DẪN NHẬP VĂN HOÁ GIA ĐÌNH VIỆT NAM (4)



Bài 4 : Những nhận thức quá khứ về gia đình còn được bảo tồn.

41. Nhận thức gồm những dữ kiện đã thâu nhận, để biến thành tin tức và tạo thành tri thức hoặc hệ thống tư tưởng. Trong lịch sử văn hoá tổng quát của Việt Nam[[1]], năm trào lưu tư tưởng đã được thiết kế, tiếp cận, giao lưu và hội nhập vào văn hoá và văn hoá gia đình Việt Nam. Đó là hệ tư tưởng Âu Lạc, Hệ tư tưởng Ấn Phật, hệ tư tưởng Lão giáo, hệ tư tưởng Khổng giáo và hệ tư tưởng Âu Mỹ Thiên Chúa giáo.

Hệ tư tưởng Âu Lạc mang lại ba tư tưởng chủ yếu vun tưới tác phong tập thể và cá nhân của người Việt Nam, mạch sống của văn hóa Việt Nam. Đó là mạch huynh đệ, tương thân tương trợ, khiến tất cả mọi người Việt Nam đều nhìn biết nhau là đồng hương, đồng bào. Mạch ‘Đức giả lạc sơn’ : người đức độ thì ưa thích (và vững chắc như) núi, noi theo tính chung thủy, đức độ của mẹ chung là Âu Cơ, dòng dõi thần tiên, đã dẫn 50 con lên núi, khiến sự tiếp đãi, giao thiệp luôn được trên kính dưới nhường. Mạch ‘Trí giả lạc thủy’ : người mưu lược thì ưa thích (và biến báo như) nước, thừa hưởng được tính thông minh, biến báo của cha chung là Lạc Long Quân, dòng dõi rồng, đã đưa 50 con xuống biển Nam Hải, khiến sự tiếp xúc được hòa thuận với từng người và hòa hợp với môi trường chung quanh.

Hệ tư tưởng Ấn Phật với cái nhìn hư vô về thế giới; với tứ diệu đế : khổ, dục, diệt, đạo, đã đưa cho người việt nam cách cư xử siêu thoát với thế tục, xả kỷ với mình, để từ bi với chúng sinh.

Hệ tư tưởng Lão Trang trình bầy cái gốc Đạo là nguyên ủy của sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Văy, sửa mình và trị nước cần phải noi theo Đạo, phải điềm tĩnh, phải vô vi, phải tự nhiên, không dùng trí lực. Tính hiếu hòa, tính an nhiên của người Việt Nam phải chăng bắt nguồn từ Đạo giáo ? Ngoài cái học thuyết cao siêu về Đạo, về vô vi ấy nơi những bậc hiền triết, Đạo giáo còn được phổ biến nơi kẻ bình dân với những cái dị đoan mê tín, những thuật tướng số, phù thủy, đi tìm sự tu luyện để được cái trường sinh bất tử.

Còn như hệ tư tưởng Khổng Mạnh, thì cả nền luân lý xã hội của ta đều lấy sức từ đấy và qua đấy. Trong cách sống của người Việt Nam, tam cương : quân thần, phụ tử, phu thê vẫn được tôn kính; ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vẫn được dùng làm nguyên tắc cư xử. Chữ tam tòng không còn hợp thời lắm, nhưng chữ tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh, vẫn được nhiều phụ nữ vun trồng. Ba cái cương lãnh : minh đức, tân dân, chỉ chí thiện, vẫn luôn làm người Việt Nam lưu ý và tuân giữ. Còn như bát điền mục : cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì ai nấy vẫn cố gắng áp dụng trong các sinh hoạt và hoàn cảnh cá biệt của mình. Nhiều người Việt Nam sống ở ngoại quốc nhận định rằng luân lý Khổng Mạnh vẫn rất rõ rệt và rất mạnh mẽ trong cách sống và suy nghĩ của mình.

Và sau cùng là hệ tư tưởng Âu Mỹ Thiên Chúa giáo. Hệ tư tưởng này dẫn vào văn hoá Việt nam ba chất sống mới. Chất sống nhân bản với tiêu chuẩn rằng con người và bản tính của con người có một giá trị tuyệt đối. Tất cả phải do và vì con người. Chất sống này thổi vào ba luồng gió mới là tự do, bình đẳng và công lý. Ba luồng gió này đã một thời xáo trộn xã hội cương thường, cấp bậc và quan liêu xưa của Việt Nam. Chất sống thuần lý với nguyên lý rằng ‘chỉ có ánh sáng tự nhiên của lý trí mới có khả năng đưa con người tiến bộ về hiểu biết, về khôn ngoan’, Lý trí, do đó, trở thành một đức tin mới. Thực nghiệm và canh tân là phương pháp và mục tiêu quan trọng. Khế ước xã hội, luật pháp là những phương tiện tổ chức của một xã hội tân tiến. Khoa học, kỹ thuật, kiến thức bách khoa là những khả năng mà ai cũng phải trau dồi. Người Việt Nam ngày nay được nuôi dưỡng nhiều bằng hai chất sống nhân bản và thuần lý này. Chất sống Thượng Đế với niềm tin có một Thượng Đế duy nhất, tạo dựng đất trời vạn vật, đã giúp cho luân lý Tam giáo, đặc biệt là Khổng giáo có một cơ sở siêu hình học vững chắc. Thượng Đế ấy là Cha nhân từ và toàn năng đã dựng nên trời đất muôn loài, trong đó có con người. Lạm dụng tự do, con người đã chống lại Thượng Đế và đã đi vào đường lầm lạc tội lỗi. Để cứu chuộc nhân loại, Thượng đế ấy đã giáng sinh nhập thể, đã chịu nạn khổ hình, chết trên thập giá, và đã phục sinh, rồi lên trời. Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế để phán xét kẻ dữ người lành. Thượng Đế ấy, từ muôn đời và cho đến muôn đời, vẫn sống với nhân loại bằng sự hướng dẫn soi sáng của Thánh linh. Qua sự giáng sinh nhập thể, Thiên Chúa đã lập Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, vững bền. Qua Ngôi Hai nhập thể, ngôi Ba Thánh Linh và Giáo Hội, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết rằng nó được tạo thành với một thân xác có thể hư nát và một linh hồn bất tử. Thân xác này sẽ sống lại. Con người tội lỗi sẽ được tha thứ, nếu nó biết ăn năn hối cải.

42. Trong lãnh vực văn hoá gia đình, vai trò và ảnh hưởng của năm hệ tư tưởng này không đồng đều. Hệ tư tưởng Âu Lạc dùng hình ảnh gia đình trong ý niệm tạo lập và tổ chức xã hội, có nhiều nhân tính. Rõ rệt nó là hệ tư tưởng gốc trong văn hoá gia đình Việt Nam. Đây vừa là một xác tín, vừa là một dữ kiên lịch sử xã hội. Từ yếu tố di truyền nguyên thủy Âu Lạc, một cách cư xử căn bản đã dần dần thành hình, cô đọng qua những tiếp cận, phản ứng và kinh nhiệm sống với môi trường địa lý thiên nhiên. Cách cư xử này đã được xây dựng trên ba đức tính : trí, đức và dũng, mà ta có thể gọi là trí việt, đức việt, và dũng việt. Đó là ba chân kiềng của văn hoá nguyên thũy gia đình Âu Lạc. Từ ba chân kiềng này, phát sinh một nền văn hiến Bách Việt quay quanh ba trụ chính : việt tính, việt học và việt lý[[2]]. Ba chân kiềng trí việt, đức việt và dũng việt, cùng với ba trụ việt tính, việt học và việt lý là những yếu tố căn bản của văn hoá nguyên thủy Việt Nam, văn hoá Âu Lạc Bách Việt. Nền văn hoá này nền tảng đặt trong gia đình. Âu lạc là tên của một cặp hôn nhân thủy tổ của dòng giống Việt Nam. Gia đình bởi vậy giữ một vai trò quan trọng trong tiềm thức suy lý, trong sinh hoạt tổ chức và trong sáng tạo ứng xử của mỗi cá nhânngười Việt và của xã hội Việt Nam. Tinh thần gia đình này được biểu lộ một cách rõ rệt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ Việt Nam là một ngôn ngữ gia đình. Những thứ bậc, vị trí gia đình, từ cố cụ, ông bà, bác chú cô dì, anh chị em, con cháu,...đều đã được xử dụng để gọi thưa, xưng hỏi trong ngôn ngữ thông thường hàng ngày với tất cả mọi người, thân quen hay xa lạ.

Nền văn hoá gia đình nguyên thủy này đã dần dà trong dòng lịch sử mở ra với môi trường xã hội thế giới. Đầu tiên là những tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa, qua đó, ba hệ tư tưởng mới đã xâm nhập vào Việt Nam đó là Ấn Phãt, đạo Lão và đạo Khổng. Chắc hẳn lúc đàu đã có những va chạm, xung khắc. Nhưng sau gần 2000 năm chung sống, ba hệ tư tửng này đã góp phần vào việc tạo hình cho văn hoá Việt Nam, trên nền tảng văn hoá nguyên thủy Âu Lạc Bách Việt. Đến nỗi ngày nay đã trở thành những yếu tố cơ cấu của văn hoá Việt Nam. Trong mỗi cá nhân người việt và trong xã hội Việt Nam, đâu dó, đều có ít nhiều ‘phật tính’, ‘lão tính’ và ‘khổng tính’. Trong các hệ tư tưởng, có lẽ hệ tư tưởng Khổng Mạnh là hệ tư tưởng bén rễ sâu nhất trong nhận thức gia đình Việt Nam. Có thể bảo rằng trong mỗi con người Việt Nam đều có một lượng ‘khổng tính’ quan trọng. Hệ tư tưởng Khổng giáo đẵ chiếm một chỗ đứng hầu như độc tôn trong văn hoá gia đình Việt Nam. Nó đã tạo ra cả một tổ chức cho xã hội, trên căn bản của những liên lạc gia đình với những yếu tố chính yếu như sau :

- Gia đình căn bản là đại gia đình :

- Mỗi phần tử có một chỗ đứng nhất định, có một cư xử mẫu cho những hoàn cảnh chính yếu, mà tam cương ngũ thường là những nguyên tắc căn bản;

- Hai chức vụ uy quyền quan trọng là gia trưởng và tộc trưởng;

- Những lễ nghi chính yếu đã được định thức cho những cuộc hội họp gặp gỡ chính yếu về cưới hỏi, tang chế, cúng giỗ, hội đồng gia đình, hội đồng gia tộc;

- Những văn bản quan trọng đã được thiết kế, biên soạn và bảo trì, từ gia phả, gia lễ, gia phong, đến pháp luật gia đình, phong tục gia đình, luận lý gia đình, văn học gia đình,..

Hệ tư tưởng Khổng Mạnh đã biết đưa ra những giá trị vĩnh hằng, tựa vào một quan niệm xã hội có phẩm trật, có luân thường để di tìm hạnh phúc vừa có tầm tâm linh vừa có tầm vật chất, trong hoà thuận, yên vui, thịnh vượng, ấm no. Rõ rệt những nhận thức, những quan niệm, những nguyên tắc của Khổng Mạnh vẫn còn ảnh hưởng mạnh và được bảo tồn kỹ trong văn hoá gia đình Việt Nam. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, và đa số cac nhà nghiên cứu cũng sễ đồng ý với ông để xác định như vậy. Ông viết : ‘Có một nét rất đặc biệt của Nho Giáo, là nó có thể ngự trị trong văn hoá gia đình Việt Nam, gợi ra được cảm giác là nó đồng hoá được tất cả những khuynh hướng triết học, tôn giáo khác. Nho, Phật, Lão có những cuộc đấu tranh tư tưởng, rồi cùng với Thiên Chúa Giáo có những kỳ thị, không cảm thông nào đó, là ở những lãnh vực khác chứ không phải ở trong gia đình. Văn hoá gia đình thu nhận tất cả và đều qui vào những quan niệm gia giáo của đạo Nho. Ở những trường hợp, những qui tắc tập tục có thể khác nhau và gây mâu thuẫn, nặng nề nhất là những ngày mới tiếp xúc, song dần dần vấn đề cũng được an bài - (đến nay thì ổn thỏa). Còn ở phần cơ bản, những vấn đề như đạo hiếu thảo, phép tề gia, thì các gia đình dù theo tôn giáo nào cũng đều xử lý như nhau[[3]]’.

GS Trần Văn Cảnh

(Xin xem tiếp bài 5, 6, 7, 8 và 9)

[1] Trần Văn Cảnh, sđd, tr. 511-517

[2] Xin xem bài 8 dưới đây về ‘Những ứng xử đang được thiết kế về gia đình’

[3] Vũ Ngọc Khánh; sđd, tr. 89