NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM


I- MIÊU TỘC VIÊM VIỆT*
VỚI NƯỚC XÍCH THẦN VÀ XÍCH QUỸ TRÊN HAI BỜ SÔNG TRƯỜNG GIANG:


Trường giang sóng nước chập chùng,
Động Đình Văn hóa* hai vùng Bắc Nam.
Đế Minh * chia cắt giang san,
Hai con hai mẹ hai phần quản cai.
Đế Nghi lảnh nước Xích Thần*,
Giữa hai sông lớn sông Hoàng sông Dương*.
Phần em Lộc Tục* đảm đương,
Từ sông Dương Tử* theo đường lập quốc.
Tên Kinh Dương Vương ấy gốc
Quốc hiệu Xích Quĩ làm mốc* thời gian.
Long Nữ con Động Đình Quân,
Cùng vầy duyên thắm sinh chàng Sùng Lam*.
Chàng xưng là Lạc Long Quân.
Liên minh hai nước tinh thần* vật chất*.
Anh em đoàn kết như nhất,
Bắt tay cùng trị không dành tranh ai.
Đế Nghi truyền đến Đế Lai,
Đế Lai sinh con là gái Âu Cơ,
Vừa tài vừa đẹp anh thư*,
Vì thân nên gả Âu Cơ trọn tình.
Lạc Long cưới được vợ xinh,
Lòng càng thêm mặn cái tình nghĩa huynh.
Hai nhà chí kết liên minh,
Hầu mong giữ đất ông mình phân hai.
Xích Quĩ chính nghĩa là tài*,
Xích Thần mang nặng hình hài thần linh*,
Hai đàng kết nghĩa nhân sinh,
Cùng chung vui sống nghĩa tình bà con.

II- MÔNG CỔ HÁN TỘC XÂM LĂNG :

Rủi đâu tràn xuống giặc Mông*,
Đế Lai run sợ quyết lòng liên minh,
Cùng chú* hợp lại chiến chinh chống thù,
Liên minh Xích Quĩ đặc thù*,
Mặt thời bôi đỏ từ từ tiến lên.
Âu Cơ hăng hái đánh liền,
Ra quân cứu nước miền quê hương nàng
Long Quân cất vó rở ràng
Rừng gươm núi giáo hai đàng hiệp nhau
Đế Lai chỉ huy trận đầu
Cùng quân Mông đánh quên thâu quân về
Quân Mông sức mạnh đề huề
Là dân du mục lắm nghề chiến chinh.
Một trận TRÁC LỘC* thiên kinh
Hoàng Giang máu thắm, sinh linh nhuộm màu
Liên Minh Xích Quĩ thua mau
Đế Lai tử trận Xích Thần mất toi,
Long Quân kéo chạy ôi thôi !
Chạy về miền biển rồi trôi theo dòng…
Ra khơi bước tới biển đông*,
Mất tích chẵng biết chàng dông lối nào…
Âu cơ nước mắt dâng trào!!
Mẹ con phân nửa* trở vào nước xưa*.
Một mình dựng nước sớm trưa,
Cùng bầy con cháu cho vừa lòng dân.
Nàng Âu mới thật Tổ Tông*,
Sinh ra Bách Việt rạng đông truyền dần.
Đặt tên là họ Hồng Bàng,
Chia con cai quản xóm làng làm vua.
Các con xưng hiệu Hùng Vương,
Bao quanh vương nữ Âu Cơ an toàn.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Phương tây giáp Thục*, phưong nam giáp Chàm,
Phía bắc là Dương Tử Giang,
Phương đông ấy biển gọi là Biển Đông.
Văn Lang phong thổ huy hoàng,
Vốn dòng Bách Việt Hồng Bàng nguyên niên.
Âu Cơ làm chúa Không Tên,
Không người tưỡng đến công thiêng của nàng,
Không người thờ cúng đàng hoàng,
Không người nhớ tới công nàng lập quốc.
Một tay dựng nước làm gốc,
Một tay gìn giữ thúc đốc vua Hùng,
Một tay chống chọi giặc Mông,
Mới sinh nước Việt oai hùng ngày nay.
Cớ sao dân Việt chua cay!
Theo Mông* chê phái nữ lưu thấp hèn*
Chẵng thờ Vương nữ linh thiêng *
Bỏ quên Tổ Mẩu mẹ hiền nước Nam.
Bao thời chỉ nhớ phái nam*,
Hùng vương dựng nước Hiến văn bốn ngàn*.
Mổi năm có lể đàng hoàng,
Khấu đầu lạy tạ công vàng nước non,
Chỉ vì kỳ thị nữ không*,
Quên công nghĩa Mẹ, quên công đầu nguồn*.
Người người chỉ nhớ Hùng Vương,
Năm năm đầy đủ đèn hương cúng thường.
Nhớ không ai lập vua Hùng ?
Ấy công Tổ Mẩu nữ hùng Âu Cơ.
Nàng chia Xích Quĩ thành ra nhiều miền,
Đặt con lảnh tụ liền liền,
Vua Hùng cai quản các miền Mẹ giao.
Muời tám* dòng có chí cao,
Được người xưng tụng, dân nào quên ơn.
Kéo dài đến nhiều vạn niên* ?

III- NHÀ THỤC VỚI HÁN MÔNG BÊN TÀU VÀO THỜI ĐÔNG CHU LIỆT QUỐC

Thế rồi Thục Phán* phía tây xưng thần,
Phía nầy vốn thuộc Văn Lang,
Bị Thủy Hoàng chiếm dựng nên nhà Tần.
Tứ Xuyên Bách Việt mọi phần,
Cùng từ Xích Quĩ dần dần chia nhau.
Vua Tần thế lực thần sầu,
Mạnh lên Thục Phán mau mau đánh liền,
Mưu cao chiếm nhẹ trước tiên,
Thu nhanh gọn chiếm kẻo phiền Tần luôn.
Lập nên nhà Thục vuông tròn,
Thay tên Âu Lạc, hiệu là An Dương*,
Văn Lang từ đó quên luôn.
Thục vương kiến thiết, xây thành Cổ Loa,
Trùng tu cho nước non nhà,
Hầu mong chống đở người ta đánh mình

IV- NGUỒN GỐC MÔNG CỔ CỦA TÀU

Kể từ Mông Cổ làm vua,
Tự xưng Hoàng Đế trên bờ Hoàng giang,
Từ nay sinh nước Trung Nguyên,
Vốn gốc du mục bắc nguyên tràn vào.
Dân du mục tướng dáng cao,
Người cao ngựa mạnh lập trào đình riêng.
Đến ngày giặc giả liên miên,
Suốt bao thế kỷ gọi liền Liệt Quốc
Đông Chu ấy thật lắm tài,
Khiến đất Âu Lạc mất dần đất đai.
Vẩn còn chín quận an bài*,
Quân ta chống với quân Tần kém chi.
Ra sức giết được Đồ Thư*,
Giết quân xâm lượt được từ* vinh quang
Nhà Tần không được thịnh an*,
Bị Lưu Bang chiếm cho an dân tình,
Lập nên nhà Hán Tây Kinh,
Rồi sai tướng giỏi với binh lính Tàu
Đưa quân xâm lượt cho mau.
Nhà Triệu mất nước bị Tàu hộ đô,
Coi dân ta là nam nô,
Khiến dân ta trở thành lệ nô dân Tần.

V- NAM VIỆT NHÀ TRIỆU CHÍNH HIỆU BÁCH VIỆT TÊN TỔ VIỆT NAM

Trở lại nhà Triệu lên ngôi,
Cũng nguồn Bách Việt, chẵng ô nhiễm Tàu.
Thay Thục, Triệu dựng nước giàu,
Đặt tên Nam Việt ấy giòng Việt Bách.
An hòa tính chuyện quốc sách,
Vũ Vương tước Hán* theo cách an lành.
Nam Việt nhà Triệu riêng canh,
Đất đai chính quận an lành cũng mất,
Tính từ Nam Hãi, Cữu Chân,
Giao Chỉ, Đạm Nhĩ, Câu nhài, Uất Lâm,
Quế Châu, Hợp Phố, Nhật Nam,
Kể luôn Tượng Quận thảm sầu, Thương Ngô….

VI- TÀU ĐÔ HỘ VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT

Lần đầu Bách Việt nhục ô,
Quân Tàu cai trị ác ôn kinh hoàng!
Dân ta đau khổ lầm than,
Anh hùng yêu nước, tham tàn giết đi,
Đánh tan dẹp hết tức thì,
Tài nguyên chiếm hết, công lao thì dành,
Bao nhiêu văn hóa Việt Bách,
Bao nhiêu thợ giỏi cắp nách về Tàu,
Bao nhiêu lý thuyết cao sâu*,
Các Ngài Tiền Sử* dân Tàu mê ly:
Thần Nông, Nữ Oa, Phục Hy….
Tàu tự chiếm lấy làm tổ tiên mình,
Bao nhiêu người đẹp tức thì,
Chúng ôm trọn gói đem đi xứ người.
Bắt Ta không được mở lời,
Tiên tổ để lại, biết đời nào phai.
Bao công trình bao của cải,
Từ nông nghiệp học miệt mài nghìn năm,
Từ luân lý đến hôn nhân,
Nhân quyền nam nữ đến nhân cách người,
Chúng đều đánh phá tơi bời.
Để rồi Khổng tử đem dời vào sách,
Làm nên văn hóa Trung Quốc.
Rồi đem dạy lại dân mình nhân văn !?
Dạy thêm nông nghiệp lần khần,
Cho rằng Bách Việt xưa nay ngu đần
Riêng Mông Cổ là thánh thần !
Làm nên những việc khi mình chưa sinh!!!?

VII- NHÀ TRƯNG

Thời ấy tại huyện Mê Linh
Có quan Lạc tướng hiển vinh anh hùng,
Một mình hùng cứ một phương,
Vốn là con cháu vua Hùng từ xưa.
Vợ là Man Thiện* say sưa,
Cùng hai con gái* sớm trưa luyện tài.
Tài văn tài vỏ bền dai,
Mưu lòng đánh lấy non song một đài.
Sức còn yếu thiếu hiền tài,
Rủi thay Lạc tướng bệnh hoài không lui.
Man Thiện đành phải tính mưu,
Tìm người cùng hội để cầu liên minh.
Gặp ngay dòng giỏi Sơn Tinh,
Thi Sách họ Đặng có tình xưa nay*,
Bèn đem con gái gả ngay,
Hầu mong kết nghĩa chống ngay quân thù.
Trưng Trắc là gái anh thư,
Nên duyên họ Đặng, như cờ gặp phong.
Man Thiện truyền lại cho con,
Phong làm nữ tướng ra công liên hoàn,
Thi Sách quân đội rỡ ràng,
Cùng Trưng Trắc kết hai đoàn quân trang,
Tiến lên chiếm lại giang san,
Hầu mong đuổi thắng tham quan Hán thù.
Chẳng may Thi Sách mắc mưu,
Sa trường thân ngã quân thù giết đi.
Trưng Trắc kế hoạch tức thì,
Chiêu hiền chín quận* chủ trì hợp quân,
Tướng Nam tướng nữ chia phần,
Binh nam binh nữ ước gần mấy muôn.
Quân Trưng vừa mới khai quân,
Giết ngay Tô Định lập nên công đầu,
Bốn phương đem hết sức cầu,
Nàng lên tướng soái giặc sầu tan binh.
Nhiều năm mãi miết chiến chinh,
Trăm sáu hai tướng kết tinh kết tài,
Gồm thâu phương đông phương đoài,
Sáu mươi thành củ đoạt tài một khi.
Mời Man Thiện đứng chủ trì,
Làm quyền cai quản chuẩn chi nước nhà.
It năm Man Thiện đưa ra,
Ý tâm từ giả ép mà cho Trưng,
Tướng tướng đồng ý tôn vưng
Trưng Nhị làm Soái, Trung Trắc vua bà.
Trưng Vương phong tước cho cha,
Phong khanh phong tướng câu ca khải huờn.
Sửa sang nước trị dân an,
Phát triển kinh tế đầy tràn* nơi nơi.
Làm đường làm giấy sáng tươi,
Đúc đồng làm trống quyết khôi phục nhà.
Trồng rau trồng lúa trồng trà,
Là bao di sản mẹ cha đã làm.
Đặt tên là nước Lĩnh Nam,
Lập nên luật pháp bình an nước nhà.
Lập nên một cỏi kiêu sa,
Luật nước là luật dân ta bình quyền,
Từ học hỏi đến thợ thuyền,
Từ chia ruộng nước đến quyền công dân,
Ai tài thì cứ dấn thân,
Không theo lối sống Hán Mông hại người*
Cố sức hành hạ nữ thôi*,
Cố bắt phụ nữ làm người tiện nhân,
Không cho học, cấm tiến thân*,
Chỉ làm hàng ngủ ngu dân cúi đầu.
Với bao công khó dài lâu,
Trưng Vương tìm cách cất đầu cho dân.
Thế mà sử liệu lần khân*!!
Theo Tàu mà nói lằng quằng dân Nam
Rằng ba năm Trưng Vương tàn*.
Một đất nước mới huy hoàng dựng xây,
Ai làm nên được như vầy*,
Phát luật có đủ, dựng xây nên đời
Nông nghiệp kinh tế hơn người,
Làm sao làm nổi ngôi trời ba năm.
Vì ganh Hán tộc lưu manh,
Cố đàm tiếu bậy khiến dân mình lầm.
Ngàn năm đô hộ đâm mầm,
Khiến cho dân Việt quên dần công ai,
Đã ra tay đuổi lang sài,
Dựng nên nghiệp lớn danh lừng năm châu.
Sử ta chỉ nói vài câu !!!???
Coi ra thật nhẹ công đầu Trưng Vương !?
Lòng ta thật quá buồn thương!!
Đệ nhất truy tặng Trưng Vương anh hùng.
Cầu mong dân Việt tỉnh bừng,
Mở mắt xem lại công trình Trưng Vương
Sử sách chép lại làm gương,
Chứng từ còn đó*, chớ đừng nghe sai,
Nghe quân thù ghét ganh tài,
Là quân Mông Hán thua tài nữ lưu,
Sử ta phải sử chính ưu,
Kẻo hoài tăm tiếng nữ lưu nước nhà.

Brossard Québec Canada 10/4/2006