NHỮNG SUY TƯ VỀ NIỀM HI VỌNG



LTS: Tiến sĩ Michael Downey (người Việt thường gọi ngài là Tâm) hiện là giáo sư tại St. John's Seminary, Cammilo, Los Angeles, đồng thời cũng là chuyên viên thần học trợ giúp Đức Hồng y Roger Mahony thuộc Tổng Giáo phận Los Angeles, Hoa Kì, và linh mục Martin Nguyễn Hiệp, vừa thụ phong ngày 11/6/2005, hiện đang phục vụ tại giáo xứ St. Hedwig, Los Alamitos, Orange, Hoa kì đã tới viếng thăm Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Nhân dịp này, tiến sĩ Michael Downey đã thuyết trình trước chủng sinh bài: "Những suy tư về niềm hi vọng". Sau đây, chúng tôi trân trọng giới thiệu toàn văn bài thuyết trình.

Dù trong bất cứ thời đại nào, bất cứ nền văn hóa nào, thì các kitô hữu cũng luôn bị chất vấn về lý do tại sao mình hi vọng. Thư thứ nhất của thánh Phêrô, chương 3, câu 15 nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng trả lời cho những câu hỏi gai góc ấy.

Trong thời đại chúng ta đang sống, liệu niềm hi vọng có được coi là quan trọng nhất không ? Đó có phải là nhân đức cần thiết nhất không? Và là nhân đức ít được để ý tới nhất không? Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên dường như có qúa nhiều lý do khiến ta đánh mất niềm hi vọng. Trên mỗi nẻo đường, dưới mỗi mái nhà, thế nào cũng có một ai đó đang sống chìm trong thất vọng, nếu không muốn nói là tuyệt vọng. Ta có thể thất vọng hay tuyệt vọng mỗi khi đứng trước những cái chết hàng loạt hay vô nghĩa, trước cảnh bạo lực đột ngột, trước một cơn bệnh đang hoành hành, trước nỗi mất mát người thân hay khi đánh giá hoặc nhận thức được ý nghĩa và giá trị thực sự của cuộc đời.

Tiến sĩ Michael Downey và LM. Nguyễn Hiệp
Trong đời sống con người, không gì quan trọng hơn niềm cậy trông. Nhìn quanh mình, ta thấy biết bao người sống không có niềm tin. Đồng thời cũng thấy biết bao bằng chứng về đời sống không có tình yêu. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta không thể sống mà không có niềm hi vọng.

Hi vọng là niềm khát khao cháy bỏng, không thể diễn tả bằng lời, nhưng lại đang tồn tại trong chính tâm hồn mỗi người chúng ta. Nhưng nó cần được thức tỉnh và khuấy động. Không có niềm hi vọng ta không thể tiến bước, hay mở sang một trang mới. Nói cách khác, ta sẽ mất phương hướng trong đời. Đặc biệt là trong thời đại mà niềm hi vọng xem ra khó có thể đạt được, thì ta lại càng được mời gọi khơi dậy niềm hi vọng tận thâm sâu không chỉ nơi bản thân mình, nhưng cả nơi những người khác nữa.

Người môn đệ của Chúa Giêsu Kitô sống trong niềm hi vọng. Ta hi vọng vào lời Ngài, vào lời hứa ban sự sống và sự hiện diện hằng cửu của Ngài. Ta đặc cược cả đời mình trong niềm hi vọng rằng sức mạnh tình yêu sẽ chiến thắng mọi tội lỗi. Người môn đệ của Chúa Giêsu Kitô sống niềm hi vọng này trong mỗi phút giây của cuộc đời.

Những lời tôi chia sẻ với anh em hôm nay nhằm giúp ta có cơ hội tìm hiểu sâu xa hơn lý do về niềm hi vọng của ta, và cũng là cơ hội mời gọi ta sống trong niềm hi vọng. Hãy coi tâm hồn mình như thửa đất trong đó hạt mầm hi vọng sâu thẳm đang nảy nở hay tái sinh.

Là kitô hữu, ta cần đến niềm hi vọng hơn bất cứ điều gì khác, nhưng nó lại không được nghiên cứu hay đề cập đến nhiều là đức tin và đức mến. Có thể nói, như cô gái sinh giữa trong gia đình có ba chị em, niềm hi vọng thường bị lãng quên vì lọt giữa đức tin và đức mến.

Vậy ở giữa như thế nào?

Theo thánh Thomas Aquinas thì đức tin đứng đầu. Đức tin thưa xin vâng. Đức tin là “người đầu tiên bước ra khỏi cửa”. Và nếu dựa theo thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê thì “cuối cùng chỉ có ba điều tồn tại là đức tin, đức cậy và đức mến”. Và như những gì chúng ta đã được giảng dạy thì cao trọng hơn cả là đức mến.

Trong thần học Kitô giáo, đức tin, đức cậy và đức mến tương quan mật thiết với nhau. Đức tin nhìn thấy những gì đã có, trong khi đó, đức cậy lại thấy được những gì chưa xảy tới. Đức mến yêu thương những điều đã có, nhưng đức cậy lại tin vào những điều chưa xuất hiện, chưa có.

Trong truyền thống kitô giáo của chúng ta, niềm hi vọng được diễn tả qua nghệ thuật, âm nhạc, văn chương và cả thơ ca nữa. Bản chất của niềm hi vọng được diễn tả một cách tuyệt vời trong một bài thơ dài của Charles Péguy, có tựa đề tiếng Anh là “Door to the Mystery of Hope”. Trong bài thơ đó tác giả so sánh đức tin, đức cậy và đức mến như ba chị em gái, mà đức cậy được gọi là “niềm hi vọng bé bỏng”. Cô là người chị thứ hai trong ba chị em, giữa chị đức tin và em đức mến. Câu chuyện nói về ba chị em cùng tiến bước trên đường.

Điểm cốt yếu ở đây là chính khi đức tin ta bị mệt mỏi hay kiệt sức, hoặc đức mến bị nguội lạnh hay trống vắng, thì niềm hi vọng ở tận đáy lòng lại bắt đầu lớn lên trong ta.

Vậy niềm hi vọng đích thực là gì?

Niềm hi vọng là những gì ta có được đặc biệt là khi ta chẳng có gì cả.

Niềm hi vọng hướng ta về tương lai.

Niềm hi vọng đi tìm và khám phá ra con đường vượt trên mọi hữu hạn nơi trần thế.

Niềm hi vọng luôn nhìn xa hơn giây phút hiện tại.

Niềm hi vọng giúp ta tiến bước.

Niềm hi vọng là niềm xác tín rằng mình sẽ có cách vượt qua mọi gian khó.

Niềm hi vọng là thâm tín rằng mọi sự chắc chắn sẽ tiến triển tốt đẹp.

Niềm hi vọng đúng nghĩa thì khác với niềm vui khi mọi sự diễn ra một cách tốt đẹp, hay là việc sẵn sàng đầu tư vào một điều gì đó vì chắc chắn nó sẽ thành công. Trái lại, niềm hi vọng là khả năng để làm một việc gì đó chỉ vì nó tốt lành hay đúng đắn, chứ không phải vì nó cho ta cơ hội để thành công. Càng hi vọng trong những lúc khó khăn, thì niềm hi vọng càng sâu sắc. Niềm hi vọng cũng khác với sự lạc quan. Nó không chỉ là xác tín rằng một điều gì đó sẽ diễn ra một cách tốt đẹp, mà là xác tín rằng, dù bất cứ điều gì xẩy đến thì điều đó vẫn diễn ra một cách tốt đẹp.

Niềm hi vọng dường như tiến triển theo ba bước:

Những gì tôi hi vọng thì tôi vẫn chưa có hoặc chưa thấy được một cách trọn vẹn.

Những gì tôi hi vọng có thể rất khó khăn.

Nhưng tôi có thể có được điều ấy - Đó là một khả năng.

Điều đó có nghĩa là niềm hi vọng hướng tới một tương lai tốt đẹp, mặc dù có khó khăn, nhưng không phải là không thể đạt được. Nhưng những gì tôi hi vọng sẽ không xảy đến với tôi do những việc tôi làm hay do những thành quả của riêng cá nhân tôi. Niềm hi vọng đúng nghĩa chính là thái độ cởi mở để đón nhận như một ân ban một điều sẽ xẩy đến với mình. Điều này đòi hỏi nơi mỗi chúng ta thái độ đón nhận, đặc biệt là tiếp thu, đón nhận cách thức Thiên Chúa đến với mình.

Lý do để các kitô hữu hi vọng bắt nguồn từ mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô. Chúng ta tán tụng và ca ngợi mầu nhiệm ấy qua bài thánh thi trong thư thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philiphê: Người đã hạ mình, tự hủy chính mình, chấp nhận thân phận nô lệ, trở nên giống người phàm để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại (Pl 2,6-11).

Lý do để chúng ta hi vọng là Thiên Chúa đã đến thế gian qua con đường tự hủy chính mình- trong máng cỏ nghèo hèn và trên cây thập giá.

Sự tự hủy chính là CÁCH THẾ Thiên Chúa đến thế gian và ở giữa chúng ta trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa đã đến với con người trong sự yếu đuối và hèm kém, như là một tôi tớ và một nô lệ.

Mầu nhiệm linh thiêng này không tùy thuộc quá nhiều vào những cách thức cao siêu của Thiên Chúa, những cách thức vượt quá sự hiểu biết của chúng ta (tuy nhiên, dù cách thế ấy có cao siêu thì vẫn đúng), mà nằm trong chính khả năng của Thiên Chúa, Ngài đến với thế gian theo cách thức hợp với con người. Thiên Chúa không đến với thế gian như một nhân vật anh hùng trong các phim của Hollywood, làm tiêu tan mọi nỗi buồn, nỗi thống khổ và sự đau đớn của chúng ta. Thiên Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Ngài không loại bỏ hết những khát khao, những ước muốn, đau khổ và lo lắng băn khoăn của chúng ta, Ngài chỉ mãi hiện diện nơi ta và ở giữa chúng ta.

Khi Giáo hội đấu tranh thì Thiên Chúa hiện diện với Giáo hội.

Khi Giáo hội yếu đuối, thì Thiên Chúa vẫn ở cùng với Giáo hội.

Khi ta đau khổ hay buồn phiền, Thiên Chúa cũng vẫn ở với chúng ta.

Bài học thực tiễn quan trọng nhất đối với ta là Thiên Chúa luôn hiện diện và ở giữa chúng ta khi ta yếu đuối, đau khổ, muộn phiền, cũng như khi ta hân hoan, vui tươi và khỏe mạnh. Đó chính là lý do để ta hi vọng. Hi vọng rằng dân tộc và Giáo hội Việt Nam tiếp tục trở nên chứng nhân như ngọn đèn tỏa sáng giữa muôn dân.

“Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa,

cả vườn nho không được trái nào.

Quả Ôliu đợi hoài không thấy,

ruộng đồng chẳng mang lại gì ăn.

Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn,

ngó vào chuồng, bò bê hết sạch.

Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì Đức Chúa,

hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.” (Kb 3,17-18).

Câu hỏi suy tư

Anh em tìm thấy nguồn hi vọng ở đâu?

Làm sao anh em có thể giữ cho niềm hi vọng luôn sống mãi trong khi đang phải đối mặt với biết bao áp lực, stress và sự chán nản, nhụt chí?

Làm sao anh em có thể giữ cho niềm hi vọng luôn sống động khi phải đối mặt với sự thờ ơ và thù nghịch?

Anh em sẽ dùng những phương thế nào để có thể sẵn sàng giữ cho niềm hi vọng nơi mình luôn sống động và lớn lên?

Đâu là những phương thế anh em có thể dùng ?

Là người có đức tin, đâu là những việc thật cụ thể anh em sẽ làm để trả lời cho những chất vấn được nêu lên trong thư 1Pr 3,15: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hi vọng của anh em.” (1 Pr 3,15)