PHẦN THỨ NHẤT : GỐC RỄ VÀ TẦM VÓC CÂY VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI GIÁO XỨ PARIS



11. Văn hóa là gì ?

111. Là những nghệ thuật cao

Chữ ‘văn hóa’ tiếng việt mà ta dịch từ chữ ‘culture’ của pháp, từ rất xưa và từ rất lâu, vẫn được dùng để biểu thị một thực tại xã hội cao, dành cho giới khoa bảng trí thức, giới nghệ sĩ chính chuyên, giới quan chức quí tộc.

Chữ văn hoá bao gồm những hoạt động và những tác phẩm của những người học cao, tài lớn, tiền nhiều, chức cả. Theo quan niệm này, nói đến văn hóa Hy lạp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Hy lạp thời Platon, Aristote; Nói đến văn hóa La mã, người ta lộn ngay với văn hoá La mã thời Auguste; Nói đến văn hóa Anh quốc người ta nghĩ ngay đến văn hóa thời nữ hoàng Elizabeth, nói đến văn hóa Pháp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Pháp thế kỷ Ánh Sáng. Giản tiện hơn, trên phương diện địa lý, văn hóa Anh thường được đồng hóa với văn hóa Luân đôn, văn hóa Pháp với văn hóa Paris, văn hóa Việt Nam với sinh hoạt ở Hà Nội.

Cách hiểu này về chữ ‘văn hóa’ quá hạn hẹp. Nó chỉ bao gồm có văn học nghệ thuật, với những tác giả nổi tiếng, với những nghệ sĩ tài cao. Nó lẫn một phần với toàn thể. Nó lẫn Paris với Pháp. Nó lẫn Hà Nội với Việt Nam. Ba khoa học mới, dần dà xuất hiện. Nhân loại học (Anthropologie), nhân chủng học (Ethnologie) và xã hội học (Sociologie) đã dọi ánh sáng vào những khía cạnh mới của ‘văn hóa’.

112. Là những sinh hoạt bình nhật của con người

Giá trị nhận thức của những sự kiện bình nhật, bình dân, thông thường, tự nhiên, vô nghĩa... đã được tỏ rõ. Bây giờ người ta ý thức rằng cách ăn uống, ngủ nghỉ của người dân quê Pháp ở thế kỷ XVII cũng dậy cho chúng ta hiểu về văn hóa Pháp không kém gì cuốn ‘Phương pháp luận’ của Descartes..

Một quan niệm mới dần dà đã được thành hình, khởi đầu từ cuối thế kỷ XIX. Nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng đã góp công vào việc nới rộng ý nghĩa của chữ ‘văn hóa’ này : E. DURKHEIM, K. MARX, C. LEVI-STRAUSS, M. MAUSS, B. MALINOWSKI, M. WEBER, P. BOURDIEU, J.C. PASSERON,...

Một nghĩa thứ hai của chữ ‘văn hóa’ đã được thành hình, khai triển, nghiên cứu và chấp nhận. Nó rộng hơn nghĩa thứ nhất. Nó bao gồm tất cả những khía cạnh ‘văn’ vẻ đã góp phần giáo ‘hóa’ con người, từ cách ăn uống, may mặc, cư trú, hành nghề, ngủ nghỉ, giao thiệp, tín ngưỡng, suy tư, ăn nói, viết lách, cười tươi, khóc thảm. Văn hóa là toàn thể những phong thái, gặp gỡ, hội họp, xã hội, liên đới... Nó bao gồm tất cả những xử sự, kiến thức, biểu lộ của con người, bình dân cũng như bác học, từ báo chí, sách vở, đến thảo luận, xuất bản, thư liệu, kiến trúc, nhạc kịch, hát ca... Tất cả những gì mà con người, dưới khía cạnh là một sinh vật xã hội, biểu lộ và sản xuất ra, cũng như tất cả những gì mà nó học được từ các thế hệ trước, cũng như những gì mà nó truyền lại cho các thế hệ sau đều là văn hóa cả. Chữ ‘văn hóa’, như vậy, hàm chứa tất cả những hành động và nghiên cứu, không chỉ giới hạn vào văn học và văn nghệ, mà còn nới rộng cả vào những lãnh vực giáo dục, xã hội, tôn giáo... nữa.

Hiểu theo nghĩa rộng thứ hai này, câu truyện giữa anh bạn tôi và tôi xoay quanh ‘Cây văn hóa Việt Nam trồng tại Giáo Xứ Paris’.

Dĩ nhiên khía cạnh Công Giáo là căn bản vì nó xừng xững đó, hiển nhiên đó. Nó là thân cây. Nhưng bên chữ Công Giáo có chữ Việt Nam. Bới sâu chữ Việt Nam, trong cụm từ ‘Việt Nam Công Giáo’, người ta tìm ra những gốc rễ sâu xa như Âu Lạc, Bách Việt, Tam giáo, Văn Minh Âu Mỹ Công giáo.

12. Gốc rễ cây văn hóa Việt Nam Tại Giáo Xứ Paris

Cây văn hóa Việt Nam tại Giáo Xứ Paris có gốc rễ sâu xa, rộng lớn và vững chắc. Đó là điều không ai có thể chối cãi được. Gốc của nó sâu đến tận rễ cái Âu Lạc, rễ cái Bách Việt, xuyên qua rễ cả Tam Giáo và rễ cả Văn Minh Âu Mỹ Công giáo.

121. Rễ Âu Lạc

Rễ Âu Lạc mang lại ba mạch sống cho cây văn hóa này.

Đó là mạch huynh đệ, tương thân tương trợ, khiến tất cả những ai đến với Giáo Xứ, giáo cũng như lương, đều tìm được một sự giúp đỡ đồng hương, đồng bào.

Mạch ‘Đức giả lạc sơn’ : người đức độ thì ưa thích (và vững chắc như) núi, noi theo tính chung thủy, đức độ của mẹ chung là Âu Cơ, dòng dõi thần tiên, đã dẫn 50 con lên núi, khiến sự tiếp đãi ở Giáo Xứ luôn luôn được trên kính dưới nhường.

Mạch ‘Trí giả lạc thủy’ : người mưu lược thì ưa thích (và biến báo như) nước, thừa hưởng được tính thông minh, biến báo của cha chung là Lạc Long Quân, dòng dõi rồng, đã đưa 50 con xuống biển Nam Hải, khiến sự tiếp xúc được hòa thuận với từng người và hòa hợp với môi trường chung quanh.

122. Rễ Bách Việt

Rễ Bách Việt chuyên chở ba chất không thể thiếu để thiết lập và nuôi dưỡng một nền văn hóa Việt Nam.

Chất "Việt tính" tạo ra tính chất độc đáo của mỗi người Việt Nam và của quốc gia Việt Nam, mà đặc biệt là tính tự lực tự cường.

Chất "Việt ngữ’, biểu diễn, gói ghém và chuyên chở những thói tục, những văn minh, những tổ chức, những kinh nghiệm từ người này cho người kia, từ nơi này sang nơi nọ, từ thời này sang thời kia. Ngôn ngữ ấy chuyên chở bốn ngàn năm văn hiến Bách Việt. Nó ghi nhận, bảo tồn và chuyển trao cho các thế hệ mai sau cái văn hóa Việt Nam chẳng những bằng lời nói mà cả bằng những ký hiệu chữ viết nữa, chẳng những trong các áng văn bình dân mà cả trong văn chương bác học nữa. Ba loại chữ viết đã xuất hiện để chuyên chở cái văn hóa Bách Việt này : chữ hán, chữ nôm và chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ dính liền với văn tự. Văn tự và ngôn ngữ dính liền với văn hóa. Không thể có văn hóa riêng biệt nếu không có văn tự và ngôn ngữ riêng biệt. Không lạ gì khi đến Giáo Xứ, người Việt Nam nào cũng nói tiếng việt, đàm đạo bằng tiếng việt. Không lạ gì khi thấy ở Giáo Xứ một thư viện tiếng việt càng ngày càng phong phú. Không lạ gì khi thấy ở Giáo Xứ phát hành những tờ báo thông tin, nghị luận bằng tiếng việt, thiết kế, sản xuất, ấn loát nhiều sách vở nghiên cứu có giá trị.

Chất ‘Việt lý’ bao gồm những cách quản lý, cách cai trị, cách tổ chức đã vậy mà còn chứa đựng những hành động, những định chế và những tổ chức. Việt lý là cách suy lý để hành động, hành động để bảo trì, phát triển và truyền thụ cái văn hóa Bách Việt cho các thế hệ con em mai sau. Suy lý và hành động làm sao để duy trì tiếng việt và làm cho nó trong sáng, làm sao để tình việt không bị lơ là, lu mò, mà càng ngày càng thân thiết, đặm đà; làm sao để tộc việt được bảo tồn và nối dõi.

123. Rễ tam giáo

Thêm vào hai cái rễ cái Âu Lạc và Bách Việt, một cái rễ cả có ba nhánh đã mang lại những sinh tố đại bổ, mà cây văn hóa Việt Nam bất kỳ trồng ở chỗ nào cũng cần đến, đó là rễ cả Tam giáo, với ba rễ nhánh Ấn Phật, Lão Trang và Khổng Mạnh.

Rễ nhánh Ấn Phật với cái nhìn hư vô về thế giới; với tứ diệu đế : khổ, dục, diệt, đạo, đã đưa cho người việt nam cách cư xử siêu thoát với thế tục, xả kỷ với mình, để từ bi với chúng sinh.

Rễ nhánh Lão Trang trình bầy cái gốc Đạo là nguyên ủy của sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Văy, sửa mình và trị nước cần phải noi theo Đạo, phải điềm tĩnh, phải vô vi, phải tự nhiên, không dùng trí lực. Tính hiếu hòa, tính an nhiên của người Việt Nam phải chăng bắt nguồn từ Đạo giáo ? Ngoài cái học thuyết cao siêu về Đạo, về vô vi ấy nơi những bậc hiền triết, Đạo giáo còn được phổ biến nơi kẻ bình dân với những cái dị đoan mê tín, những thuật tướng số, phù thủy, đi tìm sự tu luyện để được cái trường sinh bất tử.

Còn như cái rễ nhánh thứ ba là rễ Khổng Mạnh, thì cả nền luân lý xã hội của ta đều lấy sức từ đấy và qua đấy. Trong cách sống của người Công Giáo Việt Nam, tam cương : quân thần, phụ tử, phu thê vẫn được tôn kính; ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vẫn được dùng làm nguyên tắc cư xử. Chữ tam tòng không còn hợp thời lắm, nhưng chữ tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh, vẫn được nhiều phụ nữ vun trồng. Ba cái cương lãnh : minh đức, tân dân, chỉ chí thiện, vẫn luôn làm người Công Giáo lưu ý và tuân giữ. Còn như bát điền mục : cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì ai nấy vẫn cố gắng áp dụng trong các sinh hoạt và hoàn cảnh cá biệt của mình. Nhiều người đến Giáo Xứ nhận định rằng luân lý Khổng Mạnh rất rõ rệt nơi giáo hữu Việt Nam Paris.

124. Rễ văn minh Âu Mỹ Công giáo

Từ thế kỷ XV, một cái rễ cả mới được mọc ra từ cây Văn Hóa Việt Nam, đưa lại cho nó một sinh lực mới, nhờ bốn chất sống là nhân bản, thuần lý, Thượng Đế và Công Giáo. Tích cực hay tiêu cực, cái văn minh Âu Mỹ Công Giáo đã và đang ảnh hưởng mạnh vào văn hoá Việt Nam hiện đại. Cả vạn vạn người Việt Nam đã bị tử hình chỉ vì là Công Giáo trong bốn thế kỳ, từ XVI đến XIX, trong đó 117 người đã được Giáo Hội Công Giáo phong hiển thánh ngày 19-06-1988 cho thấy ảnh hưởng sâu xa của văn minh Công giáo. Tổ chức chính trị Cộng Sản là cái quái thai của văn minh Âu Mỹ vẫn đang đè nặng trên cách sống của người Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay cho thấy ảnh hưởng rộng lớn của văn minh Âu Mỹ.

Chất sống nhân bản với tiêu chuẩn rằng con người và bản tính của con người có một giá trị tuyệt đối. Tất cả phải do và vì con người. Chất sống này thổi vào ba luồng gió mới là tự do, bình đẳng và công lý. Ba luồng gió này đã một thời xáo trộn xã hội cương thường, cấp bậc và quan liêu xưa của Việt Nam.

Chất sống thuần lý với nguyên lý rằng ‘chỉ có ánh sáng tự nhiên của lý trí mới có khả năng đưa con người tiến bộ về hiểu biết, về khôn ngoan’, Lý trí, do đó, trở thành một đức tin mới. Thực nghiệm và canh tân là phương pháp và mục tiêu quan trọng. Khế ước xã hội, luật pháp là những phương tiện tổ chức của một xã hội tân tiến. Khoa học, kỹ thuật, kiến thức bách khoa là những khả năng mà ai cũng phải trau dồi. Những người Công Giáo Việt N am ban đầu, dẫu là công giáo, đã được nuôi dưỡng nhiều bằng hai chất sống nhân bản và thuần lý này. Những Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của ngày nay vẫn còn tìm thấy trong Giáo Xứ Việt Nam.

Chất sống Thượng Đế với niềm tin có một Thượng Đế duy nhất, tạo dựng đất trời vạn vật, đã giúp cho luân lý Tam giáo, đặc biệt là Khổng giáo có một cơ sở siêu hình học vững chắc. Thượng Đế ấy là Cha nhân từ và toàn năng đã dựng nên trời đất muôn loài, trong đó có con người. Lạm dụng tự do, con người đã chống lại Thượng Đế và đã đi vào đường lầm lạc tội lỗi. Để cứu chuộc nhân loại, Thượng đế ấy đã giáng sinh nhập thể, đã chịu nạn khổ hình, chết trên thập giá, và đã phục sinh, rồi lên trời. Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế để phán xét kẻ dữ người lành. Thượng Đế ấy, từ muôn đời và cho đến muôn đời, vẫn sống với nhân loại bằng sự hướng dẫn soi sáng của Thánh linh. Qua sự giáng sinh nhập thể, Thiên Chúa đã lập Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, vững bền. Qua Ngôi Hai nhập thể, ngôi Ba Thánh Linh và Giáo Hội, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết rằng nó được tạo thành với một thân xác có thể hư nát và một linh hồn bất tử. Thân xác này sẽ sống lại. Con người tội lỗi sẽ được tha thứ, nếu nó biết ăn năn hối cải.

Chất sống Công Giáo làm cho niềm tin Thượng Đế được thực hiện một cách sống động, thực tiễn và hàng ngày, qua bốn sinh hoạt căn bản là giáo lý, phụng vụ, bí tích và mục vụ. Giáo lý là trau dồi đức tin bằng việc học hiểu thần học, đặc biệt là về tín lý, tức là những điều phải tin và về luân lý, tức là những việc phải làm. Phụng vụ là biểu lộ đức tin qua việc cử hành các lễ nghi hàng ngày, như việc đọc kinh sáng tối; hàng tuần, như việc dự lễ chúa nhật; hàng tháng, như việc chầu thánh thể, giờ thánh đầu tháng; hàng năm, như việc xưng tội rước lễ tối thiểu, việc cử hành các lễ nghi năm phụng vụ, bắt đàu từ mùa vọng, giáng sinh, qua đến mùa chay, phục sinh,.. Bí tích là sự thực hiện đức tin công giáo bằng việc lãnh nhận cho chính mình và cử hành, tham dự với cộng đoàn các bí tich, từ rửa tội, giải tội, rước lễ, thêm sức, đến hôn phối, truyền chức thánh, xức dầu thánh. Mục vụ là tuyên xưng đức tin bằng những việc làm tông đồ sống động, từ những việc thông thường, như tham dự vào các hoạt động công giáo tiến hành, đến bhững việc khác thường, như hộ giáo, thuyết giáo, hoặc phi thường, như tuẫn giáo, tử đạo. Hơn 130 000 người công giáo Việt Nam đã được ơn thực hiện cái hành động phi thường tử đạo dưới triều Lê, Trịnh Nguyễn (1580-1747), triều Tây Sơn (1777-1802), triều nhà Nguyễn (1802-1867) và thời Văn Thân (1862-1885).

Nếu về phương diện luân lý, nhiều điều đã thấy ở trong tam giáo, thì về phương diện xã hội, giáo dục và văn học, cả là một cách mạng lớn. Thiên Chúa giáo và đặc biệt là Công Giáo đã góp vào văn hóa Việt Nam ba nét độc đáo. Nét độc đáo thứ nhất là sự tổ chức : có văn bản, có đoàn nhóm để sống đức tin và làm việc tông đồ mục vụ. Nét độc đáo thứ hai có tính cách giáo dục : sự ôn tập giáo lý, suy gẫm lời Chúa, cầu nguyện với thánh kinh, học hỏi thần học, sống đạo với bí tích, hành đạo với phụng vụ. Nét độc đáo thứ ba, căn bản và quan trọng hơn cả. Dó là việc mà Công giáo đã tìm ra cho văn hoá Việt Nam một dụng cụ mới là chữ quốc ngữ, nhờ đó, văn hoá Việt Nam mở ra với văn hoá Âu Mỹ và văn minh toàn cầu. ‘Ba nền văn học lần lưột đã xuất hiện tại Việt Nam : Văn học chữ hán, từ thế kỷ X đến XX, văn học chữ nôm, từ thế kỷ XIII đến XX, và văn học chữ quốc ngữ, từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay, thành độc tôn. Văn học chữ quốc ngữ đã được văn hoá Công Giáo giúp sức nhiều hơn cả. Chữ quốc ngữ đã được các linh mục Âu châu sáng chế ra với sự cộng tác tích cực của các giáo hữu Việt Nam. Ba người được biết đến nhiều hơn cả, trong những bước đầu của văn học quốc ngữ, là cố Alexandre de RHODES (1591-1660), ông Pétrus TRƯƠNG VĨNH KÝ (1837-1887) và ông Paulus HUỲNH TỊNH CỦA (1834-1907).

Xem như vậy thì quả thật gốc rễ của cây văn hóa Việt Nam trồng tại Giáo Xứ Việt Nam rất là sâu xa, rộng lớn và vững chắc. Với hai rễ cái là Âu Lạc và Bách Việt, cây văn hóa có gốc là việt tộc và việt tính. Với cái rễ cả tam giáo, cây văn hóa này đâm sâu vào văn minh Á châu, hút lấy những nhựa sống của một cách sống xả kỷ, an nhiên và của một thuật xử thế đức trị. Với cái rễ văn minh Âu Mỹ Công Giáo, cây văn hóa Việt Nam lan rộng ra khắp hoàn vũ, hút lấy những chất sống nhân bản, hữu lý, hữu thần và đạo giáo.

(Còn tiếp)