Việt Nam (UCAN) -- Các giáo sư Kinh thánh ở Việt Nam nói rằng Giáo hội cần chú trọng đào tạo các linh mục và tu sĩ trẻ để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt giáo sư Kinh thánh có bằng cấp.
Linh mục Anbêtô Trần Phúc Nhân cho UCA News biết Giáo hội có nhu cầu cấp bách “đào tạo một thế hệ chuyên viên Kinh thánh trẻ kế thừa các bậc đàn anh hoặc đã qua đời hoặc quá lớn tuổi không theo kịp những bước tiến của khoa Kinh thánh, để dạy trong các chủng viện hoặc học viện, để dịch và chú giải Kinh thánh và giúp giáo dân học hỏi Lời Chúa.”
Cha Nhân, 73 tuổi, cho biết trước 1975 Giáo hội Việt Nam đã có 19 linh mục đỗ cử nhân Kinh thánh ở Rôma và Giêrusalem. Bảy vị trong số họ đã qua đời và trong những vị còn sống, chỉ còn hai người dưới tuổi 70.
Kể từ 1975 đến nay, phần đông các tu sĩ và linh mục trẻ không có khả năng học Kinh thánh vì họ không được học ngoại ngữ hoặc chỉ học qua loa lúc đã lớn tuổi.
Theo cha Nhân, đỗ cử nhân Kinh thánh tại Học viện Kinh thánh Giáo hoàng ở Rôma năm 1962, cha Phanxicô Xaviê Vũ Phan Long, dòng Phanxicô, là người duy nhất ở Việt Nam đỗ bằng cấp này tại cùng học viện vào năm 2002.
Cha Long, 54 tuổi, khẳng định với UCA News rằng hiện nay Giáo hội rất thiếu chuyên viên Kinh thánh. Có cả một đại chủng viện không có chuyên viên giảng dạy Kinh thánh. Cha Long, phó giám tỉnh dòng Phanxicô, nói rằng ngài có thể lấy được cử nhân Kinh thánh là nhờ vốn liếng kiến thức mà ngài đã học được trước năm 1975. Sau khi đất nước thống nhất, ngài vẫn tiếp tục tự học và theo dõi một số công trình nghiên cứu Kinh thánh do đồng nghiệp và bạn bè ở nước ngoài gởi về.
Kinh thánh được xem là môn khó nhất trong các môn học nhà đạo và đòi hỏi quá cao, cha Long nói, vì thế chính anh em tu sĩ trẻ cũng cảm thấy sợ hãi để đầu tư công sức học chuyên ngành này. Ngoài kiến thức triết học và thần học, người học phải giỏi tiếng Aram, Hípri và Hylạp để đọc được Kinh thánh bằng nguyên ngữ. Để có thể tra cứu sách báo chuyên ngành, học viên còn phải biết thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức, Ý và Latinh.
Cha Nhân thừa nhận kiến thức Kinh thánh của ngài nay đã quá đát. Sau 42 năm dịch và giảng dạy Kinh thánh, vị giáo sư Kinh thánh của chủng viện Huế cho biết có nhiều công trình nghiên cứu mới mà ngài không có cơ hội tiếp cận, đã khiến ngài không dám dạy Ngũ thư, năm cuốn sách đầu của bộ Cựu ước. Việc nghiên cứu Kinh thánh ở Việt Nam đã quá tụt hậu so với thế giới hiện nay, ngài nói thêm.
Cha Long, giảng dạy Kinh thánh tại một số học viện ở Sài Gòn, còn nói rằng chương trình giảng dạy Kinh thánh tại các chủng viện và học viện đã lạc hậu. Phương pháp giảng dạy hiện không giúp sinh viên biết phân tích văn mạch và ý nghĩa của các bản văn Kinh thánh, nên họ không thể nắm bắt tư tưởng thần học của các tác giả.
Theo đánh giá của ngài, phương pháp đào tạo hiện tại chỉ thích hợp cho giáo lý viên, nhưng đối với các tu sĩ và chủng sinh, những người rao giảng Lời Chúa sau này, thì chưa thể chấp nhận được.
Ngài nhận định thực tế này không hoàn toàn do lỗi của sinh viên, mà một phần do các nhà đào tạo đã dễ dãi trong chương trình đào tạo.
Cha Long, thành viên của Ủy ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã cố gắng góp phần vào công tác mục vụ Kinh thánh bằng cách thường xuyên viết bài chia sẻ Lời Chúa trên trang web của giáo phận Mỹ Tho (http://www.tgmmt.org).
Ngài nói rằng các tài liệu Kinh thánh bằng tiếng Việt xuất bản hàng năm rất ít, trong khi học viên không biết ngoại ngữ lại chiếm số đông. Một lớp học do ngài phụ trách có 80 sinh viên, nhưng chỉ có 10 người đọc được tài liệu bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Theo ngài, Giáo hội vẫn chưa có một kế hoạch nào về đào tạo nhân sự dạy Kinh thánh và làm mục vụ Kinh thánh.
Sau 1975 cha Nhân nghĩ đến một thế hệ tu sĩ không còn môi trường học tập tốt như lớp đàn anh của họ. Ngài liền mở lớp dạy Hy Lạp và Hípri cho tu sĩ, “vừa để ươm mầm nhân tài cho tương lai vừa giúp họ có vốn cổ ngữ căn bản để học thần học và Kinh thánh.”
Cho đến nay ngài đã mở được 9 khóa Hy Lạp và 7 khóa Hípri, mỗi khóa kéo dài 2 năm. Hiện tại có 38 học viên -- 27 nam tu, 9 nữ tu và 2 giáo dân -- theo học khóa Hy Lạp.
Trong số hàng trăm học trò của ngài trong những năm qua, chỉ có 8 nam tu và 2 nữ tu đã theo học thần học Kinh thánh, nhưng chưa có ai đủ khả năng ngoại ngữ để học ngành Kinh thánh. Ngài than phiền: “Tôi đã đầu tư nhiều công sức, nhưng kết quả thu hoạch chẳng đi tới đâu, vì thế tôi chưa thể cam lòng nhắm mắt xuôi tay lúc này.” Ngài cũng biên soạn sách văn phạm cổ ngữ Hy Lạp.
Một nguồn tin Giáo hội nói với UCA News rằng một linh mục dòng Phanxicô đang học cử nhân thần học Kinh thánh tại Pháp, và dòng Đaminh cũng vừa gởi một linh mục sang Canada để học chuyên ngành này.
Linh mục Anbêtô Trần Phúc Nhân cho UCA News biết Giáo hội có nhu cầu cấp bách “đào tạo một thế hệ chuyên viên Kinh thánh trẻ kế thừa các bậc đàn anh hoặc đã qua đời hoặc quá lớn tuổi không theo kịp những bước tiến của khoa Kinh thánh, để dạy trong các chủng viện hoặc học viện, để dịch và chú giải Kinh thánh và giúp giáo dân học hỏi Lời Chúa.”
Cha Nhân, 73 tuổi, cho biết trước 1975 Giáo hội Việt Nam đã có 19 linh mục đỗ cử nhân Kinh thánh ở Rôma và Giêrusalem. Bảy vị trong số họ đã qua đời và trong những vị còn sống, chỉ còn hai người dưới tuổi 70.
Kể từ 1975 đến nay, phần đông các tu sĩ và linh mục trẻ không có khả năng học Kinh thánh vì họ không được học ngoại ngữ hoặc chỉ học qua loa lúc đã lớn tuổi.
Theo cha Nhân, đỗ cử nhân Kinh thánh tại Học viện Kinh thánh Giáo hoàng ở Rôma năm 1962, cha Phanxicô Xaviê Vũ Phan Long, dòng Phanxicô, là người duy nhất ở Việt Nam đỗ bằng cấp này tại cùng học viện vào năm 2002.
Cha Long, 54 tuổi, khẳng định với UCA News rằng hiện nay Giáo hội rất thiếu chuyên viên Kinh thánh. Có cả một đại chủng viện không có chuyên viên giảng dạy Kinh thánh. Cha Long, phó giám tỉnh dòng Phanxicô, nói rằng ngài có thể lấy được cử nhân Kinh thánh là nhờ vốn liếng kiến thức mà ngài đã học được trước năm 1975. Sau khi đất nước thống nhất, ngài vẫn tiếp tục tự học và theo dõi một số công trình nghiên cứu Kinh thánh do đồng nghiệp và bạn bè ở nước ngoài gởi về.
Kinh thánh được xem là môn khó nhất trong các môn học nhà đạo và đòi hỏi quá cao, cha Long nói, vì thế chính anh em tu sĩ trẻ cũng cảm thấy sợ hãi để đầu tư công sức học chuyên ngành này. Ngoài kiến thức triết học và thần học, người học phải giỏi tiếng Aram, Hípri và Hylạp để đọc được Kinh thánh bằng nguyên ngữ. Để có thể tra cứu sách báo chuyên ngành, học viên còn phải biết thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức, Ý và Latinh.
Cha Nhân thừa nhận kiến thức Kinh thánh của ngài nay đã quá đát. Sau 42 năm dịch và giảng dạy Kinh thánh, vị giáo sư Kinh thánh của chủng viện Huế cho biết có nhiều công trình nghiên cứu mới mà ngài không có cơ hội tiếp cận, đã khiến ngài không dám dạy Ngũ thư, năm cuốn sách đầu của bộ Cựu ước. Việc nghiên cứu Kinh thánh ở Việt Nam đã quá tụt hậu so với thế giới hiện nay, ngài nói thêm.
Cha Long, giảng dạy Kinh thánh tại một số học viện ở Sài Gòn, còn nói rằng chương trình giảng dạy Kinh thánh tại các chủng viện và học viện đã lạc hậu. Phương pháp giảng dạy hiện không giúp sinh viên biết phân tích văn mạch và ý nghĩa của các bản văn Kinh thánh, nên họ không thể nắm bắt tư tưởng thần học của các tác giả.
Theo đánh giá của ngài, phương pháp đào tạo hiện tại chỉ thích hợp cho giáo lý viên, nhưng đối với các tu sĩ và chủng sinh, những người rao giảng Lời Chúa sau này, thì chưa thể chấp nhận được.
Ngài nhận định thực tế này không hoàn toàn do lỗi của sinh viên, mà một phần do các nhà đào tạo đã dễ dãi trong chương trình đào tạo.
Cha Long, thành viên của Ủy ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã cố gắng góp phần vào công tác mục vụ Kinh thánh bằng cách thường xuyên viết bài chia sẻ Lời Chúa trên trang web của giáo phận Mỹ Tho (http://www.tgmmt.org).
Ngài nói rằng các tài liệu Kinh thánh bằng tiếng Việt xuất bản hàng năm rất ít, trong khi học viên không biết ngoại ngữ lại chiếm số đông. Một lớp học do ngài phụ trách có 80 sinh viên, nhưng chỉ có 10 người đọc được tài liệu bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Theo ngài, Giáo hội vẫn chưa có một kế hoạch nào về đào tạo nhân sự dạy Kinh thánh và làm mục vụ Kinh thánh.
Sau 1975 cha Nhân nghĩ đến một thế hệ tu sĩ không còn môi trường học tập tốt như lớp đàn anh của họ. Ngài liền mở lớp dạy Hy Lạp và Hípri cho tu sĩ, “vừa để ươm mầm nhân tài cho tương lai vừa giúp họ có vốn cổ ngữ căn bản để học thần học và Kinh thánh.”
Cho đến nay ngài đã mở được 9 khóa Hy Lạp và 7 khóa Hípri, mỗi khóa kéo dài 2 năm. Hiện tại có 38 học viên -- 27 nam tu, 9 nữ tu và 2 giáo dân -- theo học khóa Hy Lạp.
Trong số hàng trăm học trò của ngài trong những năm qua, chỉ có 8 nam tu và 2 nữ tu đã theo học thần học Kinh thánh, nhưng chưa có ai đủ khả năng ngoại ngữ để học ngành Kinh thánh. Ngài than phiền: “Tôi đã đầu tư nhiều công sức, nhưng kết quả thu hoạch chẳng đi tới đâu, vì thế tôi chưa thể cam lòng nhắm mắt xuôi tay lúc này.” Ngài cũng biên soạn sách văn phạm cổ ngữ Hy Lạp.
Một nguồn tin Giáo hội nói với UCA News rằng một linh mục dòng Phanxicô đang học cử nhân thần học Kinh thánh tại Pháp, và dòng Đaminh cũng vừa gởi một linh mục sang Canada để học chuyên ngành này.