NGƯỜI 40 NĂM GIỮ ĐỀN ĐỨC MẸ HẰNG CỨU GIÚP: CHA BÍCH

Cha Joseph Tobin, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế, trên đường từ Rô-ma đi công tác ở Ma-ni-la, đã muốn quá cảnh Hà Nội một ngày để thăm viếng anh em trong Dòng. Cha chưa bao giờ đặt chân đến Việt Nam, nhưng đã nghe nói nhiều về Dòng ở Việt Nam và đặc biệt ở Hà Nội. Cha vẫn mong đợi chuyến viếng thăm này với đôi chút bồn chồn.

Trời cuối thu Hà Nội dịu mát. Hai bên đường từ sân bay Nội Bài về thành phố, thôn quê trải rộng những nương ngô xanh biếc xen kẽ những cánh đồng chín vàng. Cứ theo lộ trình tự nhiên, nơi đầu tiên để cha dừng chân lại là nghĩa địa. Thôi thế cũng hay. Hôm nay là Lễ Các Thánh, là ngày đầu tiên trong tháng kính nhớ các linh hồn. Hội Thánh là một mầu nhiệm hiệp thông. Trịnh Công Sơn hát thật hay rằng: "Người chết nối linh thiêng vào đời". Dừng chân ở nghĩa trang là một tình cờ do lộ trình, mà cũng là một giờ hiệp thông đầy ý nghĩa.


Từ đường cao tốc Nội Bài rẽ qua tay mặt, đi vào vùng đất Mê Linh lịch sử khoảng hơn chục cây số, đã thấy những ngọn đồi Thanh Tước nhấp nhô, ôm lấy một vùng mộ chí thoai thoải dưới chân mấy vạt rừng thông.

Không gian ở đây tĩnh mịch. Phía sau hồ sen bán nguyệt có khu vực dành riêng cho cán bộ cao cấp của Nhà Nước. Phần đất của quần chúng nhân dân được phân phối theo tôn giáo, một mảnh đồi đầy những cây Thánh Giá, và cũng có một cây Thánh Giá lớn được dựng lên thành tượng đài.

Gần đó, cha Tobin dừng lại trước một dãy mười mộ trắng thẳng hàng. Trên mỗi mộ có trồng một khóm hồng và một khóm cúc trắng. Những tấm bia nhỏ xíu chỉ vừa đủ ghi tên người và ngày mất. Đọc những chữ "Linh Mục Phúc" hay "Linh Mục Đức", có mấy ai biết rằng đó không phải là hai người Việt Nam, mà là hai vị Thừa Sai từ Canada qua đây, đã sớm nằm xuống khi tuổi đời còn trẻ, và đã gửi xương cốt lại đây.

Bên cạnh đó, Linh Mục Dong và Linh Mục Hiệp thì đúng là người Việt Nam, thuộc những thế hệ đầu tiên người Việt trong Dòng Chúa Cứu Thế. Hồi 1944, giữa thời thế chiến, cha Dong đi xe hơi từ Nam Định lên đã bị máy bay oanh tạc chết gần Hà Nội. Còn cha Hiệp săn sóc bệnh nhân trong một đại dịch bệnh chấy rận, rồi bị lây bệnh mà chết. Các Thừa Sai vẫn quen âm thầm tận hiến như thế. Cha Bề Trên Tổng Quyền thuộc những thế hệ hậu sinh không dừng chân ở đây thì ở đâu ?

Chợt đưa mắt nhìn lên đồi thấy anh Khôi cùng gia đình cũng đang lẩn quẩn tảo mộ giữa những vạt cỏ may. Khôi thuộc một gia đình có Đạo lâu đời ở Hà Nội. Anh là một giáo viên chuyên đi tìm những trẻ lang thang, những trẻ đường phố về mở lớp, dạy chữ rồi dạy nghề.

Nghĩa trang yên lặng, những dãy mộ của các Thừa Sai và của Giáo Dân cũng im lìm, những người viếng thăm chẳng ồn ào, và sự hiệp thông cũng không ồn ào chút nào. Là hiệp thông với một điều thiêng liêng mà những người nằm đây đã gặp được khi xưa, và những người viếng nghĩa địa vẫn đang tiếp nối, những người như anh Khôi khi miệt mài lo toan trong cái thế giới xô bồ ngoài bờ đê sông Hồng, hay ở những bãi nổi Phúc Tân, Phúc Xá dưới gầm cầu Long Biên.

Con đường từ Thanh Tước trở ra đường cao tốc, xuyên qua những cánh đồng hoa bát ngát. Vùng này cung cấp hoa tươi cho thủ đô, và có những loại đưa vào bán tận trong Nam. Nghe nói cha Tobin là một du khách rất mẫn cảm, anh em cũng muốn xe đưa cha qua những thắng tích khả dĩ gợi lên cho cha một điều gì về cái hồn của mảnh đất này.

Xuống khỏi cầu Thăng Long có thể vòng qua con đường dọc đê sông Hồng, sẽ thấy bên đường những Xứ Đạo lâu đời đã đâm rễ bám chặt vào lòng đất này: Thượng Thụy, Kẻ Bạc, Tử Đình... Hay đi qua vùng phong cảnh Hồ Tây như danh sĩ Nguyễn Huy Lượng xưa kia đã nói:
"Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người,
người trải khi vật đổi sao dời, cảnh phải chiều người buổi ấy;
thời thanh lãng có người còn mến cảnh,
cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru ?"

Không phải chỉ vì cảnh, đã nói "vật đổi sao dời" là nói lịch sử bi tráng của con người. Cũng chính Nguyễn Huy Lượng đã ngậm ngùi:
"Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vầng trăng he hé,
Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù".

"Cố cung" ngày nay ở trong khu quân sự, chưa vào được. "Cổ tự" thì quanh đây nhiều lắm, không rõ 'mấy phong da ngựa" vùi ở chỗ nào. Nhưng từ đường Cổ Ngư ( tên mới bây giờ là Thanh Niên ), có thể chỉ cho cha Tobin xem chỗ máy bay của phi công John McCain, ngày nay là thượng nghị sĩ nổi tiếng của nước Mỹ, đã rơi xuống hồ Trúc Bạch. Thăng Long chiến địa đấy ! Như ngày nay vẫn hát: "Một thời đạn bom, một thời hòa bình". Mảnh đất này là của những con người lần lượt đi qua khói lửa và hồi sinh thể xác linh hồn.

Rồi sẽ qua quảng trường Ba Đình, lịch sử hiện đại đấy ! Và qua Hồ Gươm nhớ vua Lê trả kiếm, qua Văn Miếu Quốc Tử Giám của thành phố ngàn năm tuổi.

Ôi, không kịp nữa rồi. Đã bịn rịn ở nghĩa trang hơi lâu. Phải mời cha Tobin trở lại một lần khác thôi. Không kịp nữa vì có hai cụ già đang chờ. Cha Tobin tới đây chủ yếu là để chào hai cụ. Xe rời lộ trình du lịch để quẹo về Ô chợ Dừa đường hẹp chật như nêm cối.

Gần sát gò Đống Đa thì rẽ vào ngõ hẻm. "Đó, cha thấy bệnh viện quét vôi vàng kia không ? Ngày xưa là Tu Viện nhà cha đấy !" Còn Tu Viện bây giờ thì ở sang bên cạnh. Cha lại đến vào lúc Nhà Thờ đang sửa lại toàn bộ, vật liệu ngổn ngang.



Và đây, hai cụ già đây: cha Thanh ngày xưa ở trong Nam có một thời chọc trời khuấy nước, bây giờ ngồi xe lăn rồi, tóc bạc như cước bềnh bồng, nhưng nụ cười khóe mắt còn tinh quái quá sức.

Cha Bích thì khác, cha cũng ngồi xe lăn, cái tinh quái không biết cất đâu, chứ cặp mắt không có thần nữa, cha mù đặc từ nhiều năm nay rồi. "Cha già ơi ! Bề Trên Cả đến thăm cha đây này !" Cha Bích ngửa mặt lên cười vui, đưa tay quờ quạng tìm tay người mới tới. Cha Tobin nắm tay cha Bích: "Anh em toàn Dòng đều biết tiếng cha là người đã trung kiên với Đền Thánh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp suốt năm chục năm nay".

Đúng. Cha Bích suốt năm chục năm nay gắn bó với Ngôi Đền đang được tái thiết đây, trong năm chục năm đó thì hơn bốn chục năm cha đứng mũi chịu sào, đảm nhận mọi công việc. Năm 1954, đất nước chia đôi. Phải nói thẳng rằng thời ấy người Công Giáo rất sợ Cộng Sản, sợ mất Đạo. Người ta rần rần chạy vào Nam. Nhưng Chúa vẫn có thói quen đẩy một số con cái vào chính cái nơi họ sợ, không phải chỉ từ tiên tri Jonas, từ xưa rất xưa đã có thế rồi. Chẳng biết cha Bích có sợ không, nhưng cha thuộc số anh em tự nguyện ở lại với một Giáo Hội hôm qua sầm uất, hôm nay trống vắng.

Cha cứ nhớ mãi cái ngày bộ đội cụ Hồ rầm rập tiến vào thủ đô. Hôm ấy nhiều Linh Mục Hà Nội họp nhau ở Nhà Thờ Hàm Long, có Đức Cha Khuê, có cha Tụng ( nay là Hồng Y ), có cha Bích. Đức Cha Khuê trong lòng tin chân thành của mình, tâm sự với anh em Linh Mục một câu: "Có lẽ chúng ta phải chết cho người khác được sống". Hay đây là thần khí tiên tri phát ngôn nơi miệng của người sau này sẽ là Hồng Y tiên khởi của Việt Nam chăng ? ( Bởi vì màu áo đỏ ngụ ý người mặc áo ấy đã sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống mình cho Dân Chúa ). Cũng chính Đức Cha Khuê viết một Thư Mục Vụ gửi cho đoàn chiên đã trở nên bé nhỏ của mình: 'Nghĩ tới anh chị em còn ở lại với tôi, lòng tôi quyến luyến..." Ai sẽ hiểu được cái cảm giác lạnh lẽo của đoàn chiên bé nhỏ ấy như thế nào ?

Cha Bích sẽ nếm mùi cô đơn. Trong cộng đoàn bé nhỏ của Dòng Chúa Cứu Thế trụ lại ở Hà Nội năm 1954, hai vị người Canada vài năm sau sẽ được mời về nước. Hai Tu Sĩ Marcel Văn và Clement Đạt lần lượt qua đời trong những hoàn cảnh cam go. Người đến Nhà Thờ rộ lên một thời gian rồi mỗi ngày một thưa, có lúc chỉ còn một nhóm rất nhỏ. Còn lại một mình cha Bích. Cha là Cha Xứ, là Ông Từ, là Người Giữ Đền, tự tay cha cắm hoa thắp nến. Cha hóm hỉnh tự đặt cho mình một tên mới là "Đặng Kiêm Toàn". Cha một thân một mình trong Tu Viện, ngoài Nhà Thờ, giống như người lão bộc trung thành trong Phúc Âm, thức lâu cho biết đêm dài mà đợi chờ Chủ đi đâu vắng xa. Lại có lần Giáo Hội nhân sự thưa thớt dần, cha được đề nghị lên làm Giám Mục. Rốt cuộc việc không thành, thất bại mà thích thú, vì Đức Hồng Y Căn bảo: "Thôi, cha ở lại giữ Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp !"

Ngôi Đền ấy như linh hồn của cha. Anh em có khi nói đùa mà thật: "Đấy là ngôi Nhà Thờ xấu xí nhất Hà Nội". Là vì lúc ban đầu dựng lên có phải để làm Nhà Thờ đâu, chỉ là nơi tụ họp tạm thời chờ dựng Ngôi Đền Đức Mẹ chính thức, trông nó hơi giống cái nhà kho. Thế Chiến thứ 2 bùng nổ, mọi việc xây cất gác lại, và tường Nhà Thờ tạm có thời gian được ghép vô số bảng tạ ơn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bằng đồng, bằng đá. Phải chi tường Nhà Thờ biết nói, nó sẽ kể lại biết bao nỗi niềm buồn tủi lẫn tin tưởng và vui mừng đã thấm vào nó ! Ngôi Nhà Thờ tạm biến thành Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp lúc nào không biết, một nơi chốn rất mực thân thương với những tấm lòng đã cảm nghiệm được Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp là thế nào !

Nhưng cha Bích cứ một mình hiu quạnh mãi thì sao ? Cứ tưởng tre già mãi sẽ tàn, ai ngờ tre già mọc măng. Câu chuyện cha Hiên trẻ của Dòng Chúa Cứu Thế đến kế nghiệp cha già cũng là một chuyện hơi ly kỳ, xin chưa kể lại vì ngoài đề.

Nhưng đến đây thì cha Bích đã mù. Cha cứ vui vẻ mà khai rằng đang mang trong người 16 thứ bệnh khác nhau, cứ cười cười nói nói mà nhìn nhận: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy đau trong người !" Khi cha Tobin họp mặt anh em, cha già ngồi nghe mà không góp chuyện nhiều. Được yêu cầu phát biểu, cha chỉ nói vắn tắt: "Tôi lấy làm hạnh phúc vì đã có anh em trẻ đến kế nghiệp và Nhà Thờ lại đông vui".

Thì ra Giáo Hội có khi cũng giống như thiên nhiên. Có mùa đông rồi có mùa xuân. Từ xưa kia, Thánh Tử Đạo An-rê Dũng Lạc đã chẳng viết: "Đông qua tiết lại thì xuân tới" đó sao ?

Với Đền Đức Mẹ, những năm tháng vắng vẻ qua rồi. Người ta dần dần trở lại, nối lại truyền thống hành hương. Và đến bây giờ thì không biết người ở đâu ra mà đông thế. Nhà Thờ đang đại tu, mấy tháng nay Lễ làm ngoài sân Thứ Bảy, Chúa Nhật, người đứng đông nghẹt sân, tràn ra ngoài đường chật cứng. Lòng Nhà Thờ còn đang ngổn ngang xi-măng và vật liệu, vẫn cứ đón nhận tầng tầng lớp lớp người, người ta tràn vào tầng trệt và tầng lầu của hành lang Tu Viện. Hôm nào Nhà Thờ sửa xong lại vẫn đông, vẫn chật như cũ. Nhưng đất đâu mà dựng Nhà Thờ lớn hơn ?

Cha Tobin tối hôm ấy dự Lễ Các Thánh với cộng đoàn ở ngoài sân. Trong Thánh Lễ có rửa tội người lớn, có người xin theo Chúa để được giống người yêu; có người xin theo vì Đức Tin đã đến sau khi dự đám tang hay đám cưới người có Đạo; có một cô tiến sĩ vật lý du học Liên Xô, vừa học được khoa học vừa học được Đạo Ki-tô với anh em Tin Lành Luther, khi về Việt Nam lại xin gia nhập Công Giáo; có bậc cha mẹ vào Đạo do cô con sinh viên theo trước rồi cảm hóa cả gia đình...

Vâng, Đức Mẹ hằng cứu giúp...
VŨ, 11.11.2002


(TRÍCH EPHATA 85)