bộ óc bao la như Đại Dương », đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ bốn phương chảy về. Họa may, lúc bấy giờ, chân lý sẽ mượn con đường tình thương, đề mặc khải mình.

Thái độ duy nhất của những người đang nói chuyện với nhau là « cùng với nhau », AND stance. Trong tiếng Anh khoa học ngày nay, có những từ rất nhỏ, rất tầm thường, rất quen thuộc, ở đầu môi lưỡi của mọi người, thậm chí nơi một trẻ em vừa mới bập bẹ học nói. Nhưng giá trị của nó rất lớn lao, kỳ vĩ, về mặt làm người. AND có nghĩa là VÀ. Tôi chuyển dịch là « cùng với ». Trên con đường Ý Thức, cùng với bạn, tôi học lại một lối nhìn. Cùng với bạn, tôi nghe lại với vành tai xôn xao. Cùng với bạn, tim tôi phập phòng, trăn trở, thổn thức và đập nhịp, để nuôi sống mọi tế bào trong cơ thể. Để làm mới lại những quan hệ nối kết chúng ta, trong cùng một Trời Biển, trong cùng một Nước Non. Không có bạn, tôi mất đi một nửa con đường Ý Thức của tôi. Cho nên tôi lại phải đắm chìm trong bóng đêm mịt mù của Vô Thức triền miên.

Sào huyệt thứ ba của VÔ THỨC: Ý Định của bạn và của tôi.

Mặc dù không có dịp được trang bị về Phân Tâm Học, thi sĩ Xuân Diệu đã có những lối nhìn xuất sắc về Vô Thức (6):

« Ai đem phân chất một mùi hương,

« Hay bản cầm ca, tôi chỉ thương,

« Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc,

« Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.

« Làm sao cắt nghĩa được Tình Yêu ?

« Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,

« Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

« Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu... »

Hẳn thực, phải chăng trước khi yêu ai, tôi đã biết ngồi lại, cân nhắc, đánh giá một cách bình tĩnh và sáng suốt, để rồi sau đó tôi có thể một lần dứt khoát chọn lựa và quyết định, mà không sợ mình đã sai lầm ?

Theo lối nhìn của Tâm lý đương đại, trong địa hạt tình yêu, cũng như trong bao nhiêu sinh hoạt khác, không bao giờ chúng ta có khả năng quyết dịnh, một cách dứt khoát, trong chỉ một lần. Trái lại, để cho tình yêu đâm chồi, nảy lộc, nở hoa và kết trái, ngày ngày chúng ta phải chọn lựa lại, quyết định lại. Từ xưa, tổ tiên và cha ông chúng ta đã nhắn nhủ: Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân. Mỗi ngày, đổi mới. Mỗi ngày, đổi mới lại. Càng ngày càng đổi mới. Bằng không, chúng ta chỉ là « hồn ma phiêu bạt », sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết hẳn. Cho nên, chúng ta chỉ là gánh nặng, cho nhiều người cùng chung sống.

Khi nói về ý định -của bạn, của tôi hay là của một ai khác- chúng ta cũng cần có một lối nhìn sáng suốt và thức tỉnh như vậy:

- Thứ nhất, ý định phát xuất từ nhiều tầng sâu của nội tâm. Trong đó, vừa có lối nhìn của tư duy soi sáng hướng dẫn, vừa có những xúc động đang động viên và thúc đẩy tôi.

- Thứ hai, duy chỉ tôi mới có thể biết ý định của tôi. Tuy nhiên, cái biết ấy rất hạn chế. Còn bao nhiêu yếu tố khác đang thoát ra ngoài vòng ý thức của tôi.

- Thứ ba, những ai khác, ngoài tôi ra, không thể nào biết ý định của tôi, ngoại trừ sau khi tôi bộc lộ mình cho người ấy. Trường hợp họ đinh ninh rằng họ biết, là vì họ đang bói đoán hay là dự tưởng mà thôi. Đó không phải là cái biết phát xuất từ suy luận, bởi vì họ không thể nào có những dữ kiện khách quan, để xây dựng tiến trình tư duy của họ.

Không có những kiến thức cơ bản và rõ ràng về ý định như vậy, chúng ta dễ áp đặt cho kẻ khác, những ý định không có mặt trong nội tâm của người ấy. Chúng ta chỉ « phóng ngoại » những gì đang nung nấu, trong cõi lòng của chúng ta mà thôi. Khi phóng ngoại như vậy, tôi đang chiếu lên khuôn mặt của kẻ khác, một cuốn phim xoay vần trong nội tâm của tôi.

Ngược lại, khi kẻ khác áp đặt cho tôi một ý định, điều quan trọng, khả dĩ tạo nên những quan hệ xung đột, hận thù giữa tôi và người ấy, không phải chỉ là ý định mà thôi. Nhưng là vết thương lòng lở lói, do thái độ của người ấy tạo nên, trong lảnh vực xúc động và tình cảm của tôi. Chính vì lý do đó, mặc dù người ấy đã rút lại lời nói của họ hay là cải chính tin tức đã đưa ra, vết thương lòng của tôi vẫn cứ rướm máu, nhức nhối. Hận thù vẫn tiếp tục. Xung đột vẫn kéo dài.

Để thoa dịu và hàn gắn vết thương trong tâm hồn của một người, như tôi sẽ nói tới, trong những đoạn sau này, là NHÌN NHẬN và ĐÓN NHẬN vết thương xúc động của người ấy. Chỉ biết chừng đó, chúng ta đã bắt đầu có khả năng nâng cao chất lượng làm người, trong bản thân của chúng ta và trong đời sống của nhiều người khác.

Thêm vào đó, chúng ta nên nhớ rằng: vết thương vừa có mặt, không những trong người bị áp đặt một ý định. Vết thương lòng cũng có mặt trong người áp đặt ý định cho người khác, một cách hồ đồ. Sở dĩ họ làm như vậy, là vì họ đang bị Vô Thức khống chế. Họ đang lo sợ. Họ đang khổ đau. Họ cảm thấy mình không được yêu thương và chú trọng, đúng như lòng mong đợi. Cho nên, khi chúng ta bị áp đặt từ ngoài một ý định không có căn cứ, thay vì chối từ, đính chính với một thái độ tự vệ hay là biện minh, chúng ta bắt đầu hướng đến niềm đau của người ấy:

« Bạn vừa nói rằng tôi có ý định phá hoại dự án mà bạn đã tốn rất nhiều công phu, để suy nghĩ và xây dựng. Như vậy là bạn đang khổ đau rất nhiều, vì cảm thấy mình không những không được nâng đở, mà còn bị bạn bè cản trở. Bạn có thể chia sẻ thêm cho tôi hiểu: bạn đang khổ tâm đến độ nào. Sau đó, tôi xin trình bày cặn kẻ ý kiến và thái độ của tôi, đối với bạn... ».

Hẳn thực, khi một người đang đau khổ, vì bất cứ lý do gì, chất lượng làm người gọi mời chúng ta hãy tìm cách băng bó vết thương lòng còn lở lói của người ấy, trước khi phân trần hoặc giải thích thái độ và tác phong chân thực của mình.

Sào huyệt thứ bốn của Vô Thức : vấn đề ĐỒNG TRÁCH NHIỆM của mỗi người

Trên một chuyến tàu làm người, mọi người cùng có mặt với nhau. Họ mang nhiều tên tuổi khác nhau như: Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương hay là Vua Hùng Thứ Mười Tám, và bao nhiêu người khác...Nhưng tất cả đều liên đới với nhau. Như trên đây tôi đã trình bày cặn kẻ, mỗi người - bất kỳ họ là ai, lớn nhỏ, nam nữ, già trẻ...- đều đóng ba vai trò cùng một lúc:

- Thứ nhất là vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm truyền thừa cho người đến sau một gia tài phong phú.

- Thứ hai là vai trò làm người đồng hành và chia sẻ, họp nhau lại thành « một trăm con mắt » để thấy, « một trăm cánh tay » để làm.

- Thứ ba là vai trò làm một đứa con hạnh phúc, « nuôi lại Tổ Tiên và Cha Mẹ của mình ». Những điều mà quí vị đả bắt đầu, hôm nay tôi tiếp nối. Những điều mà quí vị đã thành đạt, hôm nay tôi mở rộng chân trời. Những điều mà quí vị đã thất bại, hôm nay tôi « rút kinh nghiệm », sáng tạo thêm những con đường cao cả và bao la, thay thế vào những con đường lầy lội.

Thay vì bước tới và đi lên cùng với nhau như vậy, chúng ta đã và đang lặp đi lặp lại những con đường mòn xung đột và tranh chấp giữa hai nhân vật « Sơn Tinh và Thủy Tinh ». Tại sao chỉ hai người ấy mới « có tiếng nói », trong vòng bốn nghìn năm văn hiến ? Tại sao duy hai người ấy mới có độc quyền « chỉ đạo » con tim và bộ óc của chín mươi tám anh chị em khác ?

Khi chúng ta tố cáo, kết tội, phê phán... chúng ta đưa tay chỉ phe bên kia và qui chiếu về phía họ mọi trách nhiệm. Còn chúng ta, chúng ta từ khước trách nhiệm. Chúng ta khoác cho mình vai trò « làm nạn nhân » hay là « ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài », và rình rập chĩa súng bắn lén sau lưng họ.

Khi chúng ta lưu tâm đến công việc lên án, kết tội...chúng ta chỉ biết NHÌN QUÁ KHỨ, nhìn LẦM LỖI. Và chúng ta quên rằng: cuộc sống làm bằng hiện tại và tương lai, Yêu Thương và Hiểu Biết, Thứ Tha và Bao Dung.

Trái lại, khi chúng ta biết cùng nhau ngồi lại, rút ra những bài học, chắt lọc những kinh nghiệm, lỗi lầm lúc bấy giờ sẽ trở thành một bàn đạp, một điểm tựa quí hóa, để chúng ta có khả năng dời núi, lấp sông, xây lại những chiếc cầu « đồng cảm ».

Thêm vào đó, mấy ai trong chúng ta đang sống trong ánh sáng của Ý Thức, để can đảm và sáng suốt chấp nhận rằng: Khi có một lỗi lầm xảy ra bất kỳ ở nơi đâu, do bất kỳ ai khởi xướng, chính tôi đã GÓP PHẦN mình trong đó, không nhiều thì ít. Sở dĩ như vậy, một đàng vì trong bao nhiêu năm, tôi đã THINH LẶNG ĐỒNG LÕA. Đàng khác, vì tôi đã la lối ỏm tỏi, chống đối rùm beng bằng mồm miệng. Đang khi đó, tôi không bao giờ tra tay vào một việc làm cụ thể và hữu hiệu.

Càng chống đối bằng ngôn từ thuần đơn, tôi chỉ quảng cáo và tạo thêm cơ hội thuận lợi, để cho lỗi lầm càng ngày càng lan tràn và phát triển, như vết dầu loang.

Nhằm chuyển hóa một vấn đề hay là một lỗi lầm, Phân Tâm Học đề nghị cho chúng ta những đường hướng hành động thiết thực sau đây:

- Thứ nhất, ý thức và gây ý thức về tiến trình phát sinh của vấn đề, khi vấn đề đang còn ở trong giai đoạn trứng nước. Trái lại, kêu gào giải quyết vấn đề, tổ chức những cuộc đấu tranh bằng mồm miệng, khi vấn đề đã lên tới giai đoạn cực thịnh, chúng ta chỉ làm công việc chữa bệnh dịch hạch, bằng cách « thoa dầu cù là » ngoài lớp da mà thôi.

- Thứ hai, ở bên dưới mổi vấn đề to hay nhỏ, luôn luôn có một niềm đau, một vết thuơng lòng rướm máu, một nỗi lo sợ sâu xa chưa được ai băng bó. Nếu chúng ta muốn đi nhanh, dùng bạo động, chiến tranh, hận thù để giải quyết, có lẽ chúng ta dập tắt được một ngọn lửa. Nhưng đám cháy sẽ lan tràn, tiêu hủy cả một rừng già, một giang sơn gấm vóc.

- Thứ ba, trong cuộc sống làm người, để giải quyết bất kỳ một vấn đề gì, chúng ta không thể không ngồi lại với chính những người trong cuộc, thậm chí đó là một trẻ em. Ngồi lại, lắng nghe, tôn trọng quyền phát biểu của người ấy. Quyền ấy cũng là quyền làm người.

- Sau hết, truớc khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề tranh chấp, xung đột, hãy nhìn nhận và đón nhận vô điều kiện những xúc động của người đối diện, như lo sợ, tức giận, cảm nghiệm bị đàn áp, bốc lột...Đó là những vết thương lòng rướm máu đang khống chế và làm băng hoại chất lượng làm người của họ. Hãy mang lại cho họ chất lượng làm người, tràn đầy và thấm nhuần trong tấm lòng của chúng ta, họ sẽ dần dần trở nên người anh chị em thực sự và thân thương.

Bốn cách làm ấy đã có mặt trong tác phong « làm Bản Ngã trợ tá » của một bà mẹ, xuyên qua mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi với đứa con, vừa đi ra khỏi cung lòng ấm cúng của mình. Cuống rốn nối kết hai mẹ con đã được cắt lìa. Nhưng một cuống rốn vô hình khác làm bằng Tình Thương, Hiểu Biết và Tinh Thần Trách Nhiệm đang được sáng tạo và thành hình mỗi ngày. Nhờ vào đó, đứa con có gan mạo hiểm đi vào lòng cuộc đời, để trở thành người.

Sào huyệt thứ năm của VÔ THỨC : Đời sống Xúc Động

Gần như trong tất cả mọi cuốn sách được tôi viết ra từ trước cho tới nay, luôn luôn tôi đã dành ra ít nhất một chương, để trình bày những khám phá và nghiên cứu của tôi, về đời sống xúc động. Vừa hoàn tất một tác phẩm, tôi đã nhận thấy ngay lập tức nhiều trọng điểm chưa được « tát cạn ». Bao nhiêu tin tức còn nóng hổi, vừa xuất hiện trên các diễn đàn văn hóa...Hẳn thực, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Phân Tâm Học đã ấn mạnh vai trò của xúc động trong toàn diện cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm gần đây, bao nhiêu phương pháp tiếp cận, thuộc nhiều lảnh vực khác nhau, đã ra đời, như khoa học về não bộ, phương pháp « Tạo Trung Gian » trong khoa học xã hội, Thuyết Cấu Trúc trong địa hạt Triết lý...đã cung ứng nhiều nguồn ánh sáng rất thiết thực và độc đáo. Cho nên, tôi không thể không mang đến cho giới trẻ, nhất là ở Quê Nhà, một vài tin tức về hướng đi của Nhân Loại, trong thời đại Nghìn Năm Thứ ba.

Hôm nay, khi nói đến những xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, làm sao tôi không nhấn mạnh lại, và nhắc nhở cho đàn em của tôi, rằng: Xúc động là sào huyệt lớn lao nhất của VÔ THỨC. Nhu cầu của con người nằm ở đó. Nhưng đồng thời, động cơ thúc đẩy chúng ta đứng dậy, bước tới, tìm đến với những giá trị lớn lao và cơ bản, trong cuộc sống làm người, cũng bắt nguồn từ đó. Nếu Sơn Tinh và Thủy Tinh biết ngồi lại với nhau từ buổi đầu, chia sẻ cho nhau về những xúc động của mình, nhìn nhận và đón nhận nhau, họ đã mở ra cho các thế hệ về sau, những chân trời, những kinh nghiệm, những bài học làm người quí hóa.

Bài học thứ nhất cần được chúng ta ghi nhận là vấn đề ý thức và diễn tả những xúc động vừa đang hiện hình trong nội tâm.

Nếu không được mang ra ánh sáng của ý thức, chúng nó sẽ tìm cách NGỤY TRANG, để trốn thoát ra ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau.

- Chiếc áo ngụy trang thứ nhất là Tư Tưởng Nhị Nguyên trong những lời tố cáo, phê phán, qui lỗi: Tao hơn mày thua.

- Chiếc áo ngụy trang thứ hai là xu thế ước đoán hay là khoác cho kẻ khác những ý định tiêu cực như phá hoại, gian lận, phản bội...: Mày cố ý khinh thường tao.

- Chiếc áo ngụy trang thứ ba là tập quán chụp mũ, gắn nhãn hiệu, bằng những danh hiệu rất mơ hồ và tổng quát: Mày là đồ cù lần.

- Chiếc áo ngụy trang thứ bốn là bộ mặt mô phạm, dạy đời: đưa ra những lời khuyên, đề nghị cho kẻ khác những cách giải quyết, theo ý chủ quan của mình, hay là trấn an một cách thông lệ: Thôi, can đảm lên chứ. Con trai mà khóc, người ta sẽ cười chết.

Bài học thứ hai cần ghi nhận là phương thức đối ứng với những xúc động nơi người khác.

Khi nhận thấy có người đang bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, những xúc động của mình, điều chúng ta cần làm trước tiên là nhìn nhận và đón nhận, có nghĩa là coi trọng những cảm nghiệm của họ. Coi trọng như vậy không có nghĩa là đồng ý với cách phản ứng của họ. Nhìn nhận như vậy là « gọi tên » xúc động đang thành hình, xuất hiện hay là còn ẩn lén trong nội tâm của người đang tiếp xúc với chúng ta:

« Qua lời bạn vừa nói ra... qua hành vi của bạn mà tôi ghi nhận... hình như bạn đang bực tức và lo buồn... ».

Chúng ta có thể nêu lên hai hay ba tên gọi khác nhau. Thông thường, những xúc động không bao giờ xuất hiện một mình. Hai hay ba phản ứng có thể dính liền và cùng đi với nhau. Theo tác giả G. JAMPOLSKY (7), lo sợ luôn luôn có mặt, mỗi lần chúng ta tố cáo, chụp mũ hay là có tác phong mất bình tĩnh, khi bộc lộ một xúc động đang trấn áp nội tâm. Và trước nỗi niềm lo sợ của một người, chỉ có tình yêu thương là câu trả lời thích hợp và đứng đắn. Thái độ « Nhìn nhận » phát xuất từ lòng yêu thương chân thành ấy.

Nói tóm lại, nhìn nhận xúc động của một người, là khẳng định với người ấy, một cách rõ ràng và chân thực, ba thái độ làm người của chúng ta:

- Thứ nhất, tôi đang lắng nghe bạn, với trọn con người của tôi,

- Thứ hai, tôi muốn tìm hiểu bạn, đúng như bạn hiểu chính mình,

- Thứ ba, tôi tôn trọng và ghi nhận xúc động đang hiện hình trong bạn.

Khi người khác không được chúng ta nhìn nhận, một cách nghiêm minh và cẩn trọng như vậy, những quan hệ giữa họ và chúng ta sẽ từ từ suy vong và tàn lụi. Trong những trường hợp trầm trọng hơn nữa, bao nhiêu nguyên nhân gây ra xung đột, hận thù, chia rẽ đều len lỏi, nằm vùng ở đó.

Bài học thứ ba cần ghi nhận: Thương lượng, để diễn tả và chuyển hóa Xúc Động

Mỗi lần nói đến « chuyển hóa Xúc động », chúng ta nói đến hai động tác cần thực hiện: Một là ý thức về những hiện tượng khá phức tạp đang xuất phát trong nội tâm. Hai là làm chủ bản thân và đời sống của mình. Có người sử dụng lối nói: quản lý, chuyển dịch từ tiếng Anh « To manage, Managing, Management ». Phần tôi, tôi sở hữu hóa lối nói của Kinh Dịch « chuyển hóa hay là hóa giải », nghĩa là thay vào, khoác vào một bộ mặt, một hình thức thích ứng hơn, hữu hiệu hơn, có chất lượng làm người hơn. Tôi xin đan cử một ví dụ: Tức giận là quyền làm người của mỗi người cần được tôn trọng và cho phép. Nhưng bộc lộ tức giận bằng những tác phong bạo động, la mắng, nạt nộ, trừng phạt, đánh đập... không thuộc về chất lượng làm người. Trong quan hệ giữa người với người, chúng ta cần sáng tạo những hình thức thích hợp hơn.

Theo ý kiến của Tác giả Douglas STONE, để có thể chuyển hóa một xúc động, chúng ta bắt đầu bằng động tác THƯƠNG LƯỢNG (8).

Hẳn thực, giữa Tư Duy và Xúc Động, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Xúc động bắt nguồn từ một lối nhìn, một cách thuyên giải. Nhưng khi xúc động đã có mặt trong nội tâm, nhất là những xúc động quá mãnh liệt và tràn ngập, xúc động lúc bấy giờ sẽ trở lại khống chế tư duy. Trong tình huống nầy, tư duy trở thành con múa rối, bị xúc động lèo lái, chỉ huy, trấn áp. Nói khác đi, tư duy không còn hoạt động dưới ánh sáng của Ý Thức. Tư duy bị khống chế, tê liệt, trong chế độ Vô Thức bắt nguồn từ xúc động không được nhìn nhận và đón nhận.

Thương lượng là trở lại với ba nấc thang của Tư Duy, mà tôi đã trình bày truớc đây:

- Nấc thang thứ nhất: tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì, một cách cụ thể và khách quan. Sự kiện được ghi nhận là gì ?

- Nấc thang thứ hai: tôi thuyên giải thế nào. Phía bên kia, sau khi nghe tôi, người đối diện sẽ thuyên giải theo chiều hướng nào ? Khi có những khác biệt giữa hai lối nhìn, tôi sẽ đề xuất những quyết định bổ túc thế nào, cho hợp tình hợp lý ?

- Sau khi thương lương như vậy, nghĩa là lắng nghe mình và lắng nghe người khác, dưới ánh sáng chan hòa của ý thức, công việc còn lại là diễn tả chất lượng làm người, diễn tả một tấm lòng ĐỒNG CẢM của mình.

Sau khi lắng nghe, trao đổi, tìm hiểu...cả người đối diện cùng với tôi đi đến kết luận nào ? Hay là tôi vẫn tiếp tục tố cáo ? Vẫn khư khư tin tưởng như đinh đóng là người kia cố tình chèn ép tôi ? Đối với tôi, lỗi vẫn hoàn toàn thuộc về phe bên kia ?

Sơ đồ diễn tả đã được tôi giới thiệu và trình bày trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành » (9):

- Bước thứ nhất: Khi tôi thấy... tôi nghe...

- Bước thứ hai: Tôi cảm...

- Bước thứ ba: Xuyên qua xúc động ấy, tôi cần...

- Bước thứ bốn: Vậy bây giờ, tôi xin bạn hãy...

Và sau khi diễn tả lòng mình, chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của kẻ khác. Khi đón nhận niềm đau của anh chị em đồng bào, chúng ta sẽ giật mình tĩnh thức, vì thấy rằng: niềm đau của chúng ta chỉ là hạt nước, trong một đại dương bao la.

( Xem tiếp Bài Chia Sẻ số Ba: VÔ THỨC là một thách đố lớn lao và kỳ hùng )

Tháng 8 năm 2008

CH-1694 ORSONNENS/Fr, Suisse


BÍ CHÚ:

5.- ROBBINS R.- Unlimited Power: a black choice -Simon and Schuster, N.Y. 1997 p.251.

6.- 100 bài thơ tình - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993, tr. 9.

7.- JAMPOLSKY G. - Aimer c'est se libérer de la peur - Ed. Soleil, Genève 1980

8.- STONE D. - Difficult Conversations -M-Joseph, London 1999.

9.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình Người, Lausanne 2003.