LỜI MỞ ĐƯỜNG

Chủ đề được khảo sát và nghiên cứu ở đây là “Quan hệ mẹ con : những bài học đầu tiên của cuộc sống”. Công việc này bắt đầu cách đây 20 năm. Ngày ngày tiếp xúc với những trẻ em chậm phát triển, thuộc mọi thể loại, tự nhiên tôi phải đối diện nhiều câu hỏi trong vai trò làm người giáo viên đặc biệt: sưu

Câu hỏi thứ 1 : Tôi phải làm gì cụ thể ngày hôm nay để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc học tập của trẻ em ?

Câu hỏi thứ 2 : Chậm phát triển có nghĩa là gì ? Sau nhiều năm tìm tòi, tiếp xúc, nghiên cứu, học hỏi, tôi chỉ giữ lại một định nghĩa cụ thể duy nhất : Bất kỳ nguồn gốc thuộc thể loại nào, tất cả những trẻ em chậm phát triển đều nhất loạt có những vấn đề trong lãnh vực học tập: tốc độ học tập chậm chạp, số lượng học tập có giới hạn, chất lượng học tập rất là mong manh dễ bị tổn hại, mất mát, thoái hoá.

Câu hỏi thứ 3 : Mặc dù những nổ lực lớn lao của bao nhiêu thầy, cô... nhiều trẻ em cho tôi một cảm tưởng là các em dẫm chân tại chổ. Công khó của thầy cô chỉ là “nước rơi đầu vịt”. Hay là “Tiếc công đan giỏ bỏ cà, giỏ thưa cà lọt, công đà uổng công”.

Cho nên giả thuyết của tôi : là thể thức dạy dỗ của chúng ta trong các lớp đặc biệt không thích ứng với mức độ và điều kiện học tập của trẻ em chậm phát triển. Vì thế, trong công việc hằng ngày, tôi đã phải xét lại điều dạy, cách dạy, thời lượng dạy...

Câu hỏi thứ 4 : Sau khi xét lại và thay đổi thể thức dạy dỗ, tôi nhận thấy và đánh giá một cách khách quan và khoa học nhiều thay đổi và tiến bộ nơi trẻ em. Đồng thời, trong chính bản thân tôi, sau một ngày làm việc, tôi cảm thấy an toàn nội tâm, vì tôi cảm thấy rõ rệt tôi đã đi một chặng đường nho nhỏ với các em học sinh. Chặng đường còn rất ngắn ngủi. Còn lầy lội bùn nhơ. Tuy nhiên thầy và trò chúng tôi đã hái được một vài bông hoa nhỏ mọn.

Tuy nhiên, mỗi năm khi tiếp đón một trẻ em mới vào lớp học, tôi càng ngày càng xác tín : Công việc dạy dỗ phải bắt đầu sớm hơn. Có một cái gì đã đổ vở, trước khi chúng ta bắt đầu xây dựng.

Nhiều trẻ em “phải quên” một số tác phong đã tạo trở ngại, trước khi “học tập” một tác phong mới. Tuy nhiên kinh nghiệm dạy dổ cho tôi thấy : Nhổ cỏ dại đòi hỏi nhiều lao lực hơn là trồng cây ăn trái.

Và cứ như vậy, từ câu hỏi này đến câu hỏi khác, tôi lần mò mù loà tìm đến với những quan hệ tiếp xúc mẹ con. Trong vòng 20 năm qua, nhiều tác giả đã đề cập đến vấn đề này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng chúng ta có thể xếp loại thành hai khuynh hướng :

Khuynh hướng 1 nêu lên những trọng trách của bà mẹ trong vấn đề dạy con. Vô tình hay hữu ý, khi quá đề cao vai trò và ảnh hưởng lớn lao của người mẹ, những tác giả thuộc khuynh hướng này đã gây nên cho các bà mẹ nhiều mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm là một tình cảm tiêu cực, một ý thức mù mờ. Bà mẹ cảm thấy mình có lỗi, nhưng lỗi đó là gì, không ai xác định rõ rệt. Cho nên, vì vô hình, vô tượng mặc cảm tội lỗi ấy trở thành một ám ảnh có mặt khắp mọi nơi. Ai muốn thấy đâu thì thấy, muốn có nội dung gì thì nội dung ấy xuất hiện. Trong vấn đề chậm phát triển, vì những mặc cảm tối tăm ấy, nhiều bà mẹ tự tố cáo mình là nguyên nhân làm cho đứa con chậm phát triển.

Khuynh hướng 2 đồng hoá vấn đề chậm phát triển với một số mệnh, định mệnh. Hệ quả của lòng tin không căn cứ ấy là thái độ hoàn toàn bị động của con người trước một định mệnh từ trời rơi xuống : Nhắm mắt đưa chân, chấp nhận số kiếp rủi ro của mình, của con cái mình. Cách đây chừng 50 năm về trước, nhưng trẻ em chậm phát triển được cư xử như những bệnh nhân thường trú trong các bệnh viện tâm thần. Từ 20 năm trở lại đây, những lớp học đặc biệt đã thay thế những bệnh viện. Trẻ em chậm phát triển, giống như bao nhiêu trẻ em khác có quyền lợi và nhiệm vụ đến trường học, trước tuổi thành nhân.

Cơ cấu tổ chức đã thay đổi. Nhưng não trạng hoặc lối nhìn về trẻ em chậm phát triển chưa theo kịp đà tiến bộ mong muốn. Đề nghị của tôi là tức khắc can thiệp, khi có một vài dấu hiệu cho thấy trẻ em đang lớn lên với những nguy cơ trở thành chậm phát triển.

Tức khắc can thiệp, để người mẹ có một cái nhìn đứng đắn về đứa con của mình. Tức khắc can thiệp, để đứa con có những điều kiện lớn lên và học tập thích ứng với tình trạng hiện tại và mức độ nhu cầu của em.

Để quảng diễn dự án can thiệp ấy, tôi sử dụng một dàn bài bao gồm bốn phần chủ yếu sau đây:

Trong phần I : - Tôi đề nghị một lối nhìn năng động, tích cực về trẻ em sơ sinh, dựa vào những khám phá mới nhất của ngành tâm lý phát triển.

Trong phần II : - Tôi trình bày một số trắc nghiệm tâm lý nhằm quan sát trẻ em một cách khách quan và khoa học, đồng thời phát hiện một vài nguy cơ chậm phát triển. Cha mẹ và độc giả không chuyên môn có thể nhảy qua phần này.

Trong phần III : - Khi khảo sát thể thức giao tiếp giữa bà mẹ và con cái, tôi nhấn mạnh khía cạnh thực tiễn : những điều phải làm, phải tránh để nâng cao chất lượng tiếp xúc của đứa con trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc sống.

Trong phần IV, tôi lưu tâm đến cách thức nhìn con của bà mẹ. Tôi có khuynh hướng và tập quán gọi đó là bản đồ tâm linh của bà mẹ về đứa con sơ sinh của mình.

Bản đồ ấy phải cập nhật hoá, khách thể hoá, để người mẹ có một cái nhìn toàn diện và tích cực về đứa con. Làm như vậy bà mẹ có khả năng khắc phục bao nhiêu tình cảm đau buồn khả dĩ cản trở và làm bà tê liệt trong công việc nuôi dạy con mỗi ngày.

Để xây dựng ngôi nhà tư tưởng và những đường hướng hành động cụ thể, thực tiễn này, của ăn tinh thần của tôi là những tác phẩm của các tác giả sau đây:

- T. Berry Brazelton, bác sĩ chuyên về nhi đồng, Boston Mỹ.

- Bertrand Cramer, bác sĩ tâm thần Genève, Thuỵ Sĩ.

- Daniel N. Stern, bác sĩ và giáo sư tâm lý, Genève, Thuỵ Sĩ.

- Serge Lebovici, bác sĩ tâm thần và phân tâm, giáo sư Đại học Paris, Pháp.

Lẽ đương nhiên, không có những kinh nghiệm cụ thể và thực tiễn, với tư cách là một giáo viên trong một lớp học đặc biệt, trong vòng hai mươi năm liên tục, từ năm 1972, tôi không thể nào có khả năng tiêu hoá, chọn lọc, xếp đặt theo thứ tự ưu tiên để làm công việc “ăn tằm nhả tơ”.

Cũng với tư cách là một giáo viên, ngày ngày va chạm với thực tế học tập của trẻ em chậm phát triển, tôi cố gắng kết hợp một cách hài hoà hai bình diện : Tìm hiểu ý nghĩa và thể thức hành động cụ thể, thực tiễn.

Hành động một cách bốc đồng, máy móc, tự động, trước khi tìm hiểu ý nghĩa và lý do, có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường sai lạc. Trẻ em chậm phát triển có quyền được chúng ta đối xử như một chủ thể, một con người, giống như bao nhiêu trẻ em khác. Suy nghĩ chín mùi trước khi hành động là một hình thức tôn trọng những trẻ em ấy.

Tuy nhiên, việc đố kị số một đối với tôi là trở thành con nộm đa ngôn, thao thao bất tuyệt, ba hoa, nói láo ăn tiền. Cái hiểu phải biến thành cái làm và cái làm phải xuất phát từ cái hiểu. Cho nên, sau khi giải bày ý nghĩa và lý do, tôi luôn luôn cố gắng đề nghị :

- Những điều cần làm.

- Thứ tự cần tôn trọng trong khi làm.

- Làm xong, đánh giá kết quả.

- Điều chỉnh, kiện toàn khi kết quả không đạt tiêu chuẩn, hoặc chỉ tiêu.

Hy vọng những ý kiến và lời đề nghị của tôi trở thành những viên sỏi trắng có khả năng hướng dẫn một phần nào những bước chân tìm đường trong đêm tối của một số giáo viên đặc biệt và một số cán bộ đang hoạt động trong ngành tâm lý, xã hội...

***

PHẦN 1 Chương 1 VAI TRÒ CHỦ ĐỘNG CỦA TRẺ EM TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN.

Ngành tâm lý tăng trưởng nhằm nghiên cứu những tiến trình và điều kiện phát triển của trẻ em, từ ngày được cưu mang trong lòng mẹ, và nhất là từ ngày sinh ra.

Ngành tâm lý ấy đã thực hiện những bước tiến bộ rõ rệt từ hơn 10 - 15 năm gần đây.

Trước đây, từ thời gian sinh ra đến lúc trẻ em có ngôn ngữ độ 3 - 4 tuổi, những kiến thức về tâm lý trẻ sơ sinh rất thô thiển, nghèo nàn và đại loại. Ngày nay, những khám phá mới nhất cho chúng ta thấy rằng : Trẻ sơ sinh, từ ngày sinh ra, đã là một chủ thể :

­ - Có những khả năng rõ rệt về giác quan.

­ - Chủ động trong tiến trình phát triển cũng như trong những quan hệ tiếp xúc trao đổi có tính cách xã hội giữa mẹ và con.

­ - Có những khả năng để khắc phục những hoàn cảnh khó khăn và thích nghi với môi trường chung quanh, sau khi vượt ra khỏi lòng mẹ.

Biết rõ những khả năng và giai đoạn phát triển, người mẹ sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng, để trẻ em đóng góp tích cực phần của mình trong tiến trình xây dựng bản thân.

Những hiểu biết tâm lý như vậy có hiệu năng giải thoát người mẹ khỏi những lo âu, khắc khoải, và tạo điều kiện thuận lợi để người mẹ trao đổi và tiếp xúc với đứa con. Chính những quan hệ trao đổi tiếp xúc này sẽ dần dần gia tăng chất lượng, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tăng trưởng của đứa con.

Trường hợp những đứa con đã gặp một vài khó khăn trắc trở, trong tiến trình phát triển của mình, những kiến thức tâm lý sẽ giúp người mẹ sáng tạo những giải pháp thích ứng; hay là tức khắc bắt tay vào công việc, để giúp trẻ em khắc phục những khó khăn và vượt thắng một số chướng ngại.

***

CHƯƠNG 1.1 NHỮNG KHẢ NĂNG CỦA TRẺ EM TRONG ĐỊA HẠT GIÁC QUAN

Nói đến khả năng, chúng ta cần phân biệt rõ ràng hai loại khả năng :

­ Khả năng hiện hành : là khả năng đã có mặt nơi trẻ em. Trẻ em hoàn toàn chủ động, không cần chúng ta kích thích hoặc tạo điều kiện thuận lợi.

­ Khả năng tiềm tàng : là khả năng đã có mặt ở một mức độ nào đó nơi trẻ em. Trẻ em chưa hoàn toàn chủ động. Các em cần sự kích thích của người lớn để thể hiện khả năng ấy. Sau một thời gian được kích thích và thực tập, khả năng tiềm tàng sẽ trở nên hiện hành, hiện thực. Nói cách khác, khả năng tiềm tàng chưa phải là cây, nhưng còn là hạt giống, cần được tưới tẩm để mọc lên.

L.S Vygotsky dựa vào sự khác biệt giữa hai loại khả năng ấy để phân biệt ba vùng học tập hay là ba vùng hoạt động :

Thứ nhất là vùng tự lập hoàn toàn :

Vùng này bao gồm tất cả những khả năng hiện hành của trẻ em. Ở đây trẻ em có khả năng làm một mình; chủ động và tự lập hoàn toàn, không cần sự giúp đỡ của kẻ khác.

Về mặt sư phạm, chúng ta cần thêm một đặc điểm khác là lý thú hay là ý thích. Không cần một yếu tố ở ngoài thúc đẩy, trẻ em tự mình thường xuyên trở lại vùng tự lập này, để củng cố và bồi dưỡng ý thức về khả năng của mình hay là lòng tự tin vào mình.

Thứ hai là vùng học tập, thực tập :

Vygotsky gọi vùng này là vùng tiếp giáp, tiếp cận, vì nó phải nằm sát ngay vùng tự lập.

Trẻ em làm được một số công việc với điều kiện là người khác tạo ra cho các em những điều kiện thuận lợi hay là làm công việc bắc cầu, tạo trung gian.

Sau này chúng ta sẽ trở lại với kỹ thuật bắc cầu, trong lãnh vực giáo dục và sư phạm. Cơ bản của vùng tiếp cận phải dung nạp hai điều kiện :

Điều kiện 1 : ­ Tỉ lệ hoạt động bao gồm :

3/4 khả năng hiện hành,

1/4 khả năng tiềm tàng.

Điều kiện 2 : ­ Có liên hệ tiếp xúc giữa hai thành viên; trong đó vui thích chiếm một vị trí thượng thắng. Thiếu vui thích, chất lượng của tiếp xúc sẽ suy giảm và bị khước từ.

Vùng 3 là vùng xa lạ, chưa thể đề cập đến.

Tất cả những hoạt động đều vượt ra ngoài tầm hiểu biết và khả năng của trẻ em.

Nếu chúng ta khư khư cố chấp, áp đặt cho trẻ em những điều phải làm thuộc vùng này, chúng ta sẽ dần dần tạo nên những trẻ em chống đối, khước từ, bị động, dị ứng đối với vấn đề học tập.

Đó là nguyên nhân cơ bản tạo nên tình trạng chậm phát triển hay là rối loạn về tác phong. Cách thức dạy dỗ, giáo dục bằng cách áp đặt từ ngoài những điều vượt quá khả năng và tầm hiểu biết hiện tại của trẻ em được mang tên là Kích thích quá đáng, còn được gọi là "vượt ngưỡng“.

Một loại kích thích khác cũng tạo nên tình trạng chậm phát triển là Kích thích bất cập, nghèo nàn, thiếu thốn, "ở dưới ngưỡng". Ở đây khả năng học tập của trẻ em không được phát huy một cách đầy đủ và thích ứng.

Trong tinh thần và quan điểm ấy, chúng ta cần mật thiết liên hệ hai vấn đề chậm phát triển và phát huy khả năng học tập. Đây là một khả năng bẩm sinh có mặt nơi mọi trẻ em.

1.1.1. Thị giác : Khả năng nhìn, thấy.

Từ những ngày mới sinh ra, trẻ em đã biết nhìn:

­ Quay đầu theo dõi một đồ vật có màu sắc rực rở, không quá sáng chói.

­ Lựa chọn, yêu chuộng một số cơ cấu riêng biệt, giống khuôn mặt của con người : hình thuẫn có đôi mắt. ..

­ Tập trung chú ý vào những đường ranh giữa hai diện tích có hai màu sắc phản nghịch nhau, hay là vào địa điểm của các góc của một hình tam giác.

Nói cách chung, trẻ sơ sinh chú ý đặc biệt vào những vị trí tập trung nhiều tin tức và tín hiệu phản nghịch nhau.

­ Sau ba tuần, trẻ sơ sinh đã có khả năng nhận biết và phân biệt khuôn mặt của mẹ mình.

­ Khoảng cách giữa mắt và đối tượng lúc ban đầu: 25-30cm, khoảng cách lúc 3 tháng: 2-3m, khoảng cách lúc 6 tháng: giống người lớn.

­ Khi một đồ vật gây chú ý và thích thú từ từ di dộng, trẻ em có thể quay đầu qua trái và phải, với góc chừng 12 độ; hay là lên phía trên, xuống phía dưới.

Chừng ấy dữ liệu cho ta thấy :

a/. Từ những ngày đầu tiên của cuộc sống, trong cái nhìn và cách nhìn của trẻ em, các em đã bộc lộ rõ rệt nhiều khả năng đặc biệt như tổ chức các dữ kiện, kết hợp với khả năng vận động của đầu, đình chỉ những phản xạ vận động của tứ chi làm cản trở tập trung chú ý vào đối tượng, lựa chọn một số kích thích đặc thù và thích hợp.

b/. Khả năng nhìn và thấy như vậy đòi hỏi phải có một hệ thần kinh trung ương não bộ lành mạnh, toàn vẹn không bị chấn thương hoặc thất tổn.

c/. Khả năng nhìn và thấy như vậy là cơ bản của trí thông minh. Thiếu khả năng này, trẻ em sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề khám phá và học hỏi.

d/. Để có thể vận dụng được khả năng này để học tập và tạo nên những quan hệ trao đổi, tiếp xúc với bà mẹ, đứa trẻ phải có một khả năng khác là biết duy trì và dần dần kéo dài tình trạng thức tỉnh hoạt bát.

Nhiều bà mẹ quá nghiện ngập rượu mạnh, ma tuý, lạm dụng thuốc men, thiếu dinh dưỡng suốt thời kỳ mang thai, có thể cho ra đời những đứa con thiếu khả năng thức tỉnh trong những ngày tháng đầu tiên. Và một số khó khăn sau này đã bắt nguồn từ những yếu tố ấy. Cho nên đây là một tiêu cứ để chúng ta sớm phát hiện những trẻ em có nguy cơ, hầu can thiệp tức khắc và đề phòng những gì trầm trọng có thể xảy đến sau này.

e/.Trong thực tế, chúng ta cần phân biệt nơi trẻ sơ sinh hai cách nhìn khác nhau :

­ Nhìn bất động; nhìn chòng chọc, cố định. Trẻ em hình như bị đối tượng thôi miên. Mắt cac em gắn chặt vào vật được nhìn. Dấu hiệu này cho ta biết : trẻ em không có khả năng tự động rút lui, để hạ giảm cường độ kích thích.

­ Liếc nhìn hoạt bát : liếc nhìn này bao gồm bốn giai đoạn :

1. Chú ý nẩy sinh, hoặc phản ứng giật mình tỉnh táo.

2. Chú ý tăng cường.

3. Ý thích giảm sút từ từ.

4. Trẻ em lơ là và khước từ, vì nhàm chán quen thuộc.

Quen nhàm là một phản ứng có khả năng bảo vệ hệ thần kinh trước những kích thích dồn dập đổ tới, bằng cách loại thải những đột nhập không thích ứng.

Khả năng “khép kín cửa” giác quan này thiếu hiệu năng nơi những trẻ em “thiếu tháng” hoặc thiểu năng. Những loại thuốc an thần hoặc thuốc mê được người mẹ sử dụng lúc sinh nở, cũng giảm suy khả năng này, nơi đứa trẻ sơ sinh, bao lâu ảnh hưởng của các loại dược phẩm ấy còn có tác dụng trên hệ thần kinh của em.

f/. Sau hết, liếc nhìn là phương tiện và điều kiện để mẹ và con tiếp xúc trao đổi, thiết lập những quan hệ gắn bó vào nhau.

Biết nhìn con và tạo điều kiện để đứa con học tập nhìn mình; trong lúc em ở vào tình trạng tỉnh thức hoạt bát : đây là một khả năng tự nhiên, bẩm sinh, có mặt nơi người mẹ. Tuy nhiên, khi có những khó khăn xảy đến từ phía đứa con, vì lý do sinh thiếu tháng hay thiểu năng... khả năng nhìn của người mẹ có thể bị tê liệt vì lý do suy nhược khổ đau, thất vọng... Lúc bấy giờ, vì thiếu những kích thích cần thiết từ phía của người mẹ, những khó khăn ban đầu của đứa con càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn !

Trong tinh thần ấy, người mẹ cần được nâng đỡ tức khắc và kịp thời, để nhận chân giá trị những yếu tố sau đây :

­ Đứa con chưa nhìn mình, chưa hẳn vì thiếu khả năng, nhưng vì thiếu điều kiện thuận lợi, do chính người mẹ sáng tạo cho đứa con.

­ Đứa con ngoảnh mặt không nhìn mình, không phải vì nó ghét mình, không thích mình nhưng đó là một khả năng biết rút lui, để tự bảo vệ mình. Chấp nhận con là tôn trọng khả năng và quyền lợi ấy.

­ Cần lợi dụng tối đa giai đoạn tỉnh thức hoạt bát của đứa con để tiếp xúc và thiết lập quan hệ gắn bó mẹ con.

1.1.2. Thính giác : khả năng nghe.

Nghe là một khả năng thứ hai của đứa bé sơ sinh. Tuy dù khả năng này cần được phát huy song song và phối hợp với khả năng thấy, cho đến khi mọi đường dây của tế bào thần kinh được lớp my-ê-lin bao bọc... Ở một cấp độ nào đó, khả năng này đã bắt đầu hoạt động ngay sau khi đứa con sinh ra :

a/ Trong tuần lễ đầu tiên, đứa bé đã bộc lộ ý thích của mình đối với tiếng nói phụ nữ, đặc biệt là tiếng nói của người mẹ, bằng các phản ứng như sau : trở nên hoạt bát thức tỉnh và quay đầu về phía tiếng nói.

b/ Để trắc nghiệm và phát hiện khả năng này, chúng ta có thể dùng một kích thích âm thanh như giọng nói dịu dàng hay là tiếng lúc lắc... phản ứng của đứa bé sơ sinh sẽ diễn biến như sau; trong những điều kiện bình thường lành mạnh :

­ Trẻ em thức tỉnh và dần dần trở nên hoạt bát.

­ Hơi thở không đều (hồi hộp).

­ Hai mắt bừng sáng, tò mò, mở rộng.

­ Khi trẻ em đã thức tỉnh và hoạt bát tối đa, các em sẽ quay mắt và đầu về phía tiếng động, để tìm kiếm nguồn gốc phát sinh.

c/ Để có một cái nhìn toàn diện về phản ứng của trẻ em trước những âm thanh, chúng ta cần phân biệt ba loại kích thích khác nhau:

Loại 1. Những âm thanh có tần số từ 500 đến 900 chu kỳ trong 1 giây. Đây là vùng tần số của giọng nói loài người. Trước những kích thích thuộc loại này, phản ứng thông thường của trẻ em được ghi nhận như sau :

­ Trẻ em đình chỉ hoạt động thuộc địa hạt vận động cơ thể bên ngoài.

­ Nhịp tim trở nên chậm chạp.

Loại 2. Những âm thanh có tần số cao trên 1000 chu kỳ trong 1 giây.

­ Trẻ em giật mình.

­ Quay đầu tránh né.

­ Nhịp tim đập mạnh và hơi thở tăng cường.

­ Màu da trở nên hồng đỏ

Nếu âm thanh vẫn kéo dài với tần số cao như vậy, hoặc là trẻ em trở nên nhàm quen, không còn phản ứng.

Một số trẻ em sẽ khóc la inh ỏi để khắc phục hoàn cảnh gây rối loạn như vậy.

Loại 3: Những âm thanh êm đềm, dịu dàng chung quanh tần số 500 chu kỳ trong 1 giây.

­ Những vận động cơ thể giảm suy.

­ Hơi thở và nhịp tim hạ giảm.

­ Đầu và mắt quay về phía nguồn gốc phát âm.

d/ J. Lacey còn đưa ra một nhận xét chính xác và cụ thể hơn. Theo tác giả này, phản ứng gia tăng hay là suy giảm của trẻ em tuỳ thuộc tình trạng và điều kiện hiện tại của trẻ em chính lúc trẻ em được kích thích.

Ví dụ nhịp tim của trẻ em đang đập mạnh, kích thích âm thanh sẽ hạ giảm nhịp tim. Trái lại, nhịp tim ở mức độ yếu, kích thích âm thanh sẽ làm gia tăng nhịp tim.

Trong địa hạt tác phong và vận động, cũng có những hiện tượng “trở về mức độ trung bình” như thế :

­ Nếu trẻ em đang ở tình trạng hoạt náo, khóc la inh ỏi, tay chân múa động vùng vẫy; một âm thanh dịu dàng vui thú sẽ làm cho trẻ em thư giản.

­ Trái lại, khi trẻ em còn mê man bình lặng, âm thanh và giọng nói hoặc tiếng động lúc đầu có thể làm trẻ em giật mình tỉnh thức, trở nên tỉnh táo hoạt bát và quay về phía phát âm thanh.

Cả trong hai trường hợp, kích thích âm thanh có khả năng tạo cho trẻ em một tình trạng thức tỉnh hoạt bát, thuận lợi cho mọi công việc học tập hay là tiếp xúc, trao đổi. Tiếng hát của bà mẹ bên cạnh chiếc nôi của đứa con có thể ru con ngủ và cũng có thể đánh thức con dậy để bồi dưỡng, vui đùa, dạo chơi.

e/ Chừng ấy nhận xét và tin tức về khả năng nghe của đứa bé đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ một điều rất cơ bản trong quan hệ mẹ con :

­ Tiếng nói và giọng nói của bà mẹ có một tầm quan trọng, trên vấn đề tăng trưởng và phát triển của đứa con.

­ Đứa con cần mẹ nhìn mình cũng như cần mẹ nói chuyện với mình, mặc dù em chưa có khả năng nói và hiểu tiếng nói loài người. Những âm thanh và cung điệu trầm bổng đã có khả năng tổ chức, điều hướng tác phong và tâm tình của đứa con.

­ Qua giọng nói của bà mẹ, đứa con sẽ dần dần ý thức một cách thấm đậm :

. “Tôi là một người quan trọng có giá trị,

. “Tôi đang sống và được yêu thương, cuộc đời thật đáng sống.

­ Trong câu ca dao :

“Mẹ già như chuối ba hương,

”Như xôi nếp một

“Như đường mía lau...”

Người bình dân Việt Nam đã ý thức tất cả ý nghĩa và giá trị trong giọng nói của bà mẹ : đó là một của ăn tình cảm làm cho đứa con lớn lên về mặt tâm thần và trí tuệ.

f/ Nhận xét sau cùng là qua giọng nói, người mẹ sẽ tỏ ra có khả năng hiểu biết nhu cầu của đứa con và đáp ứng một cách thoả đáng; hay là giữa mẹ và con, những khoảng cách càng ngày càng gia tăng. Một số trẻ em từ giây phút đầu tiên đã tỏ ra quá nhạy cảm, dễ bị kích động và căng thẳng. Ngưỡng độ kích thích sơ khởi là mức độ tối thiểu, để trẻ em có thể đưa ra những phản ứng. Ngưỡng độ này có thể rất thấp nơi trẻ em nhạy cảm. Vùng tần số thuộc giọng nói loài người là 500 ­ 900 chu kỳ mỗi giây.

Đối với một số trẻ em, những tần số ấy đã quá lớn, có thể tạo ra những đau đớn nhức nhối. Cho nên các em có thái độ và phản ứng quay mặt nơi khác hay là bịt tai, để tự bảo vệ mình.

Phản ứng rút lui, làm ngơ, đóng kín cửa giác quan, nói cách chung là phản ứng tự vệ không có mặt nơi một số trẻ em: vì nhiều lý do, trong đó có lý do “hệ thần kinh bị chấn thương hay là chưa được phát triển đầy đủ”. Trong những trường hợp như thế, người mẹ cần được nâng đỡ, để ý thức đến những khó khăn của đứa con và tìm phương cách kích thích thích ứng với điều kiện của đứa con, trong địa hạt âm thanh và giọng nói.

g/ Một số tác giả đang nghiên cứu vấn đề liên hệ nhân quả giữa hội chứng Tự Kỷ (Autism) và ngưỡng độ kích thích trong địa hạt thị và thính giác. Trên bình diện giáo dục và sư phạm, chúng ta cần lưu tâm đến vấn đề NGƯỠNG kích thích một cách đặc biệt. Nói đến NGƯỠNG là nói đến khả năng phản ứng và sức chịu đựng của trẻ em trong vấn đề học tập. Trong những điều kiện gây nên khổ đau nhức nhối, trẻ em không thể tiếp thu và chủ động. Học tập lúc bấy giờ có thể trở nên một cực hình.

1.1.3. Khướu giác, vị giác và xúc giác

Những khả năng của trẻ em sơ sinh cũng có mặt trong những địa hạt thuộc các giác quan khác.

1.1.3.1. Về mặt khứu giác

Một trẻ sơ sinh sau một tuần lễ đã có khả năng phân biệt 2 miếng bông: miếng bông thứ 1 có tẩm mùi sữa của chính mẹ mình, miếng bông thứ 2 tẩm mùi sữa của một người mẹ khác; 80% trẻ sơ sinh quay đầu về phía miếng bông có mùi sữa của mẹ mình.

Sau ba tuần lễ, được mẹ bồng trên tay, đứa bé đói bụng có hành động “tìm kiếm” vú mẹ. Ngược lại, được người cha bồng bế, đứa bé không có hành vi này.

1.1.3.2. Về mặt vị giác

Ngay từ những ngày đầu tiên, qua nhịp điệu và tốc độ bú của đứa bé, chúng ta có thể khám phá và nhận biết : đứa bé có khả năng phân biệt nước muối, sữa bò và sữa của mẹ mình. Sau một vài ngày cho con bú, một bà mẹ sẽ khám phá những nhu cầu và ý thích của đứa con qua cách bú của nó.

1.1.3.3. Về mặt xúc giác

­ Xúc giác là phương tiện tiếp xúc, trao đổi giữa mẹ và con.

Xúc giác được sử dụng để dỗ dành và làm cho trẻ em lắng dịu, trở lại tình trạng quân bình.

Xúc giác là phương tiện để đánh thức.

Xúc giác được dùng để tăng cường hoặc hạ giảm mức độ hoạt động.

­ Cũng giống như những âm thanh, giọng nói, kích thích thuộc xúc giác có những giá trị và tác dụng khác nhau, tùy tình trạng và điều kiện hiện tại của đứa bé :

Một trẻ em đang bực bội tức giận, sẽ lắng dịu, trở nên bình tĩnh, khi có một bàn tay vuốt ve nhẹ nhàng, chậm rãi.

Một trẻ em nửa tỉnh nửa mê, sẽ trở nên tỉnh táo nếu có người lại gần, từ từ xoa bóp chân tay hoặc bồng bế đưa qua đưa lại. Một trẻ em tỉnh táo bình lặng sẽ trở nên thức tỉnh hoạt bát, nếu chúng ta dùng chiếc võng, để đu đưa càng lúc càng nhanh.

­ Trong lãnh vực xúc giác, ảnh hưởng còn tùy thuộc vào những vùng được kích thích. Có em thích thoa đầu, em khác thích trò chơi va chạm mạnh, có em thích được thoa lưng. Em khác trở nên hoạt bát, nếu chúng ta xoa bóp hai bàn chân.

­ Ngày nay trong lĩnh vực trị liệu và khoa sư phạm đặc biệt dành cho trẻ em thiểu năng loại nặng và trầm trọng, nhiều phương pháp đã đặt trọng tâm vào lãnh vực xúc giác, để phát huy khả năng trao đổi và tạo ra một nếp sống thoải mái cho những trẻ em này. Phương pháp “những kích thích cơ bản”, khoa “xoa bóp trị liệu”, đang được sử dụng trong các lớp đặc biệt, cũng nhằm những mục tiêu tương tự.

Để kết luận, chúng ta cần ghi nhận một vài yếu tố cơ bản sau đây :

1/. Năm giác quan là vốn liếng rất quan trọng của trẻ em. Cho dù nghèo nàn, khuyết tật đến độ nào, vốn liếng ấy vẫn có mặt nơi một trẻ em. Biết khai thác vốn liếng ấy, để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em phát huy khả năng học tập là công việc và nhiệm vụ của chúng ta.

2/. Năm giác quan là 5 cánh cửa để trẻ em tiếp xúc và trao đổi với thế giới bên ngoài, với môi trường chung quanh. Bà mẹ là nhịp cầu cơ bản, thiết yếu, nối kết thế giới bên ngoài với nội tâm của trẻ em. Công việc trung gian này trở nên khó khăn, phiền toái, khi trẻ em sinh ra với những giới hạn hoặc thương tổn. Bà mẹ cần được nâng đỡ tối đa trong lúc này, để tiếp tục can trường đảm nhiệm công việc “làm mẹ” của mình.

***

CHƯƠNG 1.2 SÁU TÌNH TRẠNG Ý THỨC CỦA TRẺ SƠ SINH

Thông thường chúng ta không hiểu rõ về khả năng hiện hành và thật sự của một em bé sơ sinh. Ngoài ba công việc : ngủ, bú và khóc, hình như các em không làm gì. Và chúng ta không biết phải làm gì với các em. Chính vì vậy, nhiều người đã tỏ ra nghi kỵ về những chương trình hoặc dự án hoạt động và can thiệp liên hệ đến lứa tuổi này. Theo ca dao và tục ngữ Việt Nam, “dạy con dạy thuở nên ba”. Ngày nay, tâm lý bảo chúng ta phải bắt đầu tiếp xúc và trao đổi, xây dựng và phát huy những quan hệ gắn bó mẹ con, từ những giây phút đầu tiên của cuộc sống.

Kỳ thực, trẻ sơ sinh đã có những khả năng trong nhiều địa hạt khác nhau.

* Quan sát, theo dõi và chú ý.

* Đình chỉ những phản xạ vận động tự nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc chú ý và tiếp thu.

* Tiếp xúc và trao đổi với môi trường chung quanh, trung gian năm cánh cửa giác quan: thị, thính, khướu, vị và xúc giác.

Tuy nhiên, để trẻ em có thể có điều kiện thức tỉnh và tiếp xúc như vậy, người lớn và nhất là bà mẹ phải có hai kỹ năng và kiến thức cơ bản :

­ Thứ nhất là lựa chọn những loại kích thích thích ứng để đánh thức và tiếp xúc.

Để xác định những đặc điểm cơ bản của loại kích thích thích ứng, chúng ta cần khám phá cho mỗi cá tính của trẻ em, hai loại ngưỡng kích thích :

a) Ngưỡng sơ khởi : Để một kích thích có tác dụng hữu hiệu, chúng ta phải lựa chọn những cường độ ở trên ngưỡng sơ khởi. Cường độ này tăng giảm tùy trẻ em và cá tính của em. Nếu kích thích ở dưới cường độ tối thiểu này, trẻ em không có phản ứng.

b) Ngưỡng khổ đau còn gọi là ngưỡng chịu đựng.

Ngưỡng khổ đau là cường độ tối đa, một trẻ em có thể chịu đựng được. Những cường độ ở trên ngưỡng khổ đau sẽ tạo nên những cực hình, trên hai bình diện tâm lý và sinh lý. Nếu kích thích vượt cường độ khổ đau, vẫn kéo dài hay là lập đi lập lại, hệ thần kinh có thể bị chấn thương. Trong lãnh vực thính giác chẳng hạn, tần số quá cao sẽ làm rách vở màn nhĩ trong lỗ tai. Và trẻ em sẽ trở nên khiếm thính.

Những kích thích ở dưới ngưỡng sơ khởi được gọi là kích thích bất cập.

Những kích thích ở trên ngưỡng khổ đau được gọi là kích thích thái quá.

Ở giữa hai ngưỡng tối đa và tối thiểu, chúng ta có thể chọn lựa những kích thích thích ứng để giao tiếp với trẻ em.

Để quán triệt vấn đề, chúng ta cần thêm hai yếu tố khác : thời gian kích thích và số lượng kích thích. Chính phản ứng của trẻ em sẽ soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong công việc :

Sau một thời gian được kích thích, trẻ em sẽ có phản ứng quen nhàm, lơ đãng.

Nếu trẻ em ngột ngạt vì quá nhiều kích thích dồn dập cùng một lúc, các em sẽ có phản ứng rút lui, ngoảnh mặt nơi khác, khước từ, đóng kín cửa giác quan.

Biết thông đạt, hiểu biết, thông cảm với trẻ em là biết ghi nhận, quan sát lắng nghe “những sứ điệp câm nín”, những cách thức các em nhắn gởi cho chúng ta :

“Thôi con mệt rồi, mẹ ngừng lại đừng chơi thêm!

“Mẹ chỉ nói một điều thôi. Nhiều điều làm con lẫn lộn, rối loạn. Chỉ nói, đừng làm. Hay là chỉ nhìn đừng nói. Hãy vuốt ve, dỗ dành con trong thinh lặng...”

“Hãy từ từ và dịu dàng bồng bế con lên, để con có thời gian mở mắt nhìn mẹ”

“Sao mẹ mạnh tay và đột ngột như vậy? Mẹ tức bực ai mà trăm dâu đổ đầu tằm như vậy?

“Mẹ buồn chuyện gì với ba, thì nói cho ba nghe. Sao lại lơ là, lơ đãng với con!”

Thay vì biết lắng nghe như vậy, chúng ta đã phóng chiếu lên trẻ em những tình trạng khổ đau, buồn phiền chán nản chủ quan của chúng ta. Chúng ta đưa ra những lời nhận xét và giải thích hoàn toàn tiêu cực, thay vì ghi nhận những sự kiện khách quan, mắt thấy, tai nghe, tay chân va chạm. Trong những điều kiện như vậy, chúng ta chỉ thấy vấn đề, khó khăn, thay vì đón tiếp và chấp nhận trẻ em với bao nhiêu vốn liếng có sẵn của em.

Trong cách bồng bế, tắm gội, thay áo quần, ru ngủ, xoa bóp, cho con bú… theo D. Winnicott, người mẹ đã bộc lộ cho đứa con hay biết ba tin tức về mình :

* Lề lối tiếp xúc : hiện diện tích cực hay là lơ đểnh.

* Cách xử trí : tôn trọng, chấp nhận đứa con hay không.

* “Cách nhìn con” con được gọi là kiến thị về đứa con : Tích cực hay tiêu cực.

Nếu bà mẹ đã thấy con khuyết tật, bà sẽ tạo mọi điều kiện, để đứa con càng ngày càng trở nên khuyết tật. Đó là hiện tượng “thực hiện những dự tưởng của chính mình”.

­ Thứ hai là khám phá hiện trạng ý thức của trẻ em.

Để tiếp xúc và kích thích một cách thích hợp với mức độ và khả năng đáp ứng của trẻ em, chúng ta còn phải khảo sát thời điểm thuận lợi.

Để làm công việc lựa chọn thời điểm giao tiếp này chúng ta cần phân biệt và phát hiện sáu tình trạng ý thức của trẻ sơ sinh.

Tình trạng thứ 1 : Giấc ngủ thâm sâu và bình lặng.

Đôi mắt khép kín.

Tứ chi và cơ thể không có những cử động.

Nhịp thở điều hòa.

Khuôn mặt bình lặng, nét mặt không nhăn nhó, môi miệng không máy động.

Tuy nhiên ở đầu các ngón tay, và mí mắt, có những cử động đơn sơ và nhẹ nhàng.

Tất cả những kích thích bình thường trở nên vô hiệu.

Đối với trẻ em lành mạnh, sinh ra đúng ngày tháng và đúng cân lượng (2,500 ­ 3 kilô) giai đoạn này kéo dài độ 4 tiếng đồng hồ, mỗi chu kỳ.

Đối với trẻ em sinh ra thiếu tháng, chu kỳ này chưa ổn định, cho đến khi hệ thần kinh được phát triển đầy đủ.

Giấc ngủ thâm sâu là thời gian nghỉ ngơi bồi dưỡng về mặt cơ thể. Hệ thần kinh của những trẻ em thiếu tháng, dễ bị kích động, cần giai đoạn giấc ngủ thâm sâu để từ từ tổ chức và phát triển.

Tình trạng thứ 2 : Giấc ngủ náo hoạt

Hai mắt khép lại và một vài khi nhãn cầu cử động nhẹ và quay tròn.

Toàn thân cử động, trở qua trở lại, hay là co giật.

Hơi thở nhẹ nhàng và không đều.

Mí mắt nhấp nháy, nét mặt nhăn nhó, miệng mỉm cười, máy động hay là bú mút.

Theo lời giải thích của một số tác giả, đây là giai đoạn mộng mị, cần thiết cho việc bồi dưỡng tâm trí. Hệ thần kinh của trẻ sơ sinh phát triển mạnh trong giai đoạn này và bắt đầu phân phối những phần vụ chuyên biệt cho mỗi cơ cấu não bộ khác nhau.

Trong giai đoạn này, trẻ em có thể tiếp nhận những kích thích từ ngoài và bị đánh thức dễ dàng khi có những kích thích mạnh.

Tình trạng thứ 3 : Giai đoạn trung gian và chuyển tiếp giữa ngủ và thức.

Hai mắt có khi mở ra, khi khác khép lại.

Tuy dù mắt mở ra, trẻ em còn mơ màng, không tươi tỉnh.

Chân tay có thể cử động chậm chạp.

Nếu được đánh thức hoặc kích thích vào lúc này, trẻ em sẽ từ từ trở nên thức tỉnh hoàn toàn và hoạt bát, sẵn sàng tiếp thu và trao đổi.

Tuy dù còn mơ màng, trẻ em đã có thể quan sát, lưu tâm và ghi nhận một vài điều đang xảy ra hai bên cạnh mình.

Tình trạng thứ 4 : Tỉnh thức hoạt bát

Ở vào giai đoạn này, trẻ em có tác phong bình lặng, không náo động, không vùng vẫy, chạy nhảy lung tung.

Đôi mắt linh động, láu lỉnh có khả năng tiếp thu tất cả những gì đang xảy ra chung quanh. Đây là giai đoạn tốt hảo nhất để trẻ em học tập, tiếp xúc, trao đổi.

Những ngày đầu tiên, giai đoạn này chỉ kéo dài vài ba phút. Nhưng sau ba bốn tuần lễ, có thể đạt thời gian chừng 20­30 phút đồng hồ.

Tình trạng thứ 5 : Tỉnh thức náo động

Khả năng chú ý bắt đầu giảm suy.

Nếu trẻ em vẫn còn được kích thích, các em sẽ “trở chứng” nghĩa là trở nên bực bội, phẫn nộ, khước từ hoặc phản kháng, đập vỡ, phá hoại hay là liệng đồ vật tung tóe khắp nơi. Tán loạn, vô tổ chức là những đặc điểm trong tác phong của trẻ em trong giai đoạn này.

Tuy dù vậy, chúng ta còn có thể tiếp xúc, trao đổi, dỗ dành. Dựa vào những sở thích của trẻ em, chúng ta có thể điều hợp và hướng dẫn trẻ em trở lại tình trạng “quân bình và trung bình”.

Kinh nghiệm sẽ dạy chúng ta :

­ Dừng lại hay là thay đổi thể thức kích thích, trước khi trẻ em hết khả năng chịu đựng, và trước khi trẻ em “trở chứng”.

­ Để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em học tập, tiếp xúc, chúng ta hãy lưu tâm canh chừng : Ngưỡng khổ đau. Ngưỡng này tăng giảm tùy thuộc điều kiện sức khoẻ và điều kiện sinh lý hiện tại của trẻ em.

­ Vui thích là điều kiện và phương tiện để chúng ta phát huy khả năng học tập. Đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta tiếp tục hay dừng lại. Học tập chỉ thu lượm kết quả, chừng nào học tập mang lại vui thích. Mất hết vui thích, học tập sẽ biến thành cực hình, tạo khổ đau. Nếu khổ đau vẫn tăng cường, trẻ em sẽ khóc la inh ỏi.

Trạng thái thứ 6 : Khóc la inh ỏi.

Khóc la là một sứ điệp. Cho nên trước khi tìm cách can thiệp, chúng ta phải tìm hiểu chức năng tích cực của tín hiệu này.

Khi trẻ em khóc, các em đang có thể nhắn gửi chúng ta những điều sau đây :

1 ­ Con đang khổ đau,

2 ­ Con đang đói bụng,

3 ­ Con đang bực bội khó chịu trong cơ thể,

4 ­ Con đang buồn chán, cần có người trao đổi, tiếp xúc, bồng bế,

5 ­ Con đang cần những vận động để điều hòa sinh hoạt của tim phổi, hoặc bộ máy tiêu hóa.

Trong trường hợp bình thường sau ba ngày, người mẹ đã có khả năng giải thích, tìm ý nghĩa trong tiếng khóc của đứa con mới sinh ra.

Sau 3 tuần, một tháng, khóc la xảy ra theo những chu kỳ đều đặn trong ngày. Đó là loại khóc la số 5 : một nhu cầu vận động để điều hòa cơ thể, sau những lúc khóc la vì nhu cầu như vậy, tự động trẻ em sẽ trở về trạng thái bình lặng, thoải mái và trầm mình vào giấc ngủ. Đây là một loại “thể dục” của trẻ sơ sinh.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đối với một số bà mẹ, tiếng khóc la của đứa con tạo nên những tình trạng lo âu khắc khoải hay là những mặc cảm tội lỗi, khả dĩ làm tê liệt mọi năng lực cần thiết. Từ đó, bà mất hết khả năng để đảm nhiệm những công việc bình thường của một bà mẹ chăm lo cho đứa con.

Thực ra, tiếng khóc la của đứa con không phải là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng suy nhược như thế. Tiếng khóc la của đứa con chỉ là cơ hội gợi lại cho bà tất cả những vấn đề khủng hoảng và xung đột nội tâm mà chính bà đã kinh qua trong quá khứ. Đứa con của bà, bằng xương bằng thịt trước mắt bà, đã hà hơi, tiếp sức và làm sống lại một đứa bé khác với bao nhiêu vết thương lòng luôn luôn rướm máu và chưa một lần được ai băng bó, thoa dịu, vỗ về, chữa trị.

Những bà mẹ như thế cần có người giúp đỡ, lắng nghe, phản ảnh. Nhờ đó, bà sẽ có khả năng tìm về những ngày tháng xa xưa, sống lại những tâm tình đã được chôn vùi dồn nén trong đáy sâu của vô thức. Đem ra ánh sáng, chuyển biến vô thức thành ý thức, khách thể hóa, khả năng nhìn lại mình : Đó là những điều chúng ta cần xúc tác nơi bà mẹ, để bà lấy lại niềm tin và đón nhận đứa con với những vốn liếng thực sự của em. Thay vì khước từ, tránh né nhắm mắt hay là tô son điểm phấn những điều bà không dám nhìn vì sợ hãi.

CHƯƠNG 1.3 TRẺ EM TỪ 6 THÁNG ĐẾN 1 NĂM

1. Theo Stella Chess và Alexander Thomas, để theo dõi và đánh giá tiến trình phát triển của trẻ em vào lứa tuổi này, chúng ta cần khảo sát kỹ lưỡng những yếu tố sau đây :

1/­ Mức độ và chất lượng những hoạt động của trẻ em : thụ động, chủ động hay là hiếu động (vận động lộn xộn, nhảy từ cái này qua cái khác).

2/­ Mức độ tập trung hay là khả năng quan sát chú ý.

3/­ Ổn định, kiên trì trong hoạt động và tình cảm hay là tính khí thất thường, không ổn định.

4/­ Dè dặt sợ sệt, co rút hay là có khả năng tiếp xúc, nhất là trong những hoàn cảnh mới lạ.

5/­ Cường độ của phản ứng và tình cảm, xúc động.

6/­ Khả năng thích nghi mau, chậm trong một môi trường mới lạ.

7/­ Điều kiện cơ thể và sinh lý : ăn uống, tiêu hóa, ngủ nghỉ.

8/­ Ngưỡng độ kích thích và mức độ nhạy cảm : dễ bị kích thích hay là phản ứng chậm chạp.

9/­ Tính khí : u sầu, hay gắt gỏng, bực bội...

2. Khả năng vận động :

2.1. Thế ngồi :

5 tháng : ngồi dựa vào 2 tay ra đằng trước, mất quân bình, nếu vận động.

6 tháng : vẫn ngồi dựa vào hai tay, nhưng đạt được thế quân bình khi vận động đưa đầu ra trước hoặc ra sau. Nhưng mất quân bình khi nghiêng về mặt hoặc trái.

7 tháng : ngồi không cần dựa vào hai tay. Nhưng còn mất quân bình khi vận động.

8 tháng : làm chủ được thế ngồi và có thể vận động quay ra trước va sau hay là quay ra hai phía mặt và trái.

Khi thấy trẻ em có khả năng ngồi, còn giữ thế bất động : Trẻ em mới bắt đầu có khả năng ngồi.

Thế ngồi + vận động : Thế ngồi đã có mặt gần 1 tháng.

Trẻ em có khả năng chuyển vận từ thế nằm, bò qua thế ngồi một cách dễ dàng : Thế ngồi đã được thực tập hai tháng.

2.2. Cách xử dụng bàn tay và các ngón tay :

6 tháng : chưa phân biệt 2 phần lòng bàn tay và đầu ngón tay, trẻ em cầm đồ vật trong lòng tay.

7 tháng : biết di chuyển đồ vật từ tay này sang tay kia, và bắt đầu sử dụng đầu ngón tay.

8 tháng : dùng 2 ngón tay cái và trỏ để kẹp đồ vật.

Để thực tập “thế kẹp”, trẻ em có thể dùng hai ngón tay để lượm những vật ở trên mặt đất.

Cũng vào lứa tuổi này, trẻ em càng ngày càng ổn định thứ tự chính và phụ giữa hai tay trái và mặt. Tay chủ động sẽ luôn luôn đưa ra để nhận hoặc nắm đồ vật.

2.3. Thế Trườn và Bò :

Từ 7 đến 8 tháng, trẻ em thích di động.

Từ thế nằm em lật qua thế trườn tới sau 8 tháng : bò 4 chân, bò tới hoặc bò lui như con cua.

Tuy nhiên, một số trẻ em không đi qua giai đoạn này. Từ thế ngồi, trẻ em học đứng lên. Sau đó, em học đi.

2.4. Thế đứng :

Chung quanh 9 tháng, trẻ em học đứng lên.

Vào giai đoạn này, vấn đề an toàn cần được chúng ta lưu tâm một cách đặc biệt.

Những tai nạn té ngã, ngộ độc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nếu trẻ không được người lớn theo dõi, canh phòng.

Vào lứa tuổi này ý thức về giới hạn cũng như hiểu biết về nguy cơ, hiểm nghèo chưa có mặt.

Vì lý do đó :

­ Chúng ta cần lưu tâm về vấn đề vệ sinh nhà cửa. Trẻ em có thể bỏ vào miệng bất cứ cái gì.

­ Thuốc diệt rầy, muỗi, chuột cũng như thuốc men phải cất kỹ, có tủ khóa lại.

­ Lửa, điện, than, tầng cấp là những nơi tai họa có thể xảy đến.

­ Nếu nhà có bếp điện, bếp ga, hay là bồn tắm, chúng ta cũng cần có biện pháp đề phòng.

(CÒN TIẾP)