Tâm tình cùng dì phước Rose Marie Redding

Từ bấy lâu nay có nhiều người muốn biết về giai đoạn sau Tháng Tư 1975. Những người tị nạn Việt Nam đầu tiên đến Orange County có đông không? Họ bắt đầu làm lại cuộc đời như thế nào? Ai là những ân nhân giúp đỡ họ?

Trong nỗ lực sưu tầm, chúng tôi được gặp ông Bùi Thọ Khang, một trong số những người Việt tị nạn đầu tiên định cư tại Orange County. Ông đã sốt sắng giúp cho tài liệu, dàn xếp cuộc tiếp xúc với Dì Phước Rose Marie Redding, thuộc Dòng Mến Thánh Giá, tu viện San Joseph of Orange County, một trong những thiện nguyện viên tiên khởi đã vào tận trại tị nạn Pendleton, California giúp cho người tị nạn từ những ngày đầu.

Sister Rose Marie Redding nay đã 79 tuổi, còn khỏe mạnh, vẫn thương yêu người Việt một cách đặc biệt.

Suốt 33 năm qua, có nhiều chuyện truyền kỳ về những ngày đầu của cộng đồng Việt Nam được kể lại trong số người cố cựu, những người đặt chân đầu tiên tại Little Saigon.

Sister Rose Marie Redding là người nổi bật trong số các chuyện truyền kỳ mà “người tị nạn hồi 1975” thích truyền tụng. Sister có dáng người nhỏ, giọng nói ngọt ngào và chậm rãi.

Nhân lễ Tạ Ơn, chúng tôi đến thăm Sister tại tu viện Dòng Mến Thánh Giá và được Sister hướng dẫn thăm lại căn phòng hội họp trong tu viện dành cho người Việt tị nạn hồi 1975.

Biến cố Tháng Tư Ðen 1975 ụp xuống, dư luận của Hoa Kỳ có nhiều chia rẽ. Trong lúc chính phủ quyết định ra tay cứu vớt, đón nhận người Việt tị nạn thì không thiếu các khuynh hướng quần chúng chống đối, chỉ trích và hững hờ trước làn sóng người Việt tị nạn.

Không giống những đợt người Việt đến sau, những người tị nạn hồi 1975 thật sự bơ vơ lạc lõng giữa vùng đất mới. Hi vọng bài phỏng vấn này sẽ góp một phần nhỏ vào công việc ghi nhớ công đức của những bậc đại ân nhân với người Việt tị nạn chúng ta.

Hỏi: Có phải Sister là người đầu tiên của tu viện Dòng Mến Thánh Giá đến thăm trại tị nạn Pendleton?

Ðáp: Không. Trước tôi đã có Sister Henrietta đến giúp tại trại rồi.

H: Nhờ đâu mà Sister biết tin về trại tị nạn mà đến thăm?

Ð: Tôi đọc báo và nghe tin qua các đài truyền thanh và truyền hình. Lúc đó tôi nghĩ tôi nên giúp họ, nhưng không biết phải làm gì. Rồi tôi nghe tin là nhiều người tị nạn Việt Nam cần quần áo cỡ nhỏ. Tôi không có nhiều lắm, nhưng cũng chọn ra một số, bỏ vào mấy chiếc túi xách rồi lái xe đến trại.

H: Sister có cảm giác ra sao khi đến trại?

Ð: Tôi rất choáng ngợp, không có một cảm xúc rõ rệt. Tôi cảm thấy choáng ngợp khi thấy có quá nhiều người chen chúc dưới các căn lều hay đứng xếp hàng dưới ánh nắng chói chang để nhận trợ giúp.

H: Sister có vô thăm những người trong trại không?

Ð: Lúc lái xe đi, tôi nghĩ rằng ở trại chắc sẽ có một trung tâm để tôi giao áo quần và ghi danh để được giúp người tị nạn, bằng bất cứ cách nào cũng được! Thế nhưng đến đó, tôi chỉ có thể lái xe vòng quanh trại, tôi không được vào bên trong, trừ khi tôi có I.D. dành cho những người làm việc ở đó. Rốt cuộc tôi chỉ có thể để những túi phẩm vật ở một trung tâm tiếp nhận phẩm vật mà không có ai làm việc ở đó cả. Trên đường lái xe 40 phút trở về tu viện, tôi cảm thấy buồn và thấy mình không giúp gì được hết. Tôi thầm nghĩ có lẽ lúc này Chúa chỉ muốn tôi như vậy thôi.

H: Vậy rồi làm sao Sister vô giúp trong trại được?

Ð: Khoảng một tuần sau, chị Henrietta hỏi tôi có muốn thay thế chị dạy Giáo Lý cho trẻ em trong trại không? Biết rằng không ai có thể thay thế chị được, tôi nhận lời và nói tôi sẽ làm hết sức mình. Từ đó, tôi bắt đầu đến trại mỗi Thứ Bảy để dạy Giáo Lý.

H: Sister có cảm xúc gì khi làm việc trong trại?

Ð: Tôi thấy rất tội nghiệp những người ở đây. Họ rất hoảng loạn. Tôi nhìn được và nghe thấy rất nhiều chuyện đau buồn. Có trường hợp một chị kia, tại Sài Gòn, trên đường chạy nạn, dí con vào chiếc taxi rồi sực nhớ mình chưa khóa cửa nhà, chạy vội trở lại để khóa cửa (đã chạy loạn thì cần gì phải lo đến căn nhà nữa nhưng khi người ta hoảng loạn thì không còn biết mình đang làm gì), rồi khi trở ra thì chiếc taxi đã không còn và mất luôn đứa con.

Tôi nói chuyện với những người tị nạn ở đây. Họ rất đau buồn vì lạc mất gia đình. Có người thanh niên kia kể lại, anh đi suốt ba ngày, đến từng căn lều trong trại để tìm thân nhân và may mắn tìm lại được. Thế nhưng có nhiều người không tìm lại được người thân của họ.

Người lớn thì hoảng loạn như vậy, nhưng trẻ con lại rất vô tư. Trẻ con trên thế giới này ở đâu cũng vậy hết. Chúng chẳng có những nỗi lo buồn của người lớn. Những đứa trẻ ở trại tị nạn này cứ hồn nhiên đi nhặt những viên đá trên bãi đất và chơi đùa với nhau.

H: Tại sao Sister muốn giúp người tị nạn Việt Nam?

Ð: Không hẳn là tôi giúp họ mà chính những người tị nạn này đã làm cho tôi và những người bản xứ rất xúc động được chứng kiến khả năng và khát vọng sống còn của họ. Họ không quản đến chuyện mất hết nhà cửa, tài sản, hay bao khó khăn trên đường vượt thoát để đến đất tự do.

Người Việt Nam cũng rất rộng lượng. Họ nghĩ đến người khác hơn bản thân họ dù khi họ nghèo và đói. Có lần tôi đến thăm một gia đình kia, họ không có đủ thức ăn nhưng nhất định mời tôi ăn chung với họ. Hoặc khi tôi đến thăm một gia đình khác, người vợ lấy ra chiếc áo dài màu xanh đẹp nhất của cô và nhất định muốn tôi mặc thử rồi tặng luôn cho tôi chiếc áo dài đó.

H: Vào thời gian đó, có những tổ chức nào giúp đỡ người tị nạn?

Ð: Có 4 cơ quan thiện nguyện là IRC, USCC, Hồng Thập Tự và Volags.

H: Có phải ai muốn bảo trợ người tị nạn cũng được không?

Ð: Không. Người tị nạn có quyền từ chối người muốn bảo trợ mình. Ðồng thời, những ai muốn bảo trợ người tị nạn phải nộp đơn với cơ quan Volags. Volags sẽ phỏng vấn và hướng dẫn họ những trách nhiệm họ sẽ có khi bảo trợ người tị nạn.

H: Sister nghĩ sao về quá trình bảo trợ người tị nạn Việt Nam?

Ð: Tôi nghĩ chính phủ Hoa Kỳ rất nhân ái. Họ không chỉ mở tung cửa trại và để người tị nạn tự len lỏi vào cuộc sống mới, nhưng họ đã kêu gọi người bản xứ bảo trợ và hướng dẫn những người tị nạn này hòa nhập vào đời sống hoàn toàn mới lạ đối với họ.

Lúc đó chính phủ Hoa Kỳ cho mỗi người tị nạn 500 dollar. Volags có quyền giữ 300 cho chi phí trang trải việc bảo trợ, còn lại 200 Volags trao cho người bảo trợ. Thực ra thì ban đầu Volags cũng không công khai về số tiền họ được chính phủ trợ giúp và có khi không đưa 200 dollar này cho người bảo trợ, trừ khi người bảo trợ hỏi. Tôi nghĩ chính phủ Hoa Kỳ rất nhân ái, nhưng họ không quản lý được hết mọi chuyện nên mới có chuyện này xảy ra.

H: Những người bản xứ có băn khoăn gì khi bảo trợ người tị nạn?

Ð: Ða số những người bảo trợ rất thành tâm muốn giúp người tị nạn. Có nhiều người nói với tôi, họ đã nộp đơn xin bảo trợ người tị nạn cả mấy tuần rồi mà vẫn không thấy Volags gọi đến phỏng vấn. Tuy nhiên, hầu hết những người bảo trợ muốn bảo trợ những gia đình nhỏ hơn là gia đình đông người.

Có gia đình một người tên Long. Ông Long và vợ con có thể được bảo trợ và ra khỏi trại bất cứ lúc nào, nhưng ông nhất định không chịu đi. Ông muốn được bảo trợ chung với gia đình bố mẹ của ông nữa, tổng cộng lên đến khoảng mười người. Thế nên gia đình ông bị kẹt lại trong trại khá lâu. May mắn là sau này có một câu lạc bộ phụ nữ ở thành phố Orange bảo trợ gia đình ông.

H: Sister có nhớ khi nào quá trình bảo trợ người tị nạn khỏi trại Pendleton chấm dứt không?

Ð: Trại đóng cửa ngày 15 Tháng Mười năm 1975. Lần cuối tôi đến thăm trại là ngày 7 Tháng Mười năm 1975. Vào khoảng Tháng Chín, chính phủ Hoa Kỳ đẩy mạnh quá trình bảo trợ. Họ nói những người còn sót lại trong trại sẽ được chuyển qua trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas. Vào thời gian trại sắp sửa đóng cửa, có khoảng 40 người còn sót lại. May là một vị linh mục đã mua một căn nhà ở khu đường Bolsa và Westminster, thành phố Westminster, và đưa tất cả những người này đến sống trong căn nhà đó.

H: Sau khi trại Pendleton đóng cửa, Sister còn liên lạc với người tị nạn Việt Nam không?

Ð: Có. Vào những giờ rảnh, tôi đến căn nhà nói trên để đưa những người ở đấy đi chích ngừa. Tôi cũng gặp gỡ những người khác để đưa họ đi chợ. Bây giờ thì ở quận Cam này đầy dẫy chợ Việt Nam, nhưng thời đó chỉ có một chợ Nhật Bản duy nhất ở Tustin. Ở đó không có nước mắm (cười), cho nên muốn mua nước mắm, tôi phải chở những người này lên Chinatown Los Angeles. Tôi thích thức ăn Việt Nam như phở, cháo gà. Tôi thích nhất là cháo gà, vừa ngon vừa dễ ăn.

H: Sister có thể kể những trường hợp tiêu biểu về việc người Việt tị nạn hội nhập vào cuộc sống mới?

Ð: Tôi rất quý trọng tính chịu khó và khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống mới của người Việt Nam. Có lần tôi hỏi một ông kia: Ông muốn làm việc gì, tôi sẽ tìm cho ông? Ông trả lời việc gì cũng được, miễn là có việc làm là được rồi. Người Việt rất chịu khó, họ không nề hà và chấp nhận bất cứ việc làm nào, miễn là họ có thể bắt đầu một cuộc sống mới.

H: Hiện nay Sister còn liên lạc với những người Sister đã giúp đỡ trước kia không?

Ð: Còn. Tôi vẫn đến những gia đình này thăm và ăn uống với họ.

H: Nghe nói Sister hiện có một chương trình nhân đạo giúp người nghèo ở Việt Nam?

Ð: Không có, tôi thỉnh thoảng có đi thăm Việt Nam, nhưng để liên lạc, trao đổi với các chị em Dòng Mến Thánh Giá bên đó.

H: Sister có thể kể một vài hoạt động tiêu biểu của Sister hiện nay không?

Ð: Hiện nay tôi thường đến thăm các trẻ em trong trại tù thiếu niên và nói chuyện với các em. Tôi cũng đang viết một cuốn sách tên là “Truyện Kể Cho Những Thế Hệ Tiếp Nối” (Stories for The Next Generations).

H: Lý do nào thôi thúc Sister viết cuốn sách này?

Ð: Một lần đến chơi với một gia đình người quen Việt Nam. Một người khách hỏi cô con gái trẻ trong gia đình là cô biết tôi trong trường hợp nào. Cô hồn nhiên nói không biết nữa, từ khi cô sinh ra là đã gặp và biết tôi rồi. Từ dịp này, nhiều người đã thuyết phục tôi nên viết hồi ký về mối liên hệ của tôi với người Việt Nam. Thực ra tôi cũng có ý định như vậy trước đó nhưng chưa muốn làm. Nhưng từ dịp đó, tôi quyết tâm sẽ viết cuốn hồi ký này.

Tôi nghĩ người Việt Nam thật tuyệt vời, họ không quản ngại khó khăn để đến đất tự do. Ðến đất nước này, họ không biếng nhác hay than van về hoàn cảnh khó khăn của họ, mà họ lập tức hòa nhập vào cuộc sống mới. Bởi thế mà con cháu của họ không biết hoặc không hiểu được những gì bố mẹ, ông bà họ đã trải qua. Tôi nghĩ tôi nên viết cuốn hồi ký này, mong rằng những người trẻ Việt Nam sẽ biết đến những hy sinh thế hệ trước đã trải qua.

Vũ Quỳnh Trâm - Trích lại từ báo "Người Việt"