I. PHÚC TRÌNH CỦA ĐỨC ÔNG GIÁM ĐỐC

Tám điểm đã được Đức Ông đề cập đến :

1. Các đơn vị mục vụ. Hiện có 5 đîa điểm mục vụ, 5 hội đoàn, 21 nhóm và 4 nhóm ngành nghề mới được thành lập trong chương trình Liên đới nghề nghiệp năm 2000. Tổng cộng, hiện nay giáo xứ có cả thảy 35 đơn vị mục vụ đang sinh hoạt.

2. Mặt xã hội. Một tin vui cho giáo xứ là chị Maria Nguyễn Kim Thoa, thuộc tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được bề trên cho phép về làm việc cho giào xứ tại phòng xã hội kể từ tháng 9.2000. Đức ông cũng xin bà Mai Hương và bà Khánh Huệ tiếp tục cộng tác.

3. Sinh hoạt Bí Tích. Năm 1999, có 73 trẻ em và người lớn được rửa tội, 252 em học lớp giáo lý và tiếng việt, 23 em rước lễ lần đầu, 32 đôi hôn phối và 57 người lãnh phép thêm sức.

4. Văn hóa. Ba hoạt động dáng được lưu ý :

- Xuất bản ba cuốn sách : HÀNH TRANG VÀO THẾ KỶ XXI, FATIMA và ĐƯỜNG VÀO TÌNH YÊU.

- Luận hội với 4 đề tài : ‘Mạn đàm về thơ’, ‘Chữ tình và chữ yêu’, ‘Sự nghiệp văn hóa của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn’ có văn nghệ, ‘Những vấn đề của cuộc sống gia đình’.

- Văn nghệ : do nữ nghệ sĩ Bích Thuận vào tết, Thiếu Nhi vui tết và văn nghệ trong ngày Thân hữu của Giới trẻ, ca đoàn Trinh Vüong và ca đoàn Vào Đời cùng trình diễn

5. Cơ sở. Nhóm Xây Dựng đã làm một đồ án liệt kê các việc phải làm, như làm thêm cửa sắt, sửa lại hệ thống giây điện... Công việc đang tiến hành tốt đẹp.

6. Tương quan với các gia đình trong chung cư. Kể từ tháng 8.1999, tương quan tốt đẹp hơn : một gia đình hay đặt vấn đề đã bỏ chung cư. Nhiều gia đình khác đã đến tham dự hai ngày thân hữu.

7. Tài chánh. Quĩ điều hành :

- Số chi : 1.026.849 frs

- Trong khi chỉ thu được : 999.584 frs

- Tức là hụt : 27.265 frs

Trong chiến dịch ngũ niên, năm 1999 thâu thêm : 90.550 frs. Vị chi thâu tổng quát của chiến dịch đã được 497.607 frs. Về chương mục trên tòa Tổng giám mục, tổng kết chúng ta đã có số tiền : 5.079.058 frs. Riêng hai ngày thân hữu, chỉ kiếm được : 63.085 frs, thua năm 1999 (được 72.669frs).

8. Qua bảy sự kiện trên, Đức ông giám đốc đề nghị một đường hướng hoạch định cho tương lai, chung quanh ba mục tiêu :

- Nâng cấp học hỏi Thánh Kinh và phát triển sinh hoạt liên đới nghề nghiệp

- Thực hiện những điều cần thiết cho an ninh cơ sở.

- Tiếp tục chương trình ngũ niên và lo bù đắp các thất thu.

II. PHÚC TRÌNH CỦA BÁC SĨ CHỦ TICH HĐMV

Với đề tài ‘Đi vào thế kỷ XXI, bác sĩ Nguyễn Ngọc Đỉnh nêu ba điểm son đặm của các sinh hoạt giáo xứ trên đường vào thế kỷ XXI : Chương trình mục vụ qua các lứa tuổi măng non thiếu niên, tráng niên và thượng thọ. Chương trình liên đới nghề nghiệp đi tìm Chúa nơi Đất Thánh. Sau đó, đi vào chi tiết, ba khía cạnh được đề cập :

1. Đối ngoại. Ba loại hoạt động chính đã được thực hiện :

- Liên đới với Giáo Hội quê nhà bằng cách tiếp đón các giám mục Việt Nam và gửi tiền yểm trợ về Việt Nam : 50.000 frs cho các chủng viện 35.000 frs cho bão lụt miền trung vừa qua.

- Tham gia các hoạt động tôn giáo với giáo phận Paris : nghi lễ ‘gọi chính thức’ các dự tòng tại Notre Dame de Paris, Thứ Tư tuấn thánh ở Bercy, hành hương tại vương cung thánh đường Sacré Coeur, Montmartre.

- Tổ chức các cuộc hành hương : Roma, Đất Thánh, Montligeon, Lisieux.

2. Đối nội.

- Họp hàng tháng giữa ban Giám đốc và ban Thường Vụ HĐMV để theo dõi và tổ chức các sinh hoạt.

- Cùng với các hội đoàn và ban giám đốc, tổ chức các sinh hoạt, như : Lễ tiếp nhận các tân tòng, Lễ các Thánh Tử đạo VN, Lễ kỷ niệm hôn nhân của các phụ huynh vào lễ Thánh Gia. Lễ mừng Thượng Thọ, Lễ Rửa tội cho các em nhỏ, Thi làm hang đá, Lễ mừng Chân phước Anrê Phú Yên, Hai ngày thân hữu, Bữa cơm thân hữu, Đại hội Liên đới nghề nghiệp.

3. Tài chánh. Bác sĩ Đỉnh tiếp lời Đức ông giám đớc đã nêu lên hai nố thất thu : trong bữa cơm thân hữu và trong hai ngày thân hữu.

III. PHÚC TRÌNH CỦA 5 ĐỊA ĐIỂM MỤC VỤ

1. Cergy Pontoise. Ông Phạm Kim Tiến cho biết, có khoảng 200 gia đình công giáo VN sống đức tin dưới sự dìu dắt của Cha Giuse Đinh Đồng Thượng Sách. Một ban đại diện gồm 7 người được bầu lên với nhiệm kỳ 2 năm Ca đoàn Bảo Lộc giúp cộng đoàn tham dự hai thánh lễ trong tháng. Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Têrêsa sinh hoạt đều đặn và một tiểu đội Đạo Binh Đức Mẹ. Ngoài ra có nhiều người đã tham gia phong trào Cursillo. Địa điểm mục vụ Cergy Pontoise phát hành bản tin Sóng Đạo và tổ chức các lễ Giáng sinh, tết, rước kiệu troang tháng hoa. Giáo dân VN Pontoise tham dự tích cực vào các hoạt động của giáo phận,của giáo xứ địa phương và Giáo xứ VN Paris.

2. Marne La Vallé. Ông Nguyễn Long Nhan phúc trình tóm tắt : ‘Chúng tôi chỉ có khoảng 20 gia đình do cha Giuse Trần Anh Dũng làm tuyên úy. Có ban đại diện gồm 4 người, mỗi tháng có hai tháng lễ, với khoảng 60 người tham dự. Có ca đoàn Vào Đời, Đạo Binh Đức Mẹ, Cursillo, Bản Tin Liên Lạc hàng tháng’. Ông Nhan nêu lên mối ưu tư lớn : Sự vắng mặt của giới trẻ từ 18 đến 25 tuổi vì thiếu hiểu tiếng việt, lo lắng cho sự nối tiếp giữa các thế hệ.

3. Sarcelles. Ông Nguyễn Tấn Thiệp cho biết Sarcelles có ban Mục vụ, có nhóm ca đoàn, có hội Bà Mẹ Công Giáo, có hai lớp tiếng việt cho trẻ em nhỏ từ 6 đến 10 tuổi, và các em thiếu nhi từ 12 đến 16 tuổi. Để góp ý vào việc thất thâu, ông đề nghị làm các băng nhạc và xuất bản sách, bán lấy tiền.

4. Villiers Le Bel. Ông Nguyễn Văn Ân cho biết dầu ít người, nhưng Villiers Le Bel cũng có một ban đại diện, có ba tháng lễ trong tháng, có ca đoàn. Đặc biệt Villiers Le Bel tham dự nhiều vào các hoạt động của giáo xứ địa phương. Đích thân ông điều khiển ca đoàn cho giáo xứ địa phương, các trẻ em VN thường theo học giáo lý trong giáo xứ Pháp.

5. Ermont. Đức ông Mai Đức Vinh chuyển lời cáo lỗi của ban đại diện Ermont vì phải tham dự một sinh hoạt khác cùng lúc của địa phương Pháp. Ermont rất ít người công giáo VN, khoảng 40 đến 60 người. Dạu vậy, cũng có ban đại diện, một tiểu đội Đạo Binh.

IV. PHÁT BIỂU VÀ THAM LUẬN

Sau khi đã nghe ba loạt bài thuyết trình, đại hội đã chuyển sang phần thứ tư để các đại biểu thảo luận và trao đổi ý kiến. Haivấn đề đãđánh động các cử tọa :

Vấn đề tài chánh. Ls Lê Đình Thông xin các đại biểu tìm phương thức để bớt thất thâu. Ông Trần Khắc Đạt đề nghị tăng giá bữa cơm thân hữu tết và bán nhiều vé hơn. Ông Nguyễn Văn Tài đề nghị tổ chức văn nghệ trả tiền. Bà Đặng Sự đua ý kiến cổ động giáo hữu đóng góp tích cực hơn và xin góp 3.000 frs. Để có kế hoạch hơn và có tổ chức hơn, Gs Trần Văn Cảnh đề nghị Ban Giám đốc và Ban thường vụ HĐMV nghiên cứu và tổ chức một Hội đồng Tài chánh. Cha Sách, Bs. Đỉnh, Ls Thông, kỹ sư Đặng Mạnh Đĩnh, anh Nguyễn Sơn ủng hộ ý kiến của Gs Cảnh.

Vấn đề giới trẻ và cộng đoàn. Bao gồm các khía cạnh dậy tiếng Việt, sự đóng góp của giới trẻ, sự nối tiếp các thế hệ. Ý kiến của anh Đỗ Anh Sĩ, đoàn trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể xem ra cụ thể hơn. Anh đề nghị các địa điểm mục vụ cố gắng lập đoàn TNTT. Các huynh trưởng trung ương ở Giáo Xứ Việt Nam Paris sẽ được đoàn gửi đến địa phương để huấn luyện và giúp đỡ lúc đầu. Gs Cảnh góp ý xin Giáo Xứ phát động một chiến dịch để gây ý thức cho toàn thể giáo dân về sự cần thiết của tiếng Việt trong sự nối tiếp thế hệ Việt Nam tại Pháp.

Cuộc thảo luận rất hào hứng và phong phú. Nhưng Ls Thông xin đại hội chấm dứt ở đây vì đã 5 giờ và xin tất cả cùng đùng lên hát bài kết thúc : Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Chúa muốn con làm gì? Lạy Chúa, con đây !

133. Có tổ chức trong sáng và hữu hiệu.

Kiểm điểm những sinh hoạt một năm hai lần để cải tổ và bồi bổ cho đúng hướng mục vụ của Giáo Xứ theo đường của giáo phận và của Giáo Hội. Việc này chỉ hữu hiệu nếu có một tổ chức trong sáng.

1331 : Ước mơ có một tổ chức Hội Đồng Mục Vụ

Từ khi được thành lập vào năm 1947 cho đến năm 1983, với những biến chuyển thăng trầm, Giáo xứ Việt nam Paris là một thực thể tôn giáo đã hiện hữu từ trên 40 năm. Trong suốt thời gian ấy, Giáo xứ luôn luôn có một Ban Giám Đốc, đại diện giáo quyền để giúp đỡ giáo dân về mặt tinh thần và tôn giáo. Tất cả mọi hoạt động đều do khả năng và nhiệt tình của Ban Giám Đốc, với sự cộng tác riêng rẽ của một số giáo dân, hay của một vài hội đoàn, chứ chưa hề bao giờ được thống nhất và điều hợp theo một qui chế hoặc một tổ chức chung. Nhu cầu cần có một Hội Đồng Mục Vụ, do đó, là một điều cần thiết. Nhưng hoàn cảnh đặc biệt của Ba-lê, vì là trung tâm văn hóa, tôn giáo và chính trị quan trọng, vì có nhiều khuynh hướng đối chọi nhau, việc tạo lập một Hội Đồng Mục Vụ vẫn chỉ là một ước mơ. Đã có nhiều lần, những Ban Giám Đốc tiên nhiệm đã toan tính lập Hội Đồng Mục Vụ, nhưng chưa lần nào, những toan tính tốt đẹp ấy đẵ được thể hiện kết quả, bởi có quá nhiều khó khăn.

Nhưng những khó khăn này, nhờ ơn Chúa và với sự chuẩn bị cũng như đóng góp một cách tích cực và có phương pháp của Ban Giám Đốc cũng như của Cộng Đoàn, Cộng Đoàn ta đã khắc phục được, và kể từ ngày 30.10.1983, một Hội Đồng Mục Vụ, một Ban Thường Vụ của Hội Đồng Mục Vụ và một Ban Cố Vấn đã chính thức được các đại diện các Hội Đoàn Mục Vụ và đại diện các Địa Điểm Mục Vụ thành lập. Rồi ngày 11/12/1983, giáo quyền địa phương, là Tòa Tổng Giám Mục Ba-Lê đã chính thức công nhận Hội Đồng Mục Vụ, Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn, qua sự hiện diện và chúc lành của Đức Cha Michel COLONI, phụ tá tổng giám mục Ba-lê, đặc trách Ngoại Kiều Vụ.

Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ được nội quy xác định một cách vắn tắt rằng : ‘Hội Đồng Mục Vụ là một cơ quan gồm những giáo dân được tuyển chọn để tích cực cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong việc xây dựng cộng đoàn về các pham vi : tôn giáo, văn hoá, xã hội, tài chính’.

1332 : Tiến trình đi đến tổ chức Hội Đồng Mục Vụ

Tổ chức được HĐMV là kết tinh của nhiều cố gắng và thiện chí. Những cố gắng ấy đã trải qua ba chặng đường, cũng là ba giai đoạn trong quá trình của HĐMV : giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn phôi thai và giai đoạn sinh hoạt chính thức đầu tiên.

GIAI ĐOAN CHUẨN BI

Việc chuẩn bị có thể là chuẩn bị xa, có thể là chuẩn bị gần. Chuẩn bị xa thì chắc chắn là HĐMV hôm nay đã được chuẩn bị từ ngày cộng đoàn Việt Nam được thành lập tại Ba lê, do những việc mà cộng đoàn và các Ban Giám Đốc (BGĐ) tiền nhiệm đã thực hiện. Chuẩn bị gần thì chắc chắn là từ ngày cha Mai Đức Vinh được bổ nhiệm làm gíám đốc giáo xứ và do những hoạt động của BGĐ hiện nay, trong đó, sinh hoạt của các nhóm công giáo tiến hành đóng một vai trò không nhỏ.

Các BGĐ tiền nhiệm đã góp phần chuẩn bị lập HĐMV hiện nay. Chẳng những các vị đã góp phần chuẩn bị thành lập, mà một số hiện còn cộng tác với BTV của HĐMV hiện nay. Tôi có ý nói đến cha Trần Thanh Giản, một trong những khuôn mặt của các cha cựu giám đốc. Ngài vẫn hàng tháng đi họp với BTV, với tính cách là cố vấn và vẫn thường xuyên tích cực góp sức vào nhiều hoạt động khác. Cha Toán cũng vậy. Còn nói đến việc chuẩn bị thì công lao của các BGĐ tiên nhiệm là việc không thể chối cãi. Không kể việc duy trì và phát triển Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Đạo Binh Đức Mẹ,.. ., một vài vị giám đốc tiên nhiệm đã rõ rệt muốn lập HĐMV. Năm 1977, cha Trương Đình Hoè đã triệu tập một phiên họp Trí Thức Công Giáo để bàn về vấn đề này. Trước đó, cha Toán và sau đó, cha Hoàng cũng đã có những ý định tương tự.

Nhưng cha Vinh mới thực là người đã trực tiếp chuẩn bị thiết lập HĐMV. Nếu trí nhớ tôi có thể tin được thì vào những năm 1979, 1980, cha Vinh đã nói truyện với tôi về vấn đề này. Lúc vừa nhận trách nhiệm giám đốc, hai vấn đề mà cha Vinh đã thông cảm với tôi và chắc chắn với nhiều người khác nữa, là làm sao để cho cộng đoàn được có tổ chức hơn, nói khác đi, làm sao thiết lập được HĐMV và làm sao tạo cho cộng đoàn một cơ sở thích hợp hơn. Tôi nhớ, lúc đó chúng tôi đàm đạo nhiều về những căn bản thần học, pháp lý, pháp lý đời cũng như pháp lý đạo, của HĐMV. Có lẽ có hai lý do khiến chúng tôi đề cập nhiều về vấn đề này. Thứ nhất vì đó là một vấn đề rất được cha Vinh lưu ý. Một trong hai luận án tiến sĩ mà cha đã đệ trình tại Roma là luận án ‘Thần học mục vụ’. Luận án này đề cập đến ‘Ban hành giáo tại các họ đạo ở Việt Nam’. Lý do thứ hai vì đó là đề tài thời sự công giáo cho những năm 79, 80. Tôi nhớ lúc đó đã đọc một số tài liệu của Đức Thánh Cha về vấn đề HĐMV này.

Và sự góp phần của các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành nữa. Cái khéo của cha Vinh là ở chỗ đó. Ý thì đến từ cha, nhưng cha làm thế nào để ý đó được ý thức và được phát biểu nơi giáo dân. Sau nhiều xáo trộn và ồn ào, với những dư luận không mấy hấp dẫn cho Giáo Xứ, nhiều địa điểm mục vụ lúc đó đã cảm thấy nhu cầu cần có một tổ chức để bảo tồn giáo xứ, để cộng tác với các cha. Sau một thời gian làm việc riêng rẽ, nhiều hội đoàn công giáo tiến hành đã cảm thấy nhu cầu cần có một cơ cấu để thống nhất các hoạt động. Những hội đoàn mà tôi đã từng tham dự, như nhóm Cầu Nguyện, nhóm Emmau, nhóm Ca đoàn, nhóm Thần Học Giáo Dân,...tất cả đều ý thức đến những nhu cầu mà tôi vừa nêu trên : nhu cầu sinh tồn, nhu cầu có tổ chức, nhu cầu thống nhất, nhu cầu cộng tác,..Một khi nhu cầu đã được ý thức, việc thực hiện trở thành dễ dàng.

GIAI ĐOAN PHÔI THAI

Sau thời gian chuẩn bị, một loạt các hoạt động phôi thai đã được thực hiện. Tôi muốn nói đến việc thành lập và phát triển các hội đoàn, việc lập bản nội quy và việc bầu Ban Thường Vụ. Tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong một giai đoạn mà tôi mạn phép đặt tên là giai đoạn phôi thai của HĐMV.

Có nhiều ý kiến về HĐMV, nhưng ý kiến hay hơn cả có lẽ là ý kiến, theo đó, HĐMV phải được tạo thành do các cán bộ công giáo tiến hành, và đặc biệt là các cán bộ đang tại chức, đang làm việc. Đơn vị mục vụ gồm các địa điểm mục vụ và các hội đoàn mục vụ. Thực ra thì trong thời gian này, từ khoảng 1981 đến 1983, Cộng Đoàn Công Giáo Balê đã không lập thêm được một địa điểm mục vụ nào mới, mà chỉ lập được một số hội đoàn mục vụ mới. Nhưng ngay cả với những đơn vị đã hiện hữu, làm thế nào để mỗi đơn vị đều có được một ban đại diện không phải là một việc dễ. Lập được một ban đại diện, nhưng chính thức hoá và làm sao cho ban đại diện ấy được công nhận cũng là một việc không dễ khác, cần phải được thực hiện.

Từ việc thành lập đại diện của các đơn vị mục vụ sang việc lập HĐMV, đó không phải là việc đương nhiên ! Vì còn hai trở ngại lớn, trở ngại tâm lý và trở ngại pháp lý. Trở ngại tâm lý, tôi có ý nói đến việc hiểu biết nhau, việc làm việc chung với nhau. Hội đồng là nơi mà các đại diện làm việc chung với nhau. Làm thế nào họ có thể làm việc chung, nếu họ không biết có những ai. Do đó, việc đầu tiên phải làm là tạo dịp để các đại diện gặp gỡ và thông cảm nhau, nếu không nói là nhận diện nhau. Dĩ nhiên, lễ chủ nhật là dịp để họ nhận diện nhau, một vài hoạt động đặc biệt, như hai ngày thân hữu, cũng là dịp khác để họ làm việc chung với nhau. Những việc này đã được lưu ý. Nhưng, tổ chức một vài buổi họp để họ ngồi chung lại với nhau, cũng là một việc khác phải làm. Đó là lý do đã có những buổi họp rộng lớn vào năm 1983, đặc biệt là buổi họp đầu tiên, sôi nổi, hào hứng, vào ngày 27/02/1983.

Khó khăn thứ hai là khó khăn pháp lý, hay đúng hơn, có tính cách pháp lý. Dùng từ pháp lý thì hơi to. Vì đơn giản, nó là một bản văn qui định mục tiêu, thành phần, tổ chức, sinh hoạt của HĐMV, mà chúng ta có thể gọi là nội quy đơn giản. Đây là việc căn bản của bất cứ một tổ chức nào, huống hồ là của một tổ chức to lớn và phức tạp như giáo xứ chúng ta. Hai buổi đại hội đã được triệu tập, dành riêng cho việc này, đặc biệt là đại hội ngày 10/04/1983.

Có thể nói được rằng bản nội quy hiện nay là cô đọng ý kiến của tất cả các đại diện của tất cả các đơn vị mục vụ. Tôi nhớ, hồi đó, cha Vinh và tôi đã làm việc nhiều cho bản nội quy này. Chúng tôi đã phải viết đi viết lại đến ba lần. Lần thứ nhất, xong vào ngày 27/02/1983, sau khi đã cân nhắc từng chữ, từng câu, từng khoản, và đã so sánh với các bản nội quy khác của các ban hành giáo ở Việt Nam. Đại hội ngày 27/03/1983 đã sửa một số điều. Chúng tôi đã ngồi lại với nhau hai ngày để viết một bản mới, sửa theo những tiêu chuẩn mà đại hội đã đề ra. Bản thứ hai này đã được đại hội ngày 10/04/1983 nghiên cứu rất kỹ lưỡng : một số câu và chữ đã được sửa lại nữa. Chúng tôi lại phải ngồi lại viết bản thứ ba, để đệ trình vào đại hội ngày 30/10/1983. Lần này, đại hội đã chấp nhận toàn thể bản nội quy. Đó là bản nội quy đang được áp dụng hiện nay, với một vài tu chính do đại hội ngày 23/06/1985, 13/12/1992, 12/10/1997, 09/12/2001.

Còn một cơ quan quan trọng của HĐMV chưa được thành lập, đó là Ban Thường Vụ của HĐMV. Các thành viên của HĐMV là các đại diện của các đơn vị mục vụ, đẵ có đó. Nhưng các đại diện đông đảo quá, và mỗi lần tổ chức một phiên họp, thật là khó. Vả nữa, ai sẽ là người giải quyết các vấn đề thường ngày ? Đó là vấn đề quan trọng phải được thực hiện. Qua một ngày đại hội rất sôi nổi, ngày 30/10/1983, một Ban Thường Vụ tiên khởi đã được bầu ra. Yếu tố cuối cùng, nhưng quan trọng nhất, đã được hoàn tất. Từ đây, cụ thể mà nói, ta có thể bảo HĐMV đã được thành lập.

GIAI ĐOAN SINH HOẠT CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN

Tổ chức của cộng đoàn ta là một tổ chức công giáo, trong dó, yếu tố pháp lý dân cử là quan trọng, nhưng không phải là quyết định. Sự quyết định đòi phải có sự hiệp thông của giáo hội địa phương, mà giám mục là đại diện chính thức. Báo Dân Chúa, số tháng 12/1985 có đăng bài của cha Phan tấn Thành, nói rõ về điều này như sau : ‘Tiếng hiệp thông nhấn mạnh đến các yếu tố nội tại tạo nên Giáo Hội. Các phần tử giáo hội đã được gắn bó với nhau, không phải bằng các cơ chế luật lệ bề ngoài, nhưng bằng các sợi dây liên kết bên trong. Tất cả các phần tử gắn bó với nhau vì cùng chia sẻ một gia sản chung, một sức sống chung, một vận mạng chung,..Sự hiệp thông trong cộng đồng dịa phương đòi hỏi sự hiệp thông với giám mục.’

Tôi vừa dùng chữ ‘cụ thể mà nóĩ’, chứ không dám dùng chữ ‘chính thức mà nóĩ‘, vì BTV cũng như HĐMV chưa chính thức được giáo quyền đîa phương công nhận. Phải đợi tới ngày 11/12/1983, khi đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá Paris, thay mặt đức hồng y J.M. LUSTIGER, đến giáo xứ, chủ lễ ra mắt của BTV, cũng như của HĐMV, ngày đó HĐMV mới chính thức được thành lập. Và từ đó, ta có thể nói rằng HĐMV đã bước vào giai đoạn thứ ba, giai đoạn sinh hoạt chính thức đàu tiên.

Từ ngày chính thức được công nhận, HĐMV tiên khởi đã làm được gì trong hai năm 1983-1985 ?

Trong bản phúc trình cho đại hội ngày 23/06/1985, đăng trong báo Giáo Xứ số 16, ông chủ tịch BTV-HĐMV đã trả lời vấn đề này. Phần tôi, tôi gợi lại vài yếu tố góp phần trả lời, cũng đã được đăng trong Báo Giáo Xứ số 11, ngày 01/12/1985, và sửa lại đôi chút như sau :

Sau hai năm sinh hoạt, HĐMV đã làm được gì ? Để trả lời câu hỏi này, người hời hợt và phiến diện sẽ nông nổi nói ngay rằng ‘Chưa được gì cả, chưa xây được nhà thờ, chưa gây được quỹ ‘. Trả lời như vậy tức là chối bỏ cái quỹ xây nhà thờ là to lớn, cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cần có kế hoạch, cần hiểu biết về pháp luật và giáo luật đến chi tiết, cần quản trị nghiêm chỉnh. Một gia đình, nhất là một gia đình trẻ, tay trắng, muốn mua một căn nhà, và mua chịu, cũng còn cần phải làm một kế hoạch tiết kiệm năm năm. Huống hồ việc gây quỹ cho một cộng đoàn, một quỹ to, đủ để xây một nhà thờ, có phải một sớm một chiều, một năm một tháng mà làm được đâu.

Người khác lại trả lời rằng : ‘Được nhiều việc lắm : ra được báo, xây được sân xi-măng, giúp các cha tổ chức được hai ngày thân hữu, giúp các cha tổ chức được những lễ lạc lớn,...’ Câu trả lời này cũng hời hợt và nhất diện không kém gì câu trả lời trên. Như chúng ta vừa thấy ở trên, HĐMV này là HĐMV tiên khởi của cộng đoàn ta, một cộng đoàn có nhiều vấn đề đa tạp cần giải quyết, và sự hiện diện ở đây có lẽ còn kéo dài thế hệ này qua thế hệ nọ.

Bởi vậy, tiêu chuẩn đàu tiên cần đặt ra là hỏi xem HĐMV có ý thức được sứ mệnh của mình và những vấn đề phải được giải quyết không. Không dám nói rằng HĐMV đã ý thức hoàn toàn được những vấn đề của cộng đoàn, nhưng có những dấu chỉ để bảo rằng HĐMV đã có thiện chí muốn nhận định những vấn đề ấy. Năm đề tài được đưa ra để thảo luận trong đại hội mục vụ ngày 17/06/1984, liên hệ đến 1. sự sinh tồn của cộng đoàn, 2. điều kiện phát triển cộng đoàn, 3. sứ mệnh tôn giáo và văn hoá của cộng đoàn, 4. tạo dựng cơ sở cho cộng đoàn, 5. những phương pháp gây quỹ cho cộng đoàn, là một biểu lộ của thiện chí ấy.

Tiêu chuẩn thứ hai cần đưa ra là hỏi xem ‘cách làm việc của HĐMV có phương pháp không ?’ Để trả lời câu hỏi này, cần phải nhìn xem BTV và HĐMV làm việc thế nào. Ở điểm này, tôi xin mô tả cách làm việc của HĐMV như sau : BTV đã tạo được một sinh hoạt đều đặn là buổi họp hàng tháng. Kể từ ngày được thành lập đến nay, tháng nào Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn cũng giữ được phiên họp hàng tháng này, và đa số các phiên họp đã đều được sự tham dự đày đủ của BTV và sự tham dự đông đảo của BCV. Do đó, sự trao đổi trong các phiên họp tương đói hào hứng và đa số tích cực. Riêng Đại Hội Mục Vụ thì nhiệm kỳ vừa qua chỉ tổ chức được hai lần. Đó cũng là lý do khiến việc tiếp sức với các đơn vị mục vụ chưa được dồi dào cho lắm.

Cũng ở trong phương pháp làm việc, đại để cách thức sau đây đã được BTV và BCV áp dụng để giải quyết các vấn đề. Truớc nhất, nhận định vấn đề. Nếu là vấn đề ngắn hạn cần được giải quyết ngay, thì nhận định xem có nên làm hay không, nên làm thế nào. Ròi phân công, rồi thực hiện. Nếu là vấn đề dài hạn, trường kỳ và phức tạp, thì mổ xẻ sự cần thiết, điều kiện pháp luặt, khả năng có thể và kế hoạch thực hiện. Nhiều khi, sau một chuỗi làm việc, ở giai đoạn kế hoạch, một vài khó khăn mới lại nảy ra, đôi khi lại là những khó khăn ngoài khả năng, việc thực hiện lại được xét lại. Đại để đó là hai điều chính yếu trong phương pháp làm việc hiện nay của BTV - HĐMV. Cái giá trị của phương pháp ấy ra sao, tôi xin nhường lời cho mọi người phê phán.

Tiêu chuẩn thứ ba cần đưa ra là hỏi xem ‘HĐMV có đã tìm ra được những giải đáp tương ứng với những vấn đề của cộng đoàn chưa ?’. Câu hỏi này tương đối tế nhị, vì sứ mệnh của HĐMV chỉ là cộng tác với ban Giám đốc Giáo Xứ, chứ không bao giờ được vượt quyền của ban này. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là HĐMV chỉ thụ động vâng lời BGĐ, nhưng chỉ có ý xác định một nguyên tắc rằng trong các giải pháp được đưa ra, trong các quyết định được lựa chọn, tất cả đều phải được BGĐ, người trách nhiệm thực sự về tinh thần của cộng đoàn chấp nhận. Điều tế nhị thứ hai của tiêu chuẩn thứ ba này là tính cách liên tục và trường kỳ của nhiều vấn đề của cộng đoàn, đặc biệt là những vấn đề có tính cách tâm lý xã hội, như vấn đề đoàn kết, vấn đề tin tưởng, vấn đề tương trợ. Muốn đoàn kết các thành phần của cộng đoàn, đâu phải chỉ có một giải đáp chung, hữu hiệu cho hết mọi người, đâu phải chỉ cần làm một lúc. Nhưng phải linh động và thích ứng, tuỳ người và liên tục.

Như vậy là HĐMV đã đi được một chặng đường dài ? Quãng đường còn lại phải đi còn nhiều việc phải làm và còn nhiều khó khăn phải vượt qua ? Câu hỏi này gồm ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất : HĐMV đã đi được một quãng đường dài ? Dài được bao nhiêu, tôi không dám xác định. Tôi chỉ dám nói rằng HĐMV đã đi được một quãng đường. Quãng đường còn lại chắc chắn là dài lắm. Vấn đề thứ hai liên hệ đến những việc sẽ phải làm. Về điểm này, xin chị tin tưởng vào BGĐ, HĐMV và BTV. Quí vị là những người sáng suốt, chắc chắn đã, đang và sẽ nhìn ra những việc phải làm. Không ở trong HĐMV, nhiều khi mình tưởng việc này phải làm gấp, có thể làm ngay. Nhưng ở trong HĐMV, hiểu biết cụ thể về khả năng của cộng đoàn, về nhu cầu của cộng đoàn, một cái nhìn khác lại nảy ra. Còn vấn đề thứ ba liên hệ đến các khó khăn, có lẽ khó khăn lớn nhất là phương tiện : phương tiện tài chánh, phương tiện thời giờ, phương tiện nhân sự. Xin Chúa dàn xếp, để thiện chí chúng ta được đền bù phần nào cho những khó khăn về phương tiện.

1333 : Những hoat động đã thực hiện từ 1980

23 trên tổng số 26 hội đoàn, nhóm, lớp, ban,.. đã được thành lập từ năm 1980. Một thời thịnh đạt. Thật đáng mừng và khuyến khích.

Từ năm 1980, ban Giám Đốc Giáo Xứ bấy giờ là cha Vinh, cha Lượng, cha Sách, chị Phú, chị Na chia nhau quán xuyến mọi công việc, nhất là đưa ra những sáng kiến sinh hoạt mục vụ để mời giáo dân tham dự. Sau đây là những hoạt động chính yếu đã được Ban Giám Đốc và Ban Muc Vụ ‘khai sinh mỗi năm’ :

1980 : Nhóm Thần Học Giáo Dân ra đời nay là nhóm Thánh Kinh. Chị Têrêsa Thân Thị Kim Liên vào làm việc cho Giáo Xứ.

1981 : Tăng cường các nhóm trẻ sống đạo. Ngày 13.09.1981, ĐứcTổng Giám Mục Jean Marie Lustiger thăm Giáo Xứ và ban Phép Rửa Tội cho 16 em nhỏ.

1982 : Chị Têrêsa Na mãn chương trình ‘Cán Sự Xã Hội’, về làm việc lại cho Giáo Xứ, mở ‘Bữa Cơm Chủ Nhật’, tổ chức Đại Hội Mục Vụ để chuẩn bị lập Hội Đồng Mục Vụ.

1983 :

Hội Đồng Mục Vụ tiên khởi, khóa I (1983-1985) đã được các đại diện các Hội Đoàn Mục Vụ và đại diện các Địa Điểm Mục Vụ thành lập ngày 30.10.1983 và đã được Đức Cha Michel COLONI, phụ tá tổng giám mục Ba-lê, đặc trách Ngoại Kiều Vụ chính thức công nhận ngày 11/12/1983. Thành phần gồm :

Ông Phan Quang : Chủ tịch

Ông Nguyễn văn Hộ : Phó Chủ tịch, đặc trách tôn giáo

Ông Trần Louis : Phó Chủ tịch, đặc trách Xã hội

Ông Võ Phước Thiện : Phó Chủ tịch, đặc trách Văn hoá và tuổi trẻ

Giáo Sư Trần văn Cảnh : Tổng thư ký

Bà Tạ Thanh Minh : Phó Tổng thư ký

Bà Nguyễn Đình Thái : Thủ quỹ

Ông Nguyễn Tiến Đạt : Phó Thủ quỹ

Ngay sau đó, BTV tiên khởi của HĐMV đã bắt tay làm việc. Rồi kế tiếp tiến lên, tám BTV tiếp theo càng ngày càng hăng hái và tích cực xây dựng cộng đoàn. Rất nhiều công việc đã được thực hiện, trong đó những việc sau đây đã được BGĐ và BTV-HĐMV khai sinh hàng năm, đáng được ghi nhận :

1983 : Mở cửa lại ‘Bữa Cơm Chủ Nhật’, Xây Xi măng sân trong, tổ chức hai ngày thân hữu.

1984 : Xin nhà dòng Visitandines cho đất, mở rộng sân; tái bản báo Giáo Xứ Việt Nam; Tiểu đội Legio Trẻ ra đời.

1985 : Cha Hoàng Quang Lượng đi hưu, Cha Phêrô Bùi Duy Nghiệp từ Toulouse lên làm việc cho Giáo Xứ, lo giới trẻ và giúp cộng đoàn Sarcelles. Xin nhà dòng cho phép làm nhà kho ngoài sân, làm sân khấu. Tình diễn văn nghệ với đề tài ‘Giữ Thơm Quê Mẹ’.

Cha Vinh được bầu làm Liên Lạc Trưởng của Hội Liên Tu Sĩ Việt Nam tại Paris. Hội Đồng Mục Vụ khóa II (1985-1987)

Chủ tịch Ông Phan Quang

Phó chủ tịch, đặc trách tôn giáo Ông Nguyễn văn Hộ

Phó chủ tịch, đặc trách xã hội Ông Trần Louis

Phó chủ tịch, đặc trách văn hoá và tuổi trẻ Ông Võ Phước Thiện

Tổng thơ ký Bà Tạ Thanh Minh

Phó tổng thơ ký Ông Đoàn Ngọc Hưởng

Thủ quỹ Bà Nguyễn Đình Thái

Phó thủ quỹ Ông Nguyễn Tiến Đạt

1986 : Bắt đầu chiến dịch Sổ Vàng; Thành lập Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, nhiều giáo dân viết thư cho ĐứcHồng Y J.M. Lustiger trình bày nguyện vọng về nhà thờ cho Giáo Xứ. Hội Đồng Mục Vụ tổ chức ‘Bủa Cơm Thân Hữu Mừng Xuân’ lần I. Đại Hội Liên Tu Sĩ I tại Giáo Xứ. Chị Sophie Phú thôi làm việc cho Giáo Xứ và được nhà dòng gửi đi học y tá.

Cũng chính năm 1986, nhiệm kỳ của Cha Mai Đức Vinh được triển hạn thêm ba năm làm Cha sở của Giáo Xứ Việt Nam trong Hạt Ngoại Kiều (Curé de la poroise Vietnamienne dans le doyenné des Migrants) kể từ ngày 01.09.1986.

1987 : Thầy Girard Xavier thuộc cộng đoàn Sarcelles lãnh chức Phó Tế Vĩnh Viễn. Hội Đồng Mục Vụ khóa III (1987-1989).

Chủ tịch Ông Nguyễn văn Hộ

Phó chủ tịch, đặc trách tôn giáo Ông Trần Louis

Phó chủ tịch, đặc trách xã hội Bà Debonnaire Lộc

Phó chủ tịch, đặc trách văn hoá và tuổi trẻ Ông Trương Quân Vương

Tổng thơ ký Ông Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó tổng thơ ký Bà Nguyễn thị Hy

Thủ quỹ Bà Nguyễn Đình Thái

Phó thủ quỹ Chị Đào Kim Phượng

1988 : Cha Bùi Duy Nghiệp trở về lo cộng đoàn Việt Nam ở Toulouse, Cha Vincentê Nguyễn Văn Cẩn từ ThụySĩ về làm việc cho Giáo Xứ. Giáo Xứ tham dự Thánh lễ Phong Thánh tại Roma.

1989 : Hội Yểm Trợ Ơn Gọi ra đời. Sau vụ nhà thờ ‘Notre Dame de Blanc Manteau’, Ban Giám Đốc lên yết kiến Đức Hồng Y để trình bày về ý chí bảo toàn ‘hằng tình’ (identité) của người Việt Nam. Lưu nhiệm Hội Đồng Mục Vụ thêm một năm. Đại Hội Liên Tu Sĩ II tại Giáo Xứ.

Ngày 28.08.1989, Đức Cha Claude Frikart, Giám mục phụ tá Paris, thay mặt Đức Hồng Y J.M. Lustiger, gửi thư báo cho Cha Vinh biết : Nhiệm kỳ làm Cha sở sẽ hết vào ngày 31.08.1989, nhưng với sự đồng ý của các bề trên của Cha, theo quy định về đặc quyền mà Bộ Giáo Sĩ ra ngày 23.12.1968, và theo sự biểu quyết của Hội Đồng Giám Mục Pháp công bố ngày 13.06.1984, nhiệm kỳ của Cha được triển hạn đến 31.08.1992.

1990 : Với sự giúp đỡ của nhà dòng Visitandines, nhiều người trong cộng đoàn góp sức trang bị lại nhà bếp, hệ thống sưởi, máy hút đồ dơ. Ra tờ "Mission Catholique Vietnamiene" bằng tiếng Pháp, 1 tờ A3, mỗi năm 2 số để gửi cho các ân nhân và bạn hữu ngoại quốc. Hội Đồng Mục Vụ khóa IV (1990-1992).

Chủ tịch Ông Nguyễn văn Hộ

Phó chủ tịch, đặc trách tôn giáo Ông Trần Louis

Phó chủ tịch, đặc trách xã hội Nt Christine Nguyễn thị Lan

Phó chủ tịch, đặc trách văn hoá và tuổi trẻ Chị Đào Kim Phượng

Tổng thơ ký Chị Vũ thị Lan

Phó tổng thơ ký Ông Phạm Hoà Hiệp

Thủ quỹ Ông Hoàng Minh Trứ

Phó thủ quỹ Bà Nguyễn thị Cẩm Tuyết

Ngày 17.06.1990, Văn nghệ ‘Uống Nước Nhớ Nguồn’, kỷ niệm hai năm lễ Phong Thánh.

Ngày 25.06. 1990, Đức Cha Pierre Joatton, Giám mục giáo phận Saint Etienne, chủ tịch Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều gửi thư bổ nhiệm Cha Giuse Mai Đức Vinh làm Đại Diện Quốc Gia cho Tuyên Úy Đoàn Việt Nam tại Pháp và là người có trách nhiệm phối hợp về mục vụ cho người Việt Nam ‘Délégué National pour les aumôniers vietnamiens en France et responsable de la cơrdination de la Pastorale des Vietnamiens).

1991 : Ủy ban Giám Mục về Ngoại Kiều can thiệp xin Đức Cha địa phận Nanterre cử Cha Giuse Nguyễn Văn Ziên đến làm việc cho Giáo Xứ một phần tư thời gian trong hai năm. Đại Hội Liên Tu Sĩ III tại Giáo Xứ. Cha Giuse Trần Anh Dũng đến làm việc cho Giáo Xứ bán thời gian.

1992 : Ngày 01.09.1992, Đức Cha Claude Frikart, thay mặt Đức Hòng y J.M. Lustiger gửi thư cho Cha Mai Đức Vinh triển hạn nhiệm kỳ ‘Cha sở Giáo Xứ’ của Cha đến 31.08.1995. Làm lại nhà kho. Bầu lại Hội Đồng Mục Vụ khóa V (1992-1994).

Chủ tịch Ông Nguyễn Văn Nghi

Phó chủ tịch, đặc trách tôn giáo Ông Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch, đặc trách xã hội Bà Huỳnh Thái Ngoạn

Phó chủ tịch, đặc trách văn hoá và tuổi trẻ Chị Đào Kim Phượng

Tổng thơ ký Nt Christine Nguyễn thị Lan

Phó tổng thơ ký Ông Đổ Huy Hoàng

Thủ quỹ Ông Đỗ Thượng Hưng

Phó thủ quỹ Bà Debonnaire Lộc

1993 : Phong trào Cursillo bắt đầu mở Tuần Tĩnh Huấn tại Rungis với sự giúp đỡ nhân sự và tài chánh của Cursillo Việt Nam bên Hoa Kỳ. Cha Dũng nhận cộng đoàn Noisy Le Grand thay Cha Cẩn. Cha Sách nhận lo cộng đoàn Cergy-Pontoise.

1994 : Chuẩn bị vận động với nhà dòng và Tòa Giám Mục làm lại hai nhà ngoài sân. Cha Ziên thôi làm việc cho Giáo Xứ và được Đức Cha giáo phận Nanterre cho đi học. Cha Cẩn thay thế Cha Ziên giúp Cha Vinh ở Sarcelles. Hội Đồng Mục Vụ khóa VI (1994-1996).

Chủ tịch Ông Nguyễn Văn Nghi

Phó chủ tịch Ông Nguyễn Ngọc Đỉnh

Uỷ viên đặc trách tôn giáo Chị Nguyễn Thị Mỹ Phước

Uỷ viên đặc trách xã hội Ông Ngô Triệu Hùng

Uỷ viên đặc trách văn hoá và tuổi trẻ Ông Nguyễn Kim Tuấn

Uỷ viên đặc trách tài chánh Ông Đỗ Anh Sỹ

Tổng thơ ký Chị Đào Kim Phượng

Phó tổng thơ ký Ông Đổ Huy Hoàng

1995 : Ban ‘Chuẩn Bị Hôn Phối’ bắt đãu sinh hoạt. Làm lại nhà ngoài sân. Tham dự Đại Hội Hành Hương Lộ Đức do Tuyên Úy Đoàn tổ chức. Cha Vinh nhận lo cộng đoàn Ermont theo lời yêu cầu của giáo phận Pontoise. Cha Dũng lo giới trẻ thay ChaSách.

1996 : Làm lại sân. Chuẩn bị lễ 50 năm thành lập Giáo Xứ. Tuần lễ ‘Đón Đức Mẹ’ là tuần khai mạc năm Tạ Ơn. Thiếu nhi mừng 10 năm thành lập. Ban Thường Vụ của Hội Đồng Mục Vụ được triển hạn lại một năm. Nhóm ‘Thân- Hữu Taxi’ thành hình.

Đúng theo thư bổ nhiệm, Cha Vinh hết nhiệm kỳ làm Cha sở Giáo Xứ vào ngày 31.08.1996. Nhưng ngày 21.03.1996, Cha Vinh lên Tòa Tổng Giám Mục gặp Đức Cha Claude Frikart, Đức Cha bảo : ‘Bây giờ không tính số năm, điều quan hệ là Cha còn khỏe (solide) không ? Tôi suy nghĩ và sẽ trả lời cho Cha. Thế rồi ngày 03.06.1996, Cha Yves Mallmann phụ tá của Đức Cha Claude Frikart và là Giám Đốc của SITI (Service Interdiocésain des Travailleurs Immigrants) đến Giáo Xứ báo cho Cha Vinh hay là ‘Địa phận muốn Cha vui lòng tiếp tục nhiệm vụ làm Cha sở Giáo Xứ Việt Nam, không cần bổ nhiệm lại nữa’.

1997 : Tổ chức Đại lễ Kim Khánh Giáo Xứ (1947-1997) tại nhà thờ Notre Dame des Champs và tại Giáo Xứ ở Boissonade vào hai ngày 11 và 18.05.1997.

- Xuất bản kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris ngày 01.01.1997.

- Triển lãm kỷ niệm Kim Khánh về lịch sử, sinh hoạt, các đơn vị mục vụ, tổ chức các hội đoàn do sứ thần tòa thánh cắt băng khánh thành vào ngày 11.05.1997.

- Văn nghệ ‘Mùa gặt mới’ tổ chức tại Centre Culturel Boulogne - Brillancourt vào thứ bảy 10.05.1997.

- Cha Giuse Trần Anh Dũng được Tòa Tổng giám mục chính thức bổ nhiệm làm việc tại Giáo Xứ, cách riêng cho giới trẻ, từ 1995. Từ nay ngài sẽ làm việc toàn thời cho Giáo Xứ.

- Xuất bản cuốn sách ‘Giáo lý cho người trưởng thành’ và cuốn ‘Têrêsa, vị thánh lớn nhất của thời đại mới’

- Ban thường vụ mới của HĐMV, nhiệm kỳ VII, 1997-1999

Chủ tịch Ông Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch Ông Lê Đình Thông

Tổng thơ ký Ông Trần Khắc Đạt

Phó tổng thơ ký Chị Phạm Mai Hương

Uỷ viên đặc trách tôn giáo Chị Nguyễn Thị Mỹ Phước

Uỷ viên đặc trách văn hoá Ông Bùi Văn Triển

Uỷ viên đặc cơ sở Ông Nguyễn văn Thơm

Uỷ viên đặc trách tài chánh Ông Ngô Triệu Hùng

1998

- Đại hội hành hương Lộ Đức từ 06 đến 10.08.1998

- Đến cơ sở mới và dâng thánh lễ đầu tiên tại cơ sở mới vào ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15.08.1998 và chuyển giao cơ sở Boissonade cho cộng đoàn công giáo Triều Tiên ngày 31.08.1998.

- Linh mục giám đốc Mai Đức Vinh được Tòa Thánh ân thưởng tước vị ‘Đức ông’ qua quyết định ngày 12.11.1998 của phủ quốc vụ khanh đích thân Đức Hòng Y Jean Marie Lustiger đã đến địa điểm mới của Giáo Xứ và công bố vào lễ Các Thánh Tử Đạo cử hành tại cơ sở mới vào ngày 15.11.1998.

1999

- Sr Anna Huỳnh thị Na qua đời ngày 11.12.1999

- 16 hang đá dự thi triển lãm vào giáng sinh 25.12.1999

- Xuất bản cuốn ‘Hành trang sống thế kỷ XXI’

- Ban thường vụ nhiệm kỳ VII; lưu nhiệm thêm một nhiệm kỳ 2 năm : BTV, nhiệm kỳ VIII, 1999-2001

Chủ tịch Ông Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch Ông Lê Đình Thông

Tổng thơ ký Ông Trần Khắc Đạt

Phó tổng thơ ký Chị Phạm Mai Hương

Uỷ viên đặc trách tôn giáo Chị Nguyễn Thị Mỹ Phước

Uỷ viên đặc trách văn hoá Ông Bùi Văn Triển

Uỷ viên đặc cơ sở Ông Nguyễn văn Thơm

Uỷ viên đặc trách tài chánh Ông Ngô Triệu Hùng

2000

- Nhóm Chuyên Gia Đại Hội ra mắt vào chủ nhật 16.01.2000

- Ngày năm thánh của cộng đoàn để lãnh ân toán xá, cử hành ngày 12.03.2000 tại Vương Cung Thánh Đường Sacré Coeur, Montmartre.

- Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ nhất 01.05.2000 với năm nhóm chuyên gia, dịch vụ, doanh thương, thân hữu Taxi và xây dựng.

- Hội diễn thánh ca ngày 17.12.2000 vói sự tham dự của tất cả các ca đoàn và nghệ sĩ của Giáo Xứ

- Xuất bản 3 cuốn sách ‘Fatima, hòa bình và tình thương’, ‘Đường vào tình yêu’ và ‘Chân phước Giáo hoàng XXIII’.

2001

- Sư huynh Trần Văn Nghiêm, người đã đóng góp rất nhiều cho Giáo Xứ qua đời ngày 05.04.2001, thọ 93 tuổi.

- Ban Mục vụ Hôn nhân cho ra đời ngày (bồi dưỡng) gia đình tổ chức vào hai ngày 27 và 28.10.2001

- Nhóm chuyên gia bắt đầu mở phòng trực vào mỗi chiều chủ nhật thứ tư, nha y dược, bắt đầu từ 23.09.2001.

- Cha Dũng thay cha Cẩn lo việc quản lý.

- Ban thường vụ HĐMV - GXVN, nhiệm kỳ IX, 2001-2003

Chủ tịch Ông Lê Đình Thông

Phó chủ tịch Chị Đào Kim Phượng

Tổng thơ ký Ông Trần Khắc Đạt

Phó tổng thơ ký Chị Lê Thị Xuân Phương

Uỷ viên đặc trách tôn giáo Chị Nguyễn Thị Mỹ Phước

Uỷ viên đặc cơ sở Ông Nguyễn văn Thơm

Uỷ viên đặc trách tài chánh Ông Ngô Triệu Hùng

- Tu chính lần thứ tư Bản nội quy HĐMV, qua ĐHMV ngày 09/12/2001, đặc biệt tăng nhiệm ky của các thành phần trong BTV lên 3 năm (thay vì 2 năm, như trước đây)

2002

- Đại hội công giáo vùng Âu Châu từ 02 đến 04.08.2002 tại Lộ Đức.

- Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ 3, ngày 01.05.2002, mạng lưới đầu tiên của Giáo Xứ (sau hai năm cưu mang). Chào đời với tên gọi www giaoxuvn paris.org

- Cộng đoàn Giáo Xứ đón Đức Mẹ Lavang vào Giáo Xứ trong hai ngày 12 và 13.10.2002.

- Ra mắt cuốn I trong bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội (gồm 5 cuốn và 10 quyển sách)

2003

- Tiếp đón 130 bạn trẻ trên tổng số 90.000 bạn trẻ thế giới về họp tại Paris từ 28.12.2002 đến 01.01.2003.

- Thánh lễ tại Giáo Xứ được trực tiếp truyền hình trên đài F2 vào chủ nhật 23.03.2003.

- Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ 4, ngày 01.05.2003, Ấn hành cuốn ‘Kỷ yếu Liên Đới Nghề Nghiệp 2003’

- Lập nhóm đặc trách ‘Tiền giúp Giáo Hội’

- Cải tổ và tu chính nội qui Hội Yểm Trợ ơn gọi tận hiến trong đại hội của hội ngày 12.10.2003

- Tiếp dón Dức Tân Hồng Y Phạm Minh Mẫn, và cùng Ngài cử hành thánh lễ kỷ niệm Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày chủ nhật 16.11.2003.

- 18 hang đá dự thi triển lãm vào giáng sinh 25.12.2003

1334 : Sơ đồ tổ chức vân hành nôi bô

Hiện nay trong giáo xứ có 36 đơn vị mục vụ. Trong đó, trên 20 ban, nhóm đã được thành lập từ năm 1983. Một thời thịnh đạt. Thật đáng mừng và khuyến khích.

Sơ đồ kèm đây qui tụ tất cả những sinh hoạt, những tổ chức um tùm và rậm rạp của Giáo Xứ vào một khung rất là đơn sơ và trong sáng, được cha Mai Đức Vinh và giáo sư Trần văn Cảnh phác họa vào năm 1997.

Sơ đồ tổ chức này cho thấy những sinh hoạt nội bộ của Giáo Xứ, những cơ quan, những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm được thực hiện trong lòng Giáo Xứ.

Tổ chức này trước nhất bao gồm một cơ quan trung ương là BAN GIÁM ĐỐC. Và bên cạnh và sát cánh với Ban Giám Đốc là BAN THƯƠNG VU của Hội Đồng Mục Vụ.

Cơ quan trung ương

Ban Giám Đốc Linh mục Joseph Mai Đức Vinh

Linh mục Joseph Đinh Đồng Thượng Sách

Linh mục Vincent Nguyễn Văn Cẩn

Linh mục Joseph Trần Anh Dũng

Phó tế Phanxico Xavier Girard

Phó tế Inhaxio Nguyễn văn Thạch

Phó tế Phêrô Phạm Bá Nha

Phó tế André Tạ Đình Chung

Nữ tu Thérèse Thân Kim Liên

Nư tu Marie Nguyễn Thị Kim Thoa

Ban Thường Vụ

Của Hội Đồng Mục Vụ Phanxicô Lê Đình Thông

Maria Đào Kim Phượng

Giuse Tần Khắc Đạt

Maria-Têrêxa Lê xuân Phương

André Nguyễn thành Công

Dominique Trần Anh Dũng

Giuse Ngô Triệu Hùng

Alphonse Dương Trung Huy

Antoine Bùi Trọng Khang

Marie Têrêxa Nguyễn Mỹ Phước

Giuse Nguyễn Văn Thơm

Cái vòng kế cận bao gồm các diạ điểm muc vụ. Trụ sở chính của Giáo Xứ Việt Nam, từ năm 1997, ở số 38 rue des Epinettes, Paris 17, và có năm địa điểm mục vụ khác : Cergy-Pontoise, Ermont, Sarcelles và Villiers le Bel (95, giáo phận Pontoise), Stains-Pierrefittte (93, giáo phận Saint Denis) và Noisy le Grand (77, giáo phận Meaux). Mỗi nơi có cha Tuyên úy và các đại diện chịu trách nhiệm về sinh hoạt mục vụ.

Các điạ điểm mục vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris

Xứ chính Paris

Họ lẻ Cergy-Pontoise

Ermont

Sarcelles và Villiers le Bel

Sarcelles và Villiers le Bel

Noisy le Grand

Marne-la-Vallée

Giáo Xứ được vui tươi đầy sinh động là nhờ sự có mặt của các đoàn thể. Những sinh hoạt thường xuyên đều đặn của giáo dân làm tăng sức sống và tinh thần keo sơn xứ đạo. Giáo Xứ Việt Nam có sáu hội đoàn, phong trào và khoảng 20 ban, nhóm,.. đang hoạt động trong khuôn khổ Công Giáo Tiến Hành. Các đoàn thể này tạo thành cái vòng thứ ba trong sơ đồ tổ chức của Giáo Xứ.

Cac hội đoàn và phong trào, ban, nhóm công giáo tiến hành

Giáo Xứ Việt Nam Paris

Hội đoàn Hội các bà mẹ công giáo

Hội Đạo binh Đức Mẹ

Hội yểm trợ ơn gọi

Phong trào Thiếu nhi thánh thể

Phong trào Cursillo

Phong trào Liên đới ngh nghiệp (Chuyên gia, Taxi, Doanh thương, Dịch vụ, Xây dựng)

Đoàn,

nhóm,

lớp,

ban Ca đoàn Giáo xứ

Ca đoàn Trinh vương

Ca đoàn Triều dâng

Ca đoàn Thiếu nhi Thánh thể

Ca đoàn Lê bảo Tịnh

Nhóm Sinh viên

Nhóm Gia đình trẻ

Nhóm Sống đạo

Nhóm Tìm hiểu ơn gọi

Nhóm Thánh kinh

Nhóm Giáo lý tân tòng

Nhóm bữa cơm chủ nhật

Nhóm Thư viện

Nhóm trẻ

Lớp Giáo lý trẻ em

Lớp Pháp văn

Lớp tiếng việt

Lớp đàn tranh

Ban báo giao xứ

Ban Mục vụ hôn nhân

134. Có nhiều liên hệ sâu đậm

Giáo Xứ không phải là một tổ chức biệt lập. Cây văn hóa Giáo Xứ không thể tự sống một mình, mà có rất nhiều liên hệ đến các cộng đoàn khác : cộng đoàn giáo phận Paris, cộng đoàn công giáo Việt Nam hải ngoại, cộng đoàn Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

Trong tập Kỷ Yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ 1947-1997, tôi đã có dịp trình bày về ‘Những tương quan của Giáo xứ Paris với các cộng đoàn khác’ một cách vắn gọn rằng : (trang 58-61)

Giáo Xứ là một thể chế của Giáo Hội, là đơn vị căn bản của cộng đoàn tín hữu. Để tồn tại, lớn lên và phát triển, Giáo Xứ được nuôi dưỡng bằng ‘đức mến Chúa và lòng yêu người’. Lòng yêu người biểu hiệu những tương quan giữa các tín hữu của Giáo Xứ với nhau và những tương quan của Giáo Xứ với các Cộng Đoàn khác. Kể từ ngày được chính thức thành lập với danh hiệu là Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1946-1952), lớn lên với danh hiệu là Tổ Chức Truyền Giáo Việt Nam tại Pháp (1952-1977), và trưởng thành với danh hiệu Giáo Xứ Việt Nam vùng Paris (1977...), Giáo Xứ, qua các ban chấp hành vá Giám Đốc khác nhau, vẫn luôn luôn lưu tâm đến những tương quan với các thẩm cấp và Cộng Đoàn khác của Giáo Hội. Theo giáo luật hiện hành ở hai khoản 515,1 và 518, ba mối tương quan lớn hằng thắt chặt Giáo Xứ với Giáo Hội là :

- Tương quan của Giáo Xứ với các giáo phận và giáo xứ Pháp, nhất là Tổng Giáo Phận Paris.

- Tương quan của Giáo Xứ với các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam khác nhau ở hải ngoại.

- Tương quan của Giáo Xứ với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

1341. Với Tổng Giáo Phận Paris.

Theo Giáo Luật hiện hành ‘khoản 515,1’, Giáo Xứ là một Cộng Đồng tín hữu được thiết lập một cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương mà việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của giám mục địa phận.

Qua định nghĩa này, bổn phận căn bản của Giáo Xứ là xây dựng và phát triển Cộng Đồng tín hữu của Giáo Xứ dưới sự săn sóc của Cha sở. Đó là điều hiển nhiên. Nhưng một sứ mệnh khác không kém quan trọng cũng được nêu ra, đó là mối liên hệ của Giáo Xứ với giáo phận mà Giáo Luật dùng chữ Cộng Đồng bền vững ở trong Giáo Hội địa phương. Vậy tương quan đầu tiên của Giáo Xứ Việt Nam vùng Paris là với Giáo Phận Địa Phương Paris.

Trước năm 1977, dẫu không trực thuộc Tổng Giáo Phận Paris, nhưng Giáo Xứ có những tương quan mục vụ tốt đẹp với Giáo Hội Pháp.

- Bản điều lệ Liên Đoàn làm ngày 01.04.1946, sửa đổi ngày 05.04.1947, đã được Đức Cha Henri Chappoulie, TỔng Thư Ký Hàng Giám Mục Pháp duyệt và chuẩn y ngày 01.10.1947.

- Hai năm sau, cũng Đức Cha Henri Chappoulie, gởi thư cho Cha Trần Văn Hiến Minh khuyên các tuyên úy và ban trị sự liên đoàn ‘đến gặp Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Paris và bàn với Đức Cha Beaussart và Cha Rupp, coi sóc người ngoại quốc, về việc xác định đîa vị Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam đối với các phong trào công giáo tiến hành khác’.

- Trong ba ngày 2, 3, 4 tháng tám 1946, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp có tổ chức cho anh em công giáo Việt Nam cuộc đi dự ba ngày học hỏi của Thanh Lao Công Pháp mở tại Angers. Phái đoàn Việt Nam gồm hai anh lính thợ Nguyễn Vi Nhuần và Bùi Thùy và ba nhân viên trung ưöng của Liên Đoàn, các anh Trương Công Cừu, Trần Hữu Phương và Cha Cao Văn Luận.

Từ năm 1977, trực thuộc theo giáo luật vào giáo phận Paris và được nâng lên hàng Giáo Xứ theo tự sắc ‘Mục Vụ Ngoại Kiều’, Giáo Xứ Việt Nam Paris có những tương quan cơ cấu hơn với địa phận Paris

Những sự kiện cụ thể sau đây nói lên mối tương quan chặt chẽ của Giáo Xứ Việt Nam với Giáo Phận Paris :

1. Cha sở và Ban Giám Đốc thường xuyên gặp gỡ và dự các buổi họp của Giáo Phận hay của Hạt Ngoại Kiều.

2. Có nhiều giáo dân tham gia các Hội Đồng Mục Vụ, hoặc tham gia vào việc dậy giáo lý ở cấp giáo xứ hay địa phận. Các giáo dân Việt Nam này đa số rất được ái mộ.

3. Giáo Xứ tham dự các lễ đặc biệt tổ chức cho các cộng đoàn ngoại kiều như ‘lễ các quốc gia và các sắc tộc’.

4. Ngay khi mới về Paris nhận chức, Đức Hồng Y Jean Marie Lustiger, chủ nhật 01.09.1991 đã đến thăm cộng đoàn, dâng lễ và ban phép rửa tội cho 15 em nhỏ.

5. Hàng năm giáo phận Paris giúp quỹ điều hành của Giáo Xứ gần 200.000 Frs.

6. Hàng năm Giáo Xứ nộp lên địa phận bản báo các mục vụ và bản báo cáo tài chánh.

7. Hàng năm Giáo Xứ nộp lên địa phận sổ rửa tội và sổ hôn phối.

8. Hàng năm Đức Cha phụ Tá đặc trách Ngoại Kiều đến ban phép rửa tội cho anh chị em tân tòng vào ngày lễ Phục Sinh.

9. Đặc biệt Cha Mai Đức Vinh và Chị Đào Kim Phượng đã đại diện cho Giáo Xứ trong công nghị của Giáo Phận Paris (synode de l’Eglise de Paris) kéo dài một năm, 10.1994-10.1995.

10. Chủ nhật 21.01.1995 tất cả ban Thường Vụ cùng với Cha Giám Đốc dự ngày họp mặt ‘các Hội Đồng Mục Vụ của các Giáo Xứ thuộc Tổng Giáo Phận Paris.

11. Ngoài ra Giáo Xứ luôn có tương quan tốt đẹp với các Giáo Phận (Pontoise, Nanterre, Saint Denis...) hay các Giáo Xứ Pháp (Ermont, Sarcelles...) liên hệ.

1342. Với các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại.

Tiếp theo khoản 515, giáo luật khoản 518 cho phép thành lập những Giáo Xứ tòng nhân (paroisse personnelle), dựa trên ngôn ngữ hay quốc tịch của các tín hữu. Giáo Xứ Việt Nam Paris được thành lập dựa theo khoản giáo luật này. Không lạ gì khi GXVN Paris đã và đang duy trì những tương quan chặt chẽ với các cộng đoàn công giáo Việt Nam khác tại Pháp và với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

Tương quan giữa trung ương Paris và các địa phương được xác định như sau trong bản nội qui 01.04.1946.

điều 5 : Mỗi tháng địa phương phải làm tờ trình về tinh thần và tình hình anh em địa phương cho ban trị sự trung ương.

điều 6 : Mỗi kỳ ba tháng, ban trị sự trung ương phải làm tờ trình các công việc cho hội đồng quản trị.

Các tương quan ấy được xác định rõ qua điều hai nói về mục đích của liên đoàn :

- Giúp đỡ hội viên là người công giáo giữ tròn phận sự người giáo hữu và biết làm tông đồ Chúa.

- Huấn luyện hội viên về các phương diện : đạo lý, luân thường, công dân và xã hội.

- Gây tình bằng hữu mật thiết giữa anh chị em bên lương và bên giáo.

- Trợ giúp các hội viên và đồng bào về phần xác và phần hồn, khi đau ốm, lúc cùng khốn và khi qua đời.

- Cầu nguyện chung cho nhau, cho Đạo Thánh và cho nước nhà và tổ chức các cuộc du lịch bổ ích về đường đạo và xã hội.

Từ 1975, với số người Việt Nam tại Pháp đông hơn, số các cộng đoàn mục vụ cũng tăng hẳn lên. Theo bản điều tra của tuyên úy đoàn, năm 1991 có 26 sở tuyên úy và 68 cộng đoàn trên 94 giáo phận tại Pháp. Tuyên úy đoàn hiện nay gồm 28 linh mục, 2 thầy phó tế, 1 sư huynh và 5 nữ tu (xem lịch phụng vụ của Giáo Xứ phát hành mỗi năm). Tương quan của Giáo Xứ Việt Nam Paris với các cộng đoàn công giáo Việt Nam khác tại Pháp đi vào tổ chức hơn.

- Ở lãnh vực tuyên úy có cuộc họp hàng năm của các tuyên úy Việt Nam tại Pháp.

- Ở cấp quốc gia Pháp, Giáo Xứ Việt Nam Paris tham gia vào ba tổ chức của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp : Ủy ban mục vụ giới trẻ, Ủy ban mục vụ giới trưởng thành và quỹ tương trợ cộng đoàn.

- Không phải là lãnh đạo, nhưng vì là một đơn vị kỳ cựu nhất tại Pháp và ở hải ngoại, là một đơn vị duy nhất độc lập cho người tín hữu Việt Nam có tính chất thể nhân của một Giáo Xứ, và là một cộng đoàn đông đảo nhất về nhân lực, Giáo Xứ Việt Nam đã góp phần tích cực trong các hoạt động cụ thể của cộng đồng Việt Nam tại Pháp.

- Các cuộc huấn luyện cán bộ công giáo tiến hành được tổ chức từ 1991 ở Lyon là nơi mà các ban đại diện mục vụ Paris thắt chặt sự cộng tác và tình huynh đệ với các đại biểu của các cộng đoàn bạn công giáo Việt Nam khác.

- Các cuộc hành hương, đặc biệt là hành hương quốc gia Lộ Đức 1995, đã là dịp để các giáo dân Giáo Xứ Việt Nam Paris gặp gỡ các giáo dân Việt Nam khác tại Pháp để cầu nguyện cùng Đức Mẹ cho quê hương Việt Nam.

- Ở cấp vùng Paris, hàng năm Giáo Xứ Việt Nam Paris cùng các cộng đoàn Việt Nam khác tổ chức chung lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam và Lễ Lá.

1343. Với Giáo Hội Mẹ Việt Nam

Ở buổi đầu, từ những năm 40 đến 75, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và Thừa Sai Công Giáo Việt Nam đều trực tiếp tùy thuộc hàng Giáo Phẩm của Giáo Hội Việt Nam. Ngày 26.03.1951, các Cha tuyên úy và 60 hội viên liên đoàn đã biên thơ ‘tỏ lòng thành kính cùng các Đức Cha và xin các Đức Cha ban phép lành’.

- Theo thơ đề ngày 28.04.51, Cha Trần Thái Đỉnh, chánh văn phòng tòa giám mục Bùi Chu biên cho Cha tuyên úy Trần Thanh Giản, ‘việc kiếm các Cha tuyên úy cho việt kiều Ba Lê sẽ được giải quyết trong kỳ hội đồng các Giám Mục tại Hà Nội đầu tháng 5 dưong lịch 1951’.

- Thời Cha Nguyễn Quang Toán làm giám đốc, nhiều việc tương trợ bác ái giúp các nạn nhân bão lụt và chiến tranh đã được thực hiện, đặc biệt cho địa phận Huế.

- Từ ngày lập, nhất là từ 1975 và hiện nay, Giáo Xứ là địa điểm đi lại của các giám mục, linh mục và tu sĩ Việt Nam khi các ngài có dịp qua Pháp. Đã có lần (vào năm 1995) có tới cả chục Đức Cha đến đồng tế cùng cầu nguyện với các giáo dân tại Giáo Xứ.

- Từ năm 1990, Giáo Xứ Việt Nam Paris đã lập hội yểm trợ ơn gọi để góp phần cầu nguyện và tài chánh giúp các chủng viện tại Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

- Ngoài ra ấn hành và phổ biến sách vở công giáo cũng là việc mà Giáo Xứ Việt Nam Paris góp phần trực tiếp với Giáo Hội Mẹ Việt Nam trong việc ‘làm cho Hội Thánh phổ quát nên hữu hình tại địa sở của mình’ (Hiến chế Hội Thánh, số 28B).

Đọc qua mấy trang trên đây, chúng ta đã thấy rõ rệt rằng thân cây công giáo của Cây Văn Hóa Việt Nam tại Giáo Xứ Paris quả thật đã và đang sinh sống và phát triển mạnh mẽ. Với một lịch sử non trẻ 60 tuổi đời, nó đang đi vào tuổi trưởng thành. Với một sức sống luôn vươn lên, Cây Văn Hóa Việt Nam tại Giáo Xứ Paris luôn tươi mát, luôn cải tiến. Sinh hoạt dồi dào, Cây Văn Hóa Việt Nam tại Giáo Xứ Paris biết suy nghĩ, tìm tòi để đưa cho mình một tổ chức hữu hiện và đơn sơ, thực tế mà trong sáng. Thân cây công giáo của Cây Văn Hóa Việt Nam tại Giáo Xứ Paris góp phần liên hệ với các cộng đoàn địa phương và quê mẹ, nuôi dưỡng văn hóa Âu Lạc và Bách Việt, bồi bổ văn hóa tam giáo Á châu và góp phần xây dựng văn hóa Âu Mỹ hiện đại.(Còn tiếp)