QUAN HỆ MẸ CON : những bài học đầu tiên của cuộc sống (Tiếp Theo)

3. KỸ NĂNG HỌC TẬP VÀ KHÁM PHÁ

3.1. Vấn đề học tập chủ yếu trong giai đoạn này là ý thức và hiểu biết về tính chất thường tồn của sự vật và con người.

* Trẻ em đi tìm những đồ chơi đã biến mất.

* Trẻ em yêu thích những trò chơi trốn tìm.

* Trẻ em liệng xa đồ vật, để người lớn lượm lại cho mình.

* Trẻ em phân biệt người lạ người quen và có phản ứng lo sợ trước người lạ mặt : "Sự hiện diện của một khuôn mặt xa lạ nhắc cho em sự vắng mặt của mẹ, có thể hay là đã xảy ra", cho nên trẻ em có phản ứng lo sợ.

* Đồng thời trẻ em bắt đầu có khả năng hiểu biết về nguyên lý nhân quả.

Để tạo điều kiện cho trẻ em có thể chấp nhận những hoàn cảnh “xa lìa tạm biệt” như vậy, bậc cha mẹ cần chuẩn bị cho trẻ em về vấn đề ra đi của mình.

a/ Thông báo trước cho trẻ em hay ngày giờ và lý do vắng mặt của mình.

b/ Lúc có mặt trở lại, chúng ta cũng cho trẻ em hay.

c/ Trong những lúc sống và tiếp xúc với trẻ em, tổ chức những trò chơi trốn tìm, thu giấu đồ vật sai trẻ em đi lấy những vật dụng ở phòng kế cạnh.

d/ Khi giao phó trẻ em cho một người lạ, chúng ta cần chọn những người nào biết tiếp xúc, gần gũi với trẻ em, trao đổi bằng liếc nhìn, và cư xử một cách dịu dàng, cẩn trọng.

e/ Nếu vì lý do công việc, chúng ta phải xa lìa trẻ em hằng ngày, chúng ta cần tìm ra những cơ hội để bù trừ sự vắng mặt ấy.

f/ Yêu cầu những người ngoài gia đình thậm chí ông bà nội ngoại hay bà con cô bác đừng quá vội vã bồn chồn, muốn ôm ẵm trẻ em khi gặp gỡ.

Trái lại, hãy dành cho trẻ em thời giờ làm quen, tiếp cận.

Không tạo những “chuyển tiếp” như vậy, chúng ta sẽ được trẻ em kết nạp vào loại người “vi phạm lãnh thổ”; và các em sẽ tỏ ra những thái độ dè dặt, sợ sệt hoặc từ khước.

g/ Thay vì áp đặt cho trẻ em những điều lệ hoặc qui luật, chúng ta cần dành thì giờ để giải thích cho trẻ em hiểu lý do, nguyên nhân hoặc thể thức làm.

h/ Khi có những cấm đoán, chúng ta cũng cần có một thái độ tương tự : giải thích tại sao một cách ngắn gọn, với ngôn ngữ đơn sơ, thích hợp với trình độ.

Về lâu về dài, thái độ và thể thức làm như vậy sẽ tạo niềm tin và quan hệ tình cảm vững chãi cho trẻ em. Bằng không, độ một vài tháng sau này, khi trẻ em có kỹ năng ngôn ngữ, các em sẽ lặp đi lặp lại mãi hoài câu hỏi “tại sao?”, mà không ai có thể thỏa mãn các em.

i/ Trên bình diện tâm bệnh, vì nhu cầu an toàn nội tâm, một số trẻ em có khuynh hướng lặp đi lặp lại mãi hoài một hành vi, một câu nói. Thuật ngữ tâm lý gọi đó là tác phong “Nhai lại”.

Lý do sơ khởi của hành vi và tác phong “nhai lại” là trở về với một hoàn cảnh trong đó, trẻ em đã tìm gặp một phần nào cách làm thỏa mãn vấn đề lo sợ của mình. Nhưng, trong điều kiện hiện thời, câu trả lời ấy không còn thích ứng.

3.2. Ý thức về giới hạn hành động hay là ý thức về hoàn cảnh nguy cơ, hiểm nghèo

Bài học này phải bắt đầu từ lúc trẻ em có khả năng trườn, bò, di chuyển, vận động. Hơn ai hết, chính bà mẹ hoặc những người thay thế bà mẹ là người có khả năng và trách nhiệm giúp trẻ em hội nhập và nội nhập bài học này.

Hai yếu tố hoặc 2 điều kiện gần như “bẩm sinh”; nghĩa là có mặt một cách tự nhiên, giúp trẻ em tiếp thu và hội nhập bài học này.

Yếu tố 1 : Trẻ em cảm thấy bất ổn. Đây là một tình cảm, cảm xúc, nói được là một ý thức mơ hồ, chưa được xác định, thuộc địa hạt cảm thức.

Yếu tố 2 : Trẻ em đưa mắt nhìn mẹ để tham khảo ý kiến

“con làm được hay không?

“con có thể đi tới hay là rút lui?

Không có ai để trả lời câu hỏi chính lúc ấy, nhiều tai nạn có thể xảy ra, nếu hoàn cảnh có tính nghiêm trọng.

Nếu có bà mẹ đáp trả bằng liếc nhìn cổ võ hay là cấm đoán, đứa trẻ sẽ từ từ nội nhập “câu trả lời và sự có mặt của bà mẹ” khi có hiểm nguy.

Sau này, khi đã có ý thức ấy, mặc dù bà mẹ vắng mặt, đứa trẻ sẽ có khả năng rút lui nếu cảm thấy bất ổn.

Tình cảm bất ổn ==> dừng lại hỏi ý kiến = Đánh giá (mắt mẹ).

Nếu tình cảm bất ổn ==> Rút lui.

Chính Robert Emde đã giúp chúng ta thấy sự chuyển biến của một phản xạ lo âu thành phản ứng khôn ngoan, đánh giá mình, trung gian liếc nhìn của bà mẹ.

Tác giả này đã tổ chức một thí nghiệm sau đây :

Trên một mặt bằng làm bằng kính, trẻ em có thể trườn bò, di động.

Khi bò tới một khoảng chừng vài mét, trẻ em có thể, qua mặt kính nhìn thấy một hố sâu ở bên dưới.

Trẻ em từ 612 tháng sẽ dừng lại, đưa mắt nhìn mẹ ở bên kia “hố thẳm”. Nếu mặt mẹ vẫn tươi cười, trẻ em sẽ can đảm bò tới. Nếu mẹ tỏ ra sợ hãi, cấm đoán, trẻ em sẽ rút lui.

Thí nghiệm này cho ta thấy :

a/ Trẻ em đã có thể hiểu biết thái độ tình cảm và ước muốn của bà mẹ, khi nhận thấy diện mạo, điệu bộ và những dấu hiệu khác của bà mẹ.

b/ Dựa vào ý kiến của bà mẹ, các em có thể có những quyết định hành động tiến tới hoặc rút lui.

3.3. Ý thức và hình ảnh về mình : Tích cực hoặc tiêu cực

Trước khi bắt tay vào một hành động, một số trẻ em, vào khoảng 8 hoặc 9 tháng, đã cho chúng ta biết thái độ và cảm thụ của mình thế nào :

Tích cực, thích khám phá, tò mò kiên định, hãnh diện về kết quả.

Tiêu cực, sợ thất bại, khước từ, bực bội, bỏ cuộc nửa chừng, bất cố, nhảy từ cái này qua cái nọ.

Thái độ và thể thức hoạt động như vậy biểu lộ một hình ảnh về mình.

Tích cực, tự tin, ý thích muốn học hỏi và khám phá.

Tiêu cực, cảm thức bất lực, sợ thất bại, không dám mạo hiểm tìm tòi.

Trong đa số những trẻ em chậm phát triển, vấn đề “ý thức về mình một cách tiêu cực” hay là “hình ảnh tiêu cực về mình” làm cho tình trạng mỗi ngày càng thêm trầm trọng.

Theo D. Winnicott, ý thức về khả năng của mình đã được phát triển theo một trình tự như sau :

Giai đoạn 1: trẻ em cảm thức một nhu cầu

Giai đoạn 2: Nhu cầu làm nẩy sinh một ý thích được thỏa mãn

Giai đoạn 3: trẻ em mơ tưởng đối tượng làm cho mình thỏa mãn

Giai đoạn 4: Trẻ em bộc lộ ra ngoài ước mong của mình

Giai đoạn 5: Bà mẹ đem đến cho em chính điều em đã mơ tưởng

Giai đoạn 6: Ý thức đến tính cách ở ngoài của đối tượng, nhưng mình có khả năng hoặc đi tìm hoặc yêu cầu kẻ khác làm cho mình.

Ý thức về khả năng sẽ bị tổn thương trong những hoàn cảnh sau đây :

a/ Mẹ trả lời quá sớm, trước khi đứa con mơ tưởng, hình dung đối tượng và bộc lộ ra ngoài.

b/ Mẹ trả lời quá chậm : trẻ con đã khóc la, nhưng không ai động chuyển. Dần dà trẻ em có một ý niệm tiêu cực và bi quan về cuộc sống.

c/ Mẹ trả lời không thích ứng : "con dao 2 lưỡi". Cho nên trẻ em sinh ra nghi kỵ.

d/ Mẹ trả lời “chấp cố, chấp thủ” không ý thức đến giai đoạn phát triển của trẻ em.

e/ Mẹ trả lời tùy hứng, bốc đồng: Trẻ em không thể hiểu biết và dự đoán.

Trong quan điểm ấy, ý thức về mình hoặc hình ảnh tích cực bao gồm 4 yếu tố:

y.t.1 : Tôi có khả năng

y.t.2 : Tôi là một nhân vật quan trọng, có giá trị

y.t.3 : Tôi có xác tín như vậy : Tự tin

y.t.4 : Tôi biết về giới hạn của tôi : khi nào có thể, khi nào không.

Hình ảnh và ý thức tích cực về mình là trọng tâm và cơ bản của công cuộc giáo dục và dạy dỗ. Bao lâu, chúng ta chưa thành công trong việc kiện dựng một hình ảnh tích cực về mình nơi trẻ em, chúng ta phải can đảm xét lại toàn bộ tư tưởng và phương pháp giáo dục của chúng ta.

3.4. Ngôn ngữ của trẻ em

Trong vòng 4 hoặc 5 tháng này, trẻ em càng ngày càng phát âm, khi tiếp xúc với người lớn, cũng như khi chơi một mình. Phát âm trở thành một trò chơi rất hấp dẫn đối với các em.

Những âm thanh như Ba, Má, đã thường được lặp đi, lặp lại, hay là được trẻ em sử dụng để gọi kẻ khác.

Có trẻ em dùng âm “ê, ê...” để tiếp xúc hay là kêu người lớn.

Dù phát âm rõ ràng hay không rõ ràng, đa số trẻ em lên 8 hoặc 9 tháng đều hiểu rõ giá trị truyền đạt, giao tiếp của các âm thanh. Thay vì khóc la, các em đã biết diễn tả tâm tình của mình qua âm thanh.

Hiểu biết cơ bản của trẻ em là nhận thức về vai trò dấu hiệu của một số âm thanh. Ví dụ mỗi buổi chiều, tiếng máy xe hay là tiếng động của bước chân tạo nên một phản ứng vui mừng vì các em hiểu : Đó là dấu hiệu “Ba đi làm về.

4. NHỮNG XUNG ĐỘT MẸ CON CẦN XA LÁNH VÀ ĐỀ PHÒNG

Vì lý do thực tập những kỹ năng mới như trườn bò, đứng đi, trẻ em trong lứa tuổi này rất dễ bị kích thích và căng thẳng. Nhiều trẻ em có phản ứng “khó ăn, khó ngủ”. Các em thích vận động, hơn là ngồi yên để ăn. Ở trong giường, các em mải mê đứng lên, ngồi xuống, vận động trườn bò... thay vì nằm yên để chờ giấc ngủ.

Vì lo âu, nhiều bà mẹ đã trở nên căng thẳng, có thái độ cưỡng ép con ăn và ngủ. Nguyên nhân những xung đột mẹ con đã đâm chồi nẩy lộc trong hai địa hạt ăn và ngủ này.

Thái độ lành mạnh là không quan trọng hóa cũng như không tạo nên những xung đột. Khi trẻ em tỏ ra có vấn đề ăn và ngủ sau một vài tuần, những vấn đề này sẽ không còn lý do tồn tại, nếu bà mẹ đã không biến làm đề tài căng thẳng xung đột giữa mẹ và con.

Nhiều bà mẹ đã đặt vấn đề “vệ sinh tiểu tiện và đại tiện” vào giai đoạn này. Theo thiển ý của tôi, đây là ảnh hưởng méo mó của sách vở và văn minh Âu Tây. Một bà mẹ mộc mạc người Việt Nam sẽ biết chắc rằng : Đặt vấn đề như vậy là quá sớm, không cần thiết.

CHƯƠNG 1.4 TRẺ EM TỪ 12 ĐẾN 18 THÁNG

1. Những kỹ năng trong giai đoạn này :

1.1. Trẻ em bắt đầu biết đi chập chững.

1.2. Mặt vận động và trí năng :

* Dùng bốn hình khối lập phương đặt để trên nhau, để xây một tầng tháp.

* Có thể tìm ra một đồ chơi được cất giấu và chuyển vận 2 lần.

Như vậy, trẻ em có kỹ năng này là có khả năng hiểu biết về tính chất thường tồn của sự vật.

* Có khả năng hình dung và tưởng tượng cũng như dùng vật này để thay thế vật khác.

Ví dụ : dùng một thanh gỗ nhỏ để làm bình sửa cho em bú.

* Bắt đầu hiểu biết về quan hệ Nhân quả giữa 2 sự vật. Cho nên trẻ em thích khám phá tìm hiểu. Vì tò mò, nên trẻ em thích đụng đến, cầm lấy mọi đồ vật.

1.3. Trong lãnh vực trò chơi

Trẻ em chơi bên cạnh nhau : chơi song song.

Nhưng chưa có trò chơi hợp tác : cùng làm với nhau, chơi một trò chơi với nhau

Tuy nhiên, nhờ chơi bên cạnh nhau, các em có thể học cách chơi của những trẻ em lớn hơn : CHƠI NHƯ NHAU.

1.4. Trong lãnh vực “sơ đồ thân thể”

* Trẻ em 1 năm nhìn vào tấm gương tỏ ra bỡ ngỡ nhìn “cái mũi có tô son đỏ”.

* Trẻ em 15 tháng, đưa tay đụng vết son đỏ trên mặt tấm gương.

* Trẻ em 18 tháng : biết đưa tay lên mũi của chính mình để lau vết son.

1.5. Ngôn ngữ :

Trong lứa tuổi này, trẻ em có khả năng hiểu những mệnh lệnh đơn sơ thông thường. Chúng ta có thể bảo một trẻ em đi lấy một vật dụng ở một nơi khác trong nhà.

Khi chơi một mình, trẻ em thường huyên thuyên dài dòng, có cung điệu trầm bổng, phát ra những âm thanh. Nhưng trong những câu nói ấy, chưa có một từ nào rõ rệt, ngoại trừ : Ba, má, bé, không...

Mặc dù chưa nói được thành lời, nhưng qua cử điệu, trẻ em có thể diễn tả để người lớn hiểu được em muốn cái gì. Ví dụ trẻ em có thể đưa tay chỉ điều mình muốn. Nói tóm lại, từ những cơ bản trao đổi, tiếp xúc ấy, dần dần trẻ em sẽ đưa vào những từ càng ngày càng rõ rệt. Và số từ càng ngày càng gia tăng.

Để giúp trẻ em tiếp thu dễ dàng, người lớn dùng câu đơn sơ, thường lặp lại những từ quan trọng.

Khi trẻ em phát âm sai, thay vì sửa chữa, chúng ta có thể dùng câu hỏi để kiểm tra: "Con nói gì mẹ không hiểu. Con nói “con gà” phải không? À con gà kêu : o, o, ò". Để giúp trẻ em học nói, chúng ta nên bắt đầu bằng tiếng chim kêu, gà gáy, để các em học tập phát âm.

Vào tuổi này, trẻ em thích nghe những mẫu chuyện đơn sơ thông thường.

2. Đa số trẻ em ở lứa tuổi này đều có tác phong hiếu động :

* đụng tay vào mọi đồ vật, nhưng chưa tập trung chú ý vào một cái gì lâu dài.

* dễ bị kích thích.

* không có khả năng chọn lựa một đối tượng kích thích và khước từ tạm thời hoặc bỏ qua một bên những đối tượng khác.

Vấn đề giáo dục, là hạn chế lượng số những yếu tố kích thích, để giúp trẻ em kéo dài khả năng tập trung chú ý của mình.

3. Những cơn tức giận và la ó rộn ràng : Thái độ khước từ và bất tuân

Khi trẻ em đi vào lứa tuổi từ hơn 1 năm đến 2 năm rưởi, không khí giáo dục rất căng thẳng. Ba lý do chính yếu :

Lý do 1. Trẻ em bắt đầu phân biệt Mình và Người. Cho nên, để chứng minh quyền tự lập và tự chủ của mình, trẻ em muốn khước từ ý kiến và lời đề nghị của kẻ khác.

“Chấp Ngã” : Thái độ qui ngã có một chức năng tích cực trong vấn đề giáo dục. Phát huy nhân cách vừa được ý thức một cách rất sơ phác và thô thiển.

Lý do 2. Trẻ em bắt đầu hình dung và tưởng tượng. Đồng thời, các em bắt đầu có ý niệm : những gì biến mất, không thấy không phải là không còn, nhưng vẫn còn. Trên bình diện xã hội, các em bắt đầu va chạm với những qui luật và giới hạn hành động.

Để hội nhập và nội nhập những qui luật ấy, trẻ em cần chứng nghiệm và khám phá :

“Cái gì làm được,

“Cái gì làm không được”.

Sở dĩ trẻ em thường xuyên có ý đồ thách thức, làm ngược lại, hay là trốn thoát khỏi tầm kiểm soát của người lớn, là vì các em muốn học tập về những giới hạn và quyền năng của mình.

Lý do 3. Trong khi trẻ em thuộc lứa tuổi này chung sống hay là chơi chung với nhau trong một môi trường, có nhiều hiện tượng tranh chấp, giằng co, xung đột, đụng chạm, đánh lộn nhau.

Khí cụ để đấu tranh và tự vệ ở tuổi này là những chiếc răng. Cho nên có những trẻ em hay cắn những trẻ em khác.

Vì những lý do ấy, cha mẹ thường nêu lên vấn đề kỹ luật và trừng phạt trong giai đoạn này.

4. Học tập về kỷ luật và vấn đề quyền uy :

Để có thể có thái độ và hành động thích ứng trong lãnh vực kỷ luật và quyền uy, chúng ta cần quán triệt một cách sâu xa những nguyên lý cơ bản sau đây :

Nguyên lý 1 : Căn bản của hành động giáo dục, trong đó có vấn đề sửa phạt, là tình thương và tâm thần an lạc, bình thản.

Trong những điều kiện bực bội, khắc khoải, lo âu, giận dữ, căng thẳng, chúng ta không thể có thái độ và hành động thích ứng trong lãnh vực giáo dục. Trong những hoàn cảnh như vậy, “không làm” có ích và có lợi hơn là “làm”, vì áp lực của những tình cảm lo buồn, bực tức... có thể gây nên những lệch lạc đáng tiếc trong cách thế phản ứng và xử lý chúng ta.

Nguyên lý 2 : Mỗi tác phong của trẻ em, cho dù tiêu cực đến độ nào cũng có một phần vụ tích cực, nhằm diễn tả và nhắn gởi cho ta một điều gì.

Vào lứa tuổi 2 năm, một trẻ em chưa có khả năng nói một cách rõ ràng những điều em ước mong và suy nghĩ. Tác phong là một loại ngôn ngữ, diễn bày một lời nhắn gửi. Chúng ta hãy học tập lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa và trả lời một cách thích đáng, thay vì có phản ứng bốc đồng, vội vã, dưới áp lực của một tình cảm đau buồn, lo hãi.

Nguyên lý 3 : Tìm hiểu ý nghĩa trước khi hành động, để cách thế phản ứng và giải quyết của chúng ta có 3 tính chất sau đây :

Hợp lý

Hợp tình

Hợp cảnh

Tính chất thứ 1 là hợp lý : Trước khi hành động như trên đây chúng ta đã nói tới, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu phần vụ tích cực trong thái độ và hành vi của trẻ em. Thêm vào đó, chúng ta cần xác định rõ ràng cấp độ phát triển của trẻ em, để tránh những lề lối giải thích lệch lạc.

Tính chất thứ 2 là hợp tình : Lề lối xử thế hay là phản ứng của chúng ta là phải đáp ứng nguyện vọng cơ bản của trẻ em. Vào lứa tuổi 2 năm, đa số trẻ em có thái độ và hành vi chống đối, như chúng ta đã thấy trên đây, thứ nhất là vì các em muốn tìm hiểu giới hạn thực sự của mình là gì. Thứ hai là các em muốn trắc nghiệm hay là xem thử người lớn như cha mẹ có quan hệ thế nào với mình : thương hoặc ghét.

Tính chất thứ 3 là hợp cảnh : khi đụng chạm đến vấn đề kỷ luật và sửa phạt, chúng ta không thể cố chấp, áp dụng một cách máy móc và bất di dịch một nguyên tắc sẵn có. Trẻ em trước mắt chúng ta là một con người xương máu cụ thể.

Để hiểu rõ một hành vi “bất tuân” và để đối trị hành vi bất tuân ấy, chúng ta không thể làm ngơ, bỏ qua những điều kiện sinh sống hiện tại của trẻ em, cũng như tình trạng tâm lý và sinh lý của em.

Duy chữ “không” cũng có rất nhiều ý nghĩa tùy trường hợp.

Nguyên lý 4 : Sau hết trong vấn đề kỷ luật và sửa phạt, chúng ta không thể bốc đồng, tùy tiện hoặc tùy hứng. Để công việc dạy dỗ mang lại kết quả, chúng ta phải xác định rõ ràng mục tiêu của chúng ta là gì. Mục tiêu ấy có thực hiện được không? Có những khó khăn nào xảy ra nếu chúng ta thành đạt mục tiêu. Điều nào quan trọng nhất ?

Nhiều người lớn, bậc cha mẹ, vì thiếu mục tiêu rõ rệt, cho nên có khuynh hướng kiểm soát tất cả, can thiệp tối đa. Nhưng vì thiếu đắn đo, cho nên họ dễ bỏ cuộc, đầu hàng nhanh chóng.

Theo D. Stern thể thức phản ứng của chúng ta trước một hành vi của trẻ em, chỉ hữu hiệu chừng nào phản ứng ấy là một hành vi có tính hòa ứng.

Hòa ứng có nghĩa là phản ánh tác phong bên ngoài, đồng thời cũng phản chiếu những sinh hoạt nội tâm, đặc biệt là những tình cảm và xúc động đang có mặt bên trong.

Vì thiếu hòa ứng, đa số lề lối sửa phạt và dạy dỗ đều trật đường rầy hay là “lạc đề”, cho nên không có kết quả thực sự tích cực !

***

CHƯƠNG 1.5 TRẺ EM 2 TUỔI 3 TUỔI

1. Những đặc điểm cần ghi nhận và quan sát

1.1. Khả năng bắt chước điệu bộ của cha mẹ.

1.2. Khả năng đồng hóa với người cha mẹ cùng phái.

1.3. Phản ứng chống đối, ý thích độc lập, tự lập.

Ngược lại, những trẻ em còn có tác phong bám sát, lệ thuộc cha mẹ, không muốn hay là thiếu khả năng tự lập trong vấn đề vui đùa : Đó là vấn đề báo động cần được chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và tìm phương cách đối trị.

2. Dấu hiệu của những trẻ em lành mạnh :

2.1. Tự tin :

Chơi một mình.

Tò mò, thích khám phá, tìm kiếm.

Thích những trò chơi mới lạ.

2.2. Điệu bộ vững vàng, thích hợp với hoàn cảnh vì có sự phối hợp quân bình giữa tay, chân và mắt.

2.3. Ngôn ngữ :

Biết chào, từ chối, gọi tên một số đồ vật quen thân.

Giọng điệu êm đềm và thích ứng.

2.4. Ý thức về phái tính của mình và có tác phong đồng hóa với người cha mẹ cùng phái.

2.5. Biết sử dụng một cách dứt khoát và tự nhiên phía mặt hay trái trong các cử điệu thông thường như bắt tay, cầm muỗng, đồ chơi. Vào tuổi này, nếu mặt trái chưa ổn định, cử điệu của trẻ em sẽ còn vụng về không vững vàng.

3. Những kỹ năng về mặt trí tuệ cần được nghiên cứu và quan sát kỹ lưỡng :

3.1. Trong các trò chơi, trẻ em vận dụng một cách tự nhiên.

Khả năng hình dung những cảnh tượng trong cuộc sống hằng ngày.

khả năng bắt chước người khác.

khả năng phân biệt nam nữ.

khả năng hiểu biết về nguyên nhân của hành động.

khả năng hiểu biết về mục đích của hành động và chức năng của một số dụng cụ.

khả năng giả vờ làm người này, hoặc người kia hay là dùng một vật để thay thế vật khác.

khả năng tổ chức hoặc xếp đặt các yếu tố theo một thứ tự thời gian và không gian.

3.2 Khi tiếp xúc hoặc sử dụng những trò chơi, trẻ em đã tỏ ra có khả năng thực thi những cử điệu và vận động rất tinh vi và thích ứng, ở đầu ngón tay, nhất là 2 ngón tay cái và tay trỏ để cầm các đồ vật.

Khi trẻ em thuộc lứa tuổi này còn thiếu những vận động vi tế này hay là còn vụng về khi đưa tay tìm nắm các đồ vật, chúng ta cần tìm hiểu về thực trạng của hệ thống thần kinh, nhất là những chấn thương não bộ.

3.3. Trong thể thức tiếp thu, sử dụng và hiểu biết về các tin tức do môi trường cung cấp, chúng ta cần ghi nhận những phản ứng sau đây :

a/ Một số trẻ em như vượn chuyển cành, thiếu ổn định và tập trung tư tưởng : các em đụng đến mọi đồ chơi nhưng không có khả năng tổ chức một trò chơi ổn định với bất cứ vật dụng nào. Đó là những trẻ em hiếu động.

b/ Một số trẻ em quá nhạy cảm : kích thích càng nhiều, những trẻ em này càng rối loạn không thể tập trung chú ý vào một đối tượng.

c/ Một số trẻ em dễ bỏ cuộc, bởi vì không có khả năng hiểu biết, những liên hệ giữa hai yếu tố, nhất là những liên hệ về không gian trong những trò chơi ghép hình, chẳng hạn.

d/ Một số trẻ em trong số này không có khả năng định hướng trong các vận động chân tay. Nghĩa là cả hai tay đều hoạt động một cách lộn xộn, thiếu tổ chức. Cho nên cách thức giải quyết không được hữu hiệu.

3.4. Nếu chúng ta để ý quan sát thể thức hoạt động của những trẻ em này, chúng ta có thể ghi nhận những đặc điểm sau đây :

a/ Khi thực hiện một công việc, trẻ em loại này không tỏ ra hứng thú và thoải mái.

b/ Thời gian để hoàn thành công việc, có khi kéo dài gấp 2 lần, so với kết quả của những trẻ em khác.

c/ Những trẻ em này thường bỏ cuộc nửa chừng.

d/ Trẻ em loại này dùng mọi thủ thuật để thoái thác khước từ công việc do người lớn đề nghị.

3.5. Thể thức đối trị

a/ Đừng bao giờ gây áp lực hay là la rầy, sửa phạt. Trái lại chúng ta cần nâng đỡ, vì những trẻ em này đang có những khó khăn trong vấn đề thu nhận và hiểu biết.

b/ Tìm những lúc bình lặng, yên ổn để sinh hoạt và dạy dỗ.

c/ Đừng dùng quá nhiều dữ kiện hay là nhiều loại kích thích cùng một lúc. Khi nói, chúng ta không dùng bộ điệu. Khi nhìn chúng ta không dùng lời nói.

d/ Chỉ bày thể thức thực hiện theo từng giai đoạn, từ dễ đến khó.

e/ Trước mỗi giai đoạn, dành thì giờ để trẻ em có thể nghỉ ngơi, giải trí.

f/ Khi làm việc, chúng ta phải tôn trọng vận tốc và nhịp điệu của từng em.

g/ Chọn những công việc, để trẻ em có thể dám làm và thành công.

Khi trẻ em thành công, chúng ta phải tức khắc tán dương, bằng cách giải thích nhờ vào đâu em đã thành công.

4. Lãnh vực ngôn ngữ

Trẻ em 2 tuổi có thể sử dụng động từ và tính từ trong các câu nói hằng ngày.

Đi chợ

Áo đẹp...

Trẻ em có thể hiểu và thực hiện những mệnh lệnh bao gồm 3 yếu tố : đi tìm một vật, mang ra, và đặt lên bàn.

Nhiều trẻ em không nói, nhưng có khả năng diễn tả ý muốn của mình một cách rõ ràng bằng cử chỉ, điệu bộ... Theo các nhà chuyên môn về tâm lý và ngôn ngữ trẻ em, những trẻ em có khả năng truyền đạt bằng cử điệu, sẽ có khả năng diễn tả bằng lời nói. Các em không phải là những trẻ em chậm phát triển về mặt trí tuệ.

Trong những trường hợp như vậy, người lớn nên cổ võ ngôn ngữ :

“Mẹ hiểu con muốn cái gì. Nhưng con hãy thử nói ra cho mẹ nghe: con muốn gì? Có phải con muốn chiếc ôtô không? Con nói đi : ôtô.

Nói đi, rồi mẹ đưa cho!"

Có nhiều nguyên nhân gây nên sự chậm phát triển về ngôn ngữ :

a/ Vấn đề “khó nghe, hay là không nghe”.

b/ Những trẻ em quá được nuông chiều. Cha mẹ đã tạo nên mọi dễ dàng. Trẻ em không cảm thấy cần nói để được thỏa mãn.

c/ Trong nhà có nhiều anh chị và những anh chị này quá nuông chìu đứa em.

d/ Cha mẹ dùng 2 ngôn ngữ cùng một lúc trong đời sống hằng ngày. Trẻ em cần nhiều thời giờ hơn để phát âm, vì trong 2 ngôn ngữ, có nhiều âm cần khắc phục trước khi sử dụng.

***

CHƯƠNG 1.6 TRẺ EM 3 TUỔI 6 TUỔI

1. Những phản ứng chống đối, khước từ của lứa tuổi 2 năm đã bắt đầu lắng dịu.

2. Sau ba tuổi, trẻ em bắt đầu ý thức đến Phái tính của mình : chúng ta cần lưu tâm đến 3 hiện tượng :

* Các em tò mò, khám phá bộ phận sinh dục của mình và nơi người khác : trẻ em cũng như người lớn.

* Có thể có những hành vi thủ dâm trong giai đoạn này.

* Trong cuộc sống hằng ngày, bắt chước và gắn bó một cách đặc biệt vào người cha hoặc người mẹ, và lơ là tạo khoảng cách với một trong hai người.

Trong lãnh vực này, thái độ lành mạnh của cha mẹ :

* đừng quá phân vân và gây những áp lực, cấm đoán khắt khe.

Vì thái độ cấm đoán, chúng ta có thể biến một phản ứng bình thường, nhất thời thành một tập quán chùng vụng.

* đừng có những bình phẩm hoặc giải thích tiêu cực, khi trẻ em không tỏ ra thái độ quyến luyến và gắn bó với mình.

“Nó ghét tôi

“Nó không thèm để ý đến tôi...”

* Điều cấm kỵ là sửa phạt hoặc tức giận vì có cảm tưởng mình bị “bỏ rơi, từ khước”.

* Tìm mọi cách và mọi cơ hội để tiếp xúc, trao đổi, chuyện trò, chơi đùa và sẵn sàng trả lời khi trẻ em đưa ra những câu hỏi có liên hệ đến phái tính và liên lạc nam nữ.

Câu trả lời một đàng phải thực, một đàng phải vắn gọn, thích hợp với lứa tuổi.

Vào giai đoạn này, nội dung, không quan trọng bằng lề lối và chất lượng trao đổi.

3. Trong lãnh vực xã hội, vào lứa tuổi này trẻ em cần tiếp xúc với các trẻ em cùng lứa tuổi.

* Mục tiêu là để có kinh nghiệm về lề lối tiếp xúc, cư xử của các bạn cùng tuổi, đặc biệt, trong vấn đề tranh chấp, xung đột, thương lượng.

* Điều tối quan trọng, trẻ em cần học tập vào lứa tuổi này là biết chia sẻ những gì mình có, với bạn bè.

Có những trẻ em khi gặp khó khăn trong vấn đề này, lúc bấy giờ người lớn phải can thiệp để hướng dẫn.

Trong số đồ chơi, đồ dùng, hướng dẫn trẻ em phân biệt cái mà trẻ em quí trọng nhất không muốn chia sẻ. Những đồ dùng còn lại, “con có thể cho bạn bè mượn, và bạn bè có thể cho con mượn những đồ con không có”.

Để bắt đầu, chúng ta cần tôn trọng tình cảm quyến luyến của trẻ em, từ đó chúng ta có thể trao đổi, hướng dẫn...

4. Trong lãnh vực học tập, phát triển trí năng :

Một vài nguyên tắc sư phạm :

1. Thay vì áp đặt từ ngoài và đòi hỏi trẻ em tuần phục, chúng ta cần phát huy và giúp trẻ em phát huy ý thích học tập. Ý thích học tập là điều kiện tối quan trọng để trẻ em có thể phát huy trí năng của mình.

2. Học là học cho chính mình. Cho nên nếu trẻ em không tìm thấy thích thú trong vấn đề học tập, trẻ em sẽ trở nên bị động và bao nhiêu vấn đề về phát huy trí năng bị tắc nghẽn.

3. Điều tối quan trọng cần học tập vào lứa tuổi này là thể thức tiếp xúc và cư xử với người khác, trẻ em cùng lứa tuổi, và người lớn. Đặc biệt trong vấn đề tranh chấp, xung đột giữa bạn bè, và thể thức tìm hiểu và đối xử với những người lớn trong gia đình.

4. Bài học quí hóa nhất là ý thức tích cực về bản thân mình.

“Tôi là 1 giá trị đích thực và mọi người yêu chuộng tôi”.

“Nhu cầu tự lập được kẻ khác tôn trọng: tôi có khả năng”.

5. Trò chơi với chúng bạn cùng lứa tuổi là phương tiện học tập và phát triển hữu hiệu nhất.

(CÒN TIẾP)