Bức họa “Tiệc Ly” (La Cène) do Leonardo da Vinci thực hiện vào khoảng năm 1495, không những là một trong những kiệt tác nghệ thuật thế giới mà còn đánh dấu một niên hiệu lịch sử, một cuộc chinh phục trong phạm vi nghệ thuật.

“Trong lịch sử hội họa, không một bức tranh nào có tầm mức quan trọng hơn bức tranh này. Chính nó đã kết thúc thời đại ‘sơ thủy’ của nghệ thuật và mở màn cho thời Phục Hưng. Sau bức tranh này không còn nghệ sĩ ‘sơ thủy’ nữa, chỉ có nghệ sĩ ‘tân tiến’ mà thôi. Đó là bước cố gắng cuối cùng của lớp nghệ sĩ thế kỷ 15 để đạt tới sự hoàn mỹ” (Abel Fabre, Pages d’Art Chriétien, Paris, p.418)

Bức “Tiệc Ly” là một bức bích họa (fresque) vẽ trên mặt tường rộng lớn tại nhà cơm Tu viện Đa-minh Đức Mẹ Giáng Ân (Santa Maria delle Grazie) trong thành Milan, nước Ý.

Khi thực hiện bức họa này, Leonardo đã lý luận, nghiên cứu và suy tư rất nhiều. Biết bao lần ông chỉ tới khoanh tay suy niệm một hồi lâu rồi ra về không chịu vẽ một nét. Ông không quản ngại ra ngoài đường phố, đi du lịch đó đây với cặp mắt chú ý quan sát để tìm những mẫu người thích hợp với các nhân vật mà ông định diễn tả trong tranh.

Đề tài tổng quát bức họa là bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ trước khi lên đường khổ nạn. Leonardo đã thu gọn đề tài vào một thời điểm nhất định trong bữa tiệc: lúc Chúa vừa nói với 12 môn đồ: “Quả thật Thày bảo cho các con biết, một người trong các con sẽ phản Thầy”. Nét mặt Chúa buồn rầu, đôi mắt nhìn xuống như muốn tránh cái nhìn của kẻ Ngài vừa tố giác. Hai tay buông xuôi tựa xuống mặt bàn, cử chỉ của người vừa tiết lộ một điều quan trọng và bây giờ lặng thinh không nói nữa: một giây phút thinh lặng bi tráng !

Bỗng chốc, như một dòng điện, lời tố giác của Chúa truyền đi mau chóng, gây phản ứng đột ngột trên nét mặt và cử chỉ dáng điệu của 12 môn đồ. Mỗi ông phản ứng một cách tùy theo tính tình, tâm lý từng người :

Sát bên tay phải Chúa là Gioan, người môn đệ yêu quý có tâm hồn dễ cảm, biểu lộ một sự đau đớn trầm lặng sâu xa. Tiếp đến Phêrô tính bộc trực nóng nảy, ghé sát đầu Gioan hỏi nhỏ xem ai là thủ phạm. Con dao sắc nhọn chìa ra phía sau lưng chứng tỏ ông sẵn sàng nghiêm trị tức khắc đứa phản Thầy như lát nữa ông sẽ chém đứt tai tên đầy tớ thày thượng tế trong vườn Cây Dầu. Giuđa ngồi ngay trước Phêrô, có thái độ hốt hoảng như tên ăn trộm vừa bị lộ tẩy, tay phải ôm chặt túi bạc, tay trái giơ ra phía trước như muốn phân bua chối cãi. Kế đó là An-rê, xòe hai bàn tay ra, bỡ ngỡ kinh hoàng trước cái tin gở lạ không thể tưởng tượng được. Giacôbê hậu, tinh anh hơn, vươn cánh tay gọi Phêrô như để bảo ông: tôi đã đoán ra được ai rồi ! Cuối hàng là Bartôlômêô sửng sốt đứng dậy nghiêng mình về phía trước để xem và nghe cho rõ đầu đuôi câu chuyện.

Phía tay trái Chúa: Giacôbê tiền, nét mặt bỡ ngỡ kinh ngạc, hai tay giang rộng, lùi về phía sau như bị áp lực của lời Chúa vừa tung ra. Tôma, con người linh hoạt nhất trong nhóm, đã rời chỗ lại gần Chúa giơ ngón tay băn khoăn hỏi: “Thày có nghi ngờ gì tôi không ?”

Kế đến Philipphê, dáng điệu ôn hòa, chỉ tay vào ngực thề nguyện một niềm trung tín trọn vẹn. Mátthêu đang chuyển lại tin buồn cho hai ông bạn ngồi cuối bàn là Tađêô và Simon. Hai ông có phần lớn tuổi, cử chỉ điềm tĩnh chậm chạp hơn, nhưng nét mặt không giấu được nỗi lo âu, phiền muộn.

Giữa bầu khí xúc động náo nhiệt ấy, một mình Chúa ngồi rất điềm tĩnh, nét mặt hiền dịu in trên nền trời xanh êm ả, coi như Ngài không lưu ý gì tới sự xôn xao náo động chung quanh. Tuy nhiên người ta đọc được nét thoáng buồn trên khuôn mặt và hai bàn tay của Chúa.

Cách bố cục rất tài tình. Tác giả dàn xếp các nhân vật thành từng nhóm 3 người, mỗi bên hai nhóm. Chúa ngự giữa trung tâm bức tranh. Tất cả các đường nét, các điệu bộ, cử chỉ đều hướng về trung tâm. Từ nhóm nọ sang nhóm kia, tác giả cũng hữu ý nối kết lại với nhau bằng những đường nét rất tự nhiên, tỉ dụ bàn tay Gia-cô-bê vắt qua lưng Phê-rô để nối liền hai nhóm bên phải Chúa, và cánh tay Mát-thêu giang ra làm gạch nối giữa 2 nhóm bên trái Chúa.

So sánh với các bức hoạ “Tiệc Ly” của Fra Angelico hoặc của Pégurin, Ghirlandaio, người ta thấy rõ sự khác biệt. Các hoạ sĩ này thường sắp đặt các nhân vật rất đều đặn cân đối quanh một chiếc bàn. Mỗi tông đồ là một pho tượng biệt lập, sắp lại gần nhau, nét mặt bình thản hoặc trầm tư, ông nào như ông nấy, không biểu lộ một tâm tình cá nhân nào cả. Các tác giả thời ấy còn có thói quen thêu thùa nhiều chi tiết rườm rà không liên quan gì tới cốt chuyện. Chẳng hạn trong bức “Tiệc Ly” của Ghirlandaio tại tu viện San Marco, Florence, người ta thấy ngoài những nhân vật cần thiết trong bữa tiệc ly, tác giả còn vẽ thêm nào là con mèo ngồi rình sau lưng Giu-đa, nào là con công đậu trên cửa sổ và nhiều giống chim khác bay lượn trong vườn cam chín vàng hiện ra sau bàn tiệc. Lại còn đĩa, chén, mâm trái, những bình đựng muối, những mẩu bánh mì rải rác khắp mặt bàn !

Bức hoạ của Leonardo đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ giữ lại những điểm cần thiết làm sáng tư tưởng ông muốn diễn tả mà thôi. Về phương diện phối cảnh hay viễn họa (perspective), Leonardo đã sử dụng tất cả kiến thức chuyên môn của thời ông để thể hiện trong bức “Tiệc Ly”. Nhìn vào tranh, người ta có cảm giác là căn phòng “Tiệc Ly” kéo dài và nối tiếp phòng cơm của tu viện.

Nói tóm lại, trong bức “Tiệc Ly”, Leonardo da Vinci không những đã đúc kết tất cả những tìm tòi nghệ thuật của thế kỷ 15 về hình thể vật chất con người, nhưng còn đem vào đó cách diễn đạt tâm lý rất tinh vi.

Một hoạ sĩ Việt Nam du học tại Pháp, sau khi có dịp tới Milan ngắm hoạ phẩm trứ danh trên đây, đã ghi lại cảm xúc của ông như sau :

“Tôi có cảm giác lạ lùng vì cảnh diễn trong tranh có vẽ thật quá, tưởng chừng như chính mình đang cùng với những sứ đồ của Gia-tô sống những giờ phút bi tráng. Những nét mặt đau xót, căm giận, những con mắt lo lắng, ngờ vực, những dáng điệu đột ngột, sửng sốt của các sứ đồ khi nghe thấy Chúa nói: ‘Một người trong các anh sẽ phản bội ta’, nó linh động làm sao !

Cách bổ trí giản dị, nét vẽ tinh vi, màu sắc nhịp nhàng, hoạ sĩ đã diễn tả thật là hoàn mỹ. Có lẽ chưa có một tác phẩm nào trong hội hoạ tố cáo được sự phản bội một cách tàn nhẫn, thê thảm như vậy.

Với bức tranh kiệt tác này, ta thấy, qua một đề tài tôn giáo, Leonardo đã kết án, và người ngắm tranh, chẳng cần là người theo đạo Gia-tô, cũng có thể lĩnh hội được thâm ý của hoạ sĩ, đã kết án cái phản trắc, gian giảo, đồi bại của con người, vì tham lợi có thể phản bội cả đến những gì rất cao cả, thiêng liêng …”

Về tình trạng “sức khoẻ” của hoạ phẩm, tất cả những ai đã có cơ hội may mắn tới Milan chiêm ngắm tận nơi, đều tỏ vẻ tiếc xót và lo ngại cho tương lai tác phẩm.

Vẽ lối bích hoạ với sơn dầu, Leonardo đã không chịu theo phương thuật truyền thống mà lại sáng chế một phương thuật mới để thí nghiệm, cho nên tác phẩm của ông đã bị “kết án tử” ngay từ lúc nó mới chào đời.

Quả thực vào năm 1560, tức là 65 năm sau, Vasari, hoạ sĩ và sử gia nghệ thuật Ý, đã phải than phiền là bức tranh hư hỏng cả rồi. Trong khi bức hoạ “Chúa bị đóng đinh” của Montorfano vẽ trên mặt tường đối diện, cùng năm với bức Tiệc Ly, nhưng theo phương pháp cổ truyền, vẫn còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Ngoài việc “thí nghiệm” đau xót nói trên, bức Tiệc Ly còn trải qua nhiều gian truân chìm nổi do những bàn tay phàm phu gây ra. Rõ là số kiếp của phận “má đào”, của những gì đẹp quý trên đời ! Xin kể lại đây mấy trường hợp :

Vào năm 1652, các tu sĩ Đa-minh đã không ngần ngại “chặt” hai chân Chúa và chân của hai tông đồ ngồi bên cạnh để nới rộng khung cửa ra vào, lại còn đóng lên phía trên bức tranh tấm huy hiệu của hoàng đế đương thời.

Năm 1726, một chàng hoạ sĩ tên là Bellotti tự phụ mình có bí quyết làm cho các màu cũ trở nên tươi, đã cả gan tô lại toàn diện bức tranh. Năm 1770, một anh chàng ngu ngốc khác tên là Mazzo cũng muốn lau chùi bức hoạ cho sạch, đã lấy que sắt lò sưởi mà chà cạo một cách phủ phàng. Đến năm 1796, một toán kỵ binh của chính thể Cộng Hòa đã biến nhà cơm tu viện thành chuồng ngựa và họ đã liệng không biết bao nhiêu là gạch đá vào đầu các môn đồ, gọi là để “giải trí lành mạnh” ! Vào giữa thế kỷ 19, bức hoạ lại được tu bổ, sửa chữa thêm một lần nữa.

Trong kỳ đại thế chiến thứ hai, năm 1944, nhà thờ tu viện bị trúng một trái bom. Cũng may mà bức tường vẽ bữa tiệc ly được các bao cát che phủ kỹ càng, nếu không thì hoạ phẩm trứ danh kia ngày nay hẳn đã không còn nữa. Hiện giờ nó mang nhiều dấu vết hoen ố, nhiều chỗ rạn vỡ và màu sắc phai mờ.

Bởi vậy có tác giả cho rằng bức hoạ “Tiệc Ly” hiện nay chỉ còn là một hình bóng mờ nhạt của tác phẩm tuyệt diệu ngày xưa.

Dầu sao nó cũng vẫn là di sản châu báu của một thiên tài vĩ đại, đáng cho chúng ta phải bảo vệ bằng mọi giá.

Nơi những bức hình mô phỏng rất bình dân thường thấy bày bán nơi các tiệm tranh ảnh tôn giáo, vị trí và cử chỉ dáng điệu các nhân vật giống như trong nguyên bản nhưng nét vẽ thiếu tinh vi, màu sắc loè loẹt, sự phô diễn tình cảm trên các khuôn mặt kém vẻ linh động, tế nhị. Người ta lại còn thêu thùa thêm mấy chi tiết trang trí cho vui mắt, chẳng hạn hai chiếc bình lớn và mâm trái cây đầy nho táo đặt ngay trên nền nhà phía đầu bàn, bên tay trái của Chúa …