SỐNG SAO, CHẾT VẬY

Tuần qua cả thế giới ngỡ ngàng thương tiếc tin chết đột ngột của một thanh niên Úc. Sinh thời ít người nghe tên; khi chết đi cả thế giới biết tiếng. Báo chí, phát hình, truyền thanh đăng tải nhiều loạt bài về cuộc đời, sự nghiệp có vẻ âm thầm nhưng được mọi người quý mến. Anh là sứ giả của hoang địa, là ngôn sứ của sa mạc. Không ăn châu chấu, uống mật ong như Gioan Tiền Hô. Ăn mặc bình dị, đúng ra là mộc mạc hơn mọi người. Không giảng thống hối nhưng âm thầm sống nơi rừng hoang, yêu dã thú. Bạn thân là thú rừng, cá biển chim trời. Người tình là đồng hoang, cỏ dại. Rừng vẹt là nhà, cát biển là giường. Gốc cây khô, hòn đá cuội làm gối ngủ qua đêm. Chính trị gia khen ngợi. Không tước sang, quyền cao, chức trọng nhưng được mọi người quý mến. Không khoe khoang nhưng ai cũng biết. Steve Irwin là tên.

Nổi tiếng vì yêu thú hoang. Sanh tại Essendon, Victoria 22/02/62. Năm 72 theo cha mẹ Bob và Lyn về sống tại Beerwah (Tiểu bang Queensland), ngày nay là sở thú tiểu bang, thuộc khu vực Sunshine Coast. Cha mẹ anh thích nuôi thú hoang, trồng bông và làm chủ công viên nuôi loài bò sát và hoa dại. Sau khi tốt nghiệp trung học tại trường Trung học Caloundra High năm 79, Steve lên miền bắc lập nghiệp. Bắt đầu cuộc đời bẫy cá sấu hoang về nuôi. Chỗ nào có thú dữ dân chúng réo gọi. Người ta biết đến anh trong TV nhưng ít ai biết 10 năm trước đó anh học sống chung với thú dữ nơi rừng hoang. Bãi vẹt là nhà, đồng sình là giường. Đời sương gió, đương đầu với miệng cá sấu, lưỡi rắn hổ, nọc bò cạp, nanh nhện độc và trăn cuốn quanh cổ. Hy sinh làm việc thiện nguyện, kiên trì trong lí tưởng, và mạo hiểm dấn thân suốt 10 năm dài Steve đã lãnh thẹo đầy mình trước khi nổi tiếng. Nhiều người quý vì anh quên mình; mến vì anh không tìm lợi riêng.

SỰ NGHIỆP

Sau kinh nghiệm gió sương, trầy da tróc vảy anh dọn về Beerwah. Năm 91 bắt đầu xuất hiện trên TV và cũng là năm gặp cô Terri, gốc người Mỹ, du lịch Úc châu. Hai người lập gia đình tháng 7/92 và đổi tên công viên của cha mẹ thành sở thú Úc Châu. Năm 96 xuất hiện trên đài số 9 lần đầu tiên và từ đó nhắc đến tên anh người ta liên tưởng đến con cá sấu.

Bé gái đầu lòng Bindi sinh năm 24/7/98. Năm 2003 là năm anh được chọn là người của năm, cũng trong năm này bé trai Bob Clarence ra đời.

SỐNG ĐƠN GIẢN

Cuộc đời đơn giản như lối sống. Ít ai thấy anh ăn mặc chải chuốt trong bộ y phục nhãn hiệu đắt tiền hay của tiệm may sang trọng. Phỏng vấn cho chương trình TV trong nước hay hải ngoại, dù là gặp em bé hay tổng thống, bộ trưởng, anh luôn mặc đơn giản. Đi đâu cũng cái áo ngắn tay vải Kaki mầu cứt ngựa, vàng nhạt, quần ngắn cũng vải Kaki. Sang trọng nhất phải kể đến đôi giầy da chắc chắn, bảo vệ đôi chân an toàn, tránh đạp gai và nọc rắn. Ngày thành hôn phải đóng bộ anh bức rức đứng lên, ngồi xuống, xốn xang, không yên. Đối với anh bộ đồ vest nghẽn chỗ này, cà chỗ kia vừa đau vừa ngứa chỉ muốn cởi vất đi cho rồi. Cái cà vạt nhỏ xíu sao mà nghẽn cổ, khổ sở, nghẹt thở như trăn cuốn cổ khi đi trình diễn.

TIN PHONG THỦY

Ăn mặc đơn giản không phải vì anh nghèo. Là triệu phú và làm chủ nhiều rừng hoang, sông rạch. Cuốn phim đầu tay anh lời 42 triệu. Sở thú do gia đình lập có hơn bốn trăm công nhân.Tiền để dành anh không tiêu cho bản thân nhưng mua đất, không phải núi đồi, sông biển, phong thủy, nơi cao ráo, đẹp đẽ. Phong thủy của anh là những đồng cỏ hoang, bãi sậy dại nơi hoang vu, đầm lầy làm nơi cư ngụ cho thú vật và loài chân ngắn. Anh yêu sông rạch như thú yêu rừng hoang. Yêu dã thú như thân mình. Người ta biết anh với hình ảnh ôm đầu cá sấu, vuốt đuôi trăn cuốn cổ, và tay cầm rắn độc. Những hiểm nguy đó không lấy mạng sống anh. Con cá đuối, loại cá không tấn công người, ăn sinh vật nhỏ rơi rớt nơi lòng biển. Loại cá hiền lành đó rung nhẹ đuôi phụ khi gặp nguy làm anh mất mạng. Nghe kể khi bị cá đuối đâm anh nói không phải lỗi tại con cá, tại tôi đến quá gần làm nó hoảng sợ. Cần có quả tim yên mến chân thành lắm mới thốt ra lời thứ tha đầy yêu thương như thế. Đó cũng là lời nói cuối đời.

THIÊN HẠ MẾN ANH

Người ta mến anh không phải vì tinh thần đấu tranh, không phải vì anh giữ truyền thống, phong tục tập quán Úc châu, không phải vì anh có lời khôn ngoan, không phải học nhiều biết rộng. Anh không chuyển núi, dời non, không cải tạo sa mạc, chẳng xây thành kiên cố, đắp lũy cao. Thiên hạ mến vì anh yêu thiên nhiên bằng việc làm, bảo vệ mạng sống nhiều sinh vật. Anh khiêm nhường, không khoe khoang, tranh cãi, tự cao, cậy tiền, nhờ bạc và ỉ thế. Người mến anh vì anh mượn cánh chim, con cá mang tin yêu cho đời. Anh săn sóc con chim gẫy cánh. Con rắn bị cán anh ngừng xe mang nó về chăm sóc. Con vật bệnh anh mang về thuốc thang. Miếng đất hoang cất nhà không được, trồng cấy không xong anh mua làm nơi trú ẩn cho con chim gẫy cánh, con rùa mắc giây câu, con ong lạc tổ, con bướm lạc đường. Người khắp nơi yêu mến và kính trọng vì anh yêu thiên nhiên, mến thú rừng. Anh không nói về tôn giáo nhưng sống tinh thần Kitô giáo. Thực hành câu sách Sáng Thế Kí dậy: "Hãy làm chủ chim trời, cá biển, những loài bò sát, thương, chăm sóc và bảo vệ chúng."

Trọn đời bảo vệ thú hoang, khỏi bị diệt chủng. Người ta mến vì việc làm của anh không chủ chương mang lợi ích cá nhân, gia đình, nhưng chung cho gia đình nhân loại. Nhiều người mong được thiên hạ biết tên, rõ tuổi. Anh sống âm thầm với thiên nhiên. Gia đình từ chối đám tang cả tiểu bang mặc niệm. Gia đình tôn trọng đức khiêm nhường một đời anh theo đuổi, nên gia đình từ chối đám tang dành cho vị sứ giả rừng hoang. Món quà lớn nhất anh nhận được là lòng mến nơi miệng con trẻ, tâm người cao niên và ngòi bút, tấm hình của giới truyền thông.