1. Trên thực địa cùng những người Kitô hữu bị bức hại ở Nigeria, chúng tôi đã có mặt để hỗ trợ họ.

Khi Tổng thống Trump công khai vào tháng trước về khả năng hành động quân sự của Mỹ tại Nigeria để ngăn chặn điều mà ông gọi là “cuộc tàn sát hàng loạt” người Kitô giáo, điều đó đã tạo ra một cơn bão truyền thông quốc tế. Những tuyên bố cho rằng sự đàn áp người Kitô giáo nghiêm trọng đến mức có thể được mô tả là “diệt chủng” đã ngay lập tức bị chính phủ Nigeria phản bác. Chính quyền Tinubu càng lo ngại hơn trước quyết định của Tổng thống Trump khi xếp Nigeria vào danh sách “quốc gia đáng quan ngại đặc biệt” - một phân loại cho thấy những vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo. Sự phản đối của chính phủ đối với cách mô tả của Tổng thống Trump về tình hình tự do tôn giáo của đất nước diễn ra vào thời điểm mà truyền thông cả trong và ngoài Nigeria, cũng như các chuyên gia an ninh và học giả, đều hạ thấp các báo cáo về sự đàn áp người Kitô giáo. Tất cả đều khẳng định đây không phải là một cuộc chiến tranh tôn giáo, và nhiều người thậm chí còn cho rằng tôn giáo chỉ đóng một vai trò không đáng kể trong bạo lực.

Xung đột ở Nigeria rất phức tạp. Là quốc gia đông dân nhất Phi Châu, với hơn 350 bộ lạc và hơn 500 ngôn ngữ được sử dụng, không có gì đáng ngạc nhiên khi có nhiều nguyên nhân khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn, dẫn đến xung đột — những vấn đề càng trở nên trầm trọng hơn do thành tích yếu kém của chính phủ trong việc duy trì trật tự và an ninh.

Việc tôi đang bước vào một tình huống đang diễn biến phức tạp, thậm chí khó hiểu, đã trở nên rõ ràng ngay hồi đầu năm nay khi tôi cùng tổ chức Viện trợ cho Giáo hội cần giúp đỡ, gọi tắt là ACN đến vùng tây bắc của đất nước. Từ đó, chúng tôi di chuyển đến vùng Trung Bộ, nơi diễn ra một số cuộc giao tranh ác liệt nhất. Nhưng càng đi xa, càng nói chuyện với người dân và tận mắt chứng kiến tình hình thực tế, bức tranh càng trở nên rõ ràng hơn, một quá trình thấu hiểu được củng cố bởi sự tiếp xúc thường xuyên với các vị giáo sĩ cao cấp và các tín hữu giáo dân trong khu vực.

Vào tháng 11, chúng tôi nhận được những thông tin trực tiếp về vụ bắt cóc 25 nữ sinh ở Kebbi, phía tây bắc, và nhanh chóng nhận thấy rằng vụ việc này là điển hình cho tình trạng bạo lực trong khu vực. Vụ tấn công gợi nhớ đến vụ bắt cóc hơn 276 nữ sinh ở Chibok hơn một thập niên trước.

Vụ tấn công ở Kebbi cũng liên quan đến người Kitô giáo trong một khu vực chủ yếu là người Hồi giáo. Tuy nhiên, không giống như Chibok — nơi những kẻ tấn công thuộc Boko Haram công khai chống Kitô giáo và chống nền giáo dục phương Tây — không ai nhận trách nhiệm về vụ tấn công ở Kebbi. Do đó, nạn cướp bóc không có động cơ tôn giáo rõ ràng được xem là nguyên nhân chính gây ra xung đột trong vụ này và các vụ tấn công tương tự khác ở vùng tây bắc.

Nhưng điều này không có nghĩa là các vụ tấn công chống lại người Kitô giáo không xảy ra trong khu vực. Khi tôi ở Sokoto, tôi đã gặp Tobias Yahaya, một người Kitô hữu trẻ tuổi, người đã kể lại việc anh ta sống sót một cách kỳ diệu sau khi bị đâm vào ngực. Kẻ tấn công Tobias sau đó được tường trình đã khai trước tòa rằng hắn biết Tobias là một người dạy giáo lý nhờ chiếc áo choàng màu tím đặc trưng của anh ta, và, với tư cách là một người Hồi giáo ngoan đạo, hắn muốn ngăn chặn một người mà hắn nhầm lẫn gọi là “mục sư” Kitô giáo.

Ở vùng đông bắc, tình hình lại rất khác. Borno, Yobe và các bang khác trong khu vực vẫn đang chao đảo vì cuộc nổi dậy của Boko Haram, nhóm mà các thủ lĩnh đã tuyên bố “chiến tranh” chống lại người Kitô giáo. Một phát ngôn viên của Boko Haram tuyên bố: “Chúng tôi vẫn đang nỗ lực hết sức để xóa sổ sự hiện diện của người Kitô giáo trong nỗ lực thiết lập một nhà nước Hồi giáo đúng nghĩa, đến mức người Kitô giáo sẽ không thể ở lại.”

Tháng trước, khách mời của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ trong buổi ra mắt Báo cáo Tự do Tôn giáo toàn cầu của tổ chức bác ái này là Giám mục John Bakeni, người có giáo phận Maiduguri bao phủ toàn bộ vùng đông bắc. Phát biểu tại Hạ viện trong buổi ra mắt báo cáo, ông cho biết trong vòng tám năm, Boko Haram đã “gây thiệt hại cho hơn 200 nhà thờ và nhà nguyện” và “ít nhất 1,8 triệu người ở bang Borno, đông bắc Nigeria, đã phải di dời”.

Tuy nhiên, với việc bạo lực của Boko Haram hiện đã giảm đáng kể, những lo ngại của Giám mục Bakeni phản ánh nỗi lo của các giáo sĩ cao cấp khác, những người hiện đang tập trung vào một số khu vực thuộc Vành đai Trung bộ. Các phần tử du mục Fulani hiếu chiến có liên quan đến phần lớn các cuộc giao tranh cả trong khu vực và những nơi khác. Cuộc đấu tranh giành đồng cỏ để chăn thả gia súc đã trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu. Căng thẳng sắc tộc là một điểm gây ra các cuộc đụng độ, nhưng ở một số khu vực thuộc Vành đai Trung bộ, bạo lực đã diễn ra một cách có hệ thống và trên quy mô lớn — điều mà ông đã làm rõ trong một tuyên bố trước Quốc hội Hoa Kỳ.

Giữa những báo cáo cho rằng có tới 500 người Kitô hữu đã bị giết hại trong khu vực này trong vòng ba tháng, Hội đồng Giám mục Công Giáo Nigeria đã ra tuyên bố lên án “vụ thảm sát dã man những thường dân vô tội ở bang Benue”. Và khi hơn 270 người Kitô hữu phải di tản thiệt mạng trong vụ thảm sát ở Yelewata vào ngày 13 tháng 6 năm nay, Đức Giáo Hoàng Lêô nói rằng ngài đặc biệt nghĩ đến “các cộng đồng Kitô giáo nông thôn ở bang Benue, những người đã liên tục là nạn nhân của bạo lực”. Vì vậy, trong khi nhiều yếu tố đang thúc đẩy cuộc xung đột ở miền bắc Nigeria, thì ở một số khu vực, có bằng chứng về một cuộc đấu tranh có chủ đích nhằm gây bất ổn, làm lung lay và có khả năng trục xuất các cộng đồng Kitô giáo. Những người Hồi giáo không cùng quan điểm với các phần tử cực đoan cũng là mục tiêu chính.

Trong bối cảnh các khu vực phía bắc Nigeria đang tự xé nát lẫn nhau, việc phủ nhận yếu tố tôn giáo trong cuộc xung đột sẽ không giải quyết được vấn đề gì. Suy cho cùng, như bất cứ ai từng đến Nigeria đều biết, đức tin là trái tim của quốc gia này.


Source:Catholic Herald

2. Rôma và Giáo hội tại Hoa Kỳ

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Rome and the Church in the United States”, nghĩa là “Rôma và Giáo hội tại Hoa Kỳ”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Đức Tổng Giám Mục Michael J. Curley của Baltimore, người đã làm phép Thêm Sức cho cha tôi, là một người Ái Nhĩ Lan hiếu chiến, thích gây sốc cho người khác bằng ngôn từ thiếu tế nhị. Trong một cuộc trò chuyện với nhà sử học vĩ đại John Tracy Ellis, Đức Cha Curley, người từng có nhiều cuộc tranh chấp với Vatican, đã từng buột miệng nói: “Rôma sẽ lợi dụng các ông, ngược đãi các ông, rồi vứt bỏ các ông!” Giống như những câu nói khoa trương khác của Đức Cha Curley, đó là một sự phóng đại, nhưng chứa đựng một phần sự thật: Chính quyền Rôma thường gặp khó khăn trong việc nắm bắt đặc điểm và thành tựu riêng biệt của Giáo hội tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ít Giáo hội nào có quy mô và tầm quan trọng như Công Giáo Hoa Kỳ lại trung thành (và hào phóng) với “Rôma” như chúng ta. Đó không phải là lời khoe khoang; đó là một sự thật lịch sử và thực nghiệm.

Đức Tổng Giám Mục Timothy Broglio của Tổng Giáo phận Quân đội Hoa Kỳ là người hoàn toàn trái ngược với Đức Tổng Giám Mục Curley về nghệ thuật hùng biện. Là một cựu binh trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh với kinh nghiệm lâu năm tại Vatican, Đức Tổng Giám Mục Broglio lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận. Tôi cho rằng những câu mở đầu trong bài phát biểu cuối cùng của ngài trên cương vị chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, tại cuộc họp thường niên ở Baltimore tháng trước, đã được soạn thảo rất kỹ lưỡng. Chúng xứng đáng được chú ý kỹ càng:

Trong bài diễn văn tại chức cuối cùng này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ của quý vị và sự đoàn kết bền chặt mà chúng ta cảm nhận được hàng ngày từ các vị giám mục tạo nên Hội Đồng này. Tôi biết rằng chúng ta đoàn kết, nhưng tình huynh đệ ấy đã thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong những thời điểm khó khăn của ba năm qua. Tôi vô cùng biết ơn.

Trong những trường hợp khác, lời bày tỏ lòng biết ơn đó có thể chỉ là phép lịch sự. Nhưng xin lưu ý rằng Đức Tổng Giám Mục không nhấn mạnh lòng biết ơn của mình đối với sự hợp tác, hỗ trợ hay tình đồng nghiệp của các giám mục anh em. Ngài nhấn mạnh sự trân trọng của mình đối với sự đoàn kết của các ngài. Tôi cho rằng đó không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Trong những năm gần đây, quan niệm cho rằng các giám mục Hoa Kỳ là một nhóm chia rẽ và hay gây tranh cãi đã lan rộng khắp Giáo hội thế giới, đến mức tôi đã được các giáo sĩ cao cấp từ Phi Châu và Á Châu hỏi, và hầu như bằng cùng một giọng điệu, “Có phải các giám mục Hoa Kỳ đang chia rẽ sâu sắc không?” Tin đồn thất thiệt này lan truyền như thế nào? Nó đã được lan truyền khắp các nước nói tiếng Anh bởi tờ Tablet có trụ sở tại Luân Đôn; nó đã được lan truyền khắp thế giới Công Giáo nói tiếng Pháp bởi tờ La Croix International; và người ta có thể hình dung rằng các cơ quan truyền thông đó đã tiếp thu câu chuyện hư cấu (và trong một số trường hợp là ác ý) như thế từ tờ National Catholic Reporter và từ Massimo Faggioli của tờ Commonweal (người có quan điểm sai lệch về Giáo hội ở Hoa Kỳ, và quan điểm này càng trở nên tồi tệ hơn sau khi ông chuyển từ Villanova đến Dublin).

Lời đồn thổi về sự bất hòa và chia rẽ trong hàng ngũ các giám mục thường đi kèm với những câu chuyện hoang đường khác: rằng các giám mục Hoa Kỳ rất ghét, thậm chí thiếu tôn trọng Đức Giáo Hoàng Phanxicô; rằng các giám mục Hoa Kỳ có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng hòa; rằng trong các vấn đề chính sách công, các giám mục Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến vấn đề phá thai; rằng các giám mục Hoa Kỳ không làm đủ cho người di cư và người nhập cư. Trong mỗi trường hợp, sự thật lại hoàn toàn trái ngược.

Các giám mục nói chung vô cùng trung thành với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ngay cả khi ngài khiến đời sống mục vụ của họ trở nên khó khăn hơn với (lấy hai ví dụ) sắc lệnh Amoris Laetitia và Traditionis Custodes. Các giám mục không hề chịu ơn Đảng Cộng hòa cũng như Đảng Dân chủ. Các giám mục lên tiếng trước công chúng về nhiều vấn đề, và các ngài làm điều đó bằng tiếng nói của lý trí công chúng, chứ không phải như những “chiến binh văn hóa” (một biệt danh ngớ ngẩn khác do những kẻ ngu dốt đặt cho họ). Và Giáo hội tại Hoa Kỳ làm nhiều hơn bất kỳ tổ chức nào khác trong nước để giúp đỡ người di cư và người nhập cư.

Thật buồn khi nghĩ rằng hình ảnh méo mó về Giáo hội Hoa Kỳ mà người ta thấy trên phạm vi quốc tế và ở Rôma không chỉ được tạo ra bởi những nhà báo và bình luận viên bất mãn, những người cam kết với dự án thất bại về “Công Giáo đơn giản hóa”, mà còn bởi một số giám mục người Mỹ, những người bất mãn vì là một phần của thiểu số rõ rệt trong hội đồng giám mục. Nếu đúng như vậy, và tôi e rằng đúng là như vậy, thì một sự vi phạm nghiêm trọng tính tập thể mà Công đồng Vatican II kêu gọi các giám mục của mỗi Giáo hội địa phương phải sống, cả về mặt hoạt động và tình cảm, đang được thực hiện. Và điều đó cần phải chấm dứt.

Những tháng đầu tiên của triều Giáo Hoàng mới đã chứng kiến sự nhấn mạnh trở lại của Đức Giáo Hoàng về sự thống nhất trong Giáo hội. Tôi hy vọng rằng những người lan truyền thông tin sai lệch về một hàng giám mục Mỹ không thống nhất sẽ ghi nhớ điều đó.


Source:First Things

3. Thông điệp của tổng thống vào ngày lễ Đức Mẹ phản ánh tình hình chính trị hiện nay.

Tuần này, Tổng thống Trump đã kỷ niệm Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ca ngợi đây là thời điểm để người Mỹ suy ngẫm về “đức tin, sự khiêm nhường và tình yêu của Đức Mẹ Maria, mẹ của Chúa Giêsu và là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong Kinh Thánh”.

Trích dẫn trực tiếp từ Kinh Thánh, ông đã nêu trong thông điệp của mình rằng Đức Mẹ Maria “lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử được ghi chép lại với tư cách là một thiếu nữ, khi theo Kinh Thánh, Thiên thần Gabriel đã chào đón bà tại làng Nazareth với tin tức về một phép lạ: 'Kính chào người được ơn phước! Chúa ở cùng bà,' loan báo rằng 'bà sẽ thụ thai trong lòng và sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu.'“

Ông tiếp tục nhấn mạnh phản ứng của Đức Mẹ Maria trước thông điệp của các thiên thần, gọi đó là “một trong những hành động sâu sắc và có ý nghĩa nhất trong lịch sử”, và trích dẫn lời chấp nhận của bà: “Này, tôi là tôi tớ của Chúa. Xin hãy thực hiện cho tôi theo lời Ngài.”

Tổng thống Trump đã liên kết sự chấp thuận của Đức Mẹ Maria với cốt lõi của niềm tin về sự Nhập Thể, nhận xét rằng quyết định của bà “đã mãi mãi thay đổi tiến trình của nhân loại”. Ông mô tả rằng “chín tháng sau, Thiên Chúa đã trở thành người khi Đức Mẹ Maria sinh một người con trai, Chúa Giêsu, người sau này sẽ hiến dâng mạng sống mình trên thập tự giá để chuộc tội và cứu rỗi thế giới”.

Tổng thống cũng dành sự quan tâm đáng kể đến vị trí của Đức Mẹ Maria trong lịch sử Hoa Kỳ, lưu ý rằng Đức Cha John Carroll đã thánh hiến nền cộng hòa non trẻ cho Đức Mẹ vào năm 1792. Ông cũng đề cập đến việc vào năm 1815, người Công Giáo cho rằng chiến thắng bất ngờ của Tướng Andrew Jackson tại Trận New Orleans là nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ Maria.

Ông nói rằng “trong gần 250 năm qua, Đức Mẹ Maria đã đóng một vai trò đặc biệt trong câu chuyện vĩ đại của nước Mỹ”, và nêu tên những nhân vật như Elizabeth Ann Seton, Frances Xavier Cabrini và Fulton Sheen là những người mà lòng sùng kính Đức Mẹ đã định hình nên tấm gương công khai của họ.

Thông điệp của ông cũng đề cập đến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Washington, DC, “nhà thờ lớn nhất Bắc Mỹ”, và đến sự phổ biến lâu dài của bài thánh ca Ave Maria. Ông nhắc đến lòng sùng kính đối với Đức Mẹ Guadalupe, lễ kính Đức Mẹ vào ngày 12 tháng 12 được tổ chức rộng rãi khắp Mỹ Châu và sẽ có tới tám triệu người đến thăm đền thờ của Mẹ trong những ngày xung quanh lễ hội. Ông nói rằng khi quốc gia tiến gần đến kỷ niệm 250 năm, người Mỹ “ghi nhận và tạ ơn, với lòng biết ơn sâu sắc, về vai trò của Đức Mẹ trong việc thúc đẩy hòa bình, hy vọng và tình yêu thương ở nước Mỹ và trên khắp thế giới”.

Thông điệp kết thúc bằng những lời quen thuộc của kinh Kính Mừng, được dâng lên “để tôn vinh Mẹ, và vào một ngày đặc biệt đối với các tín hữu Công Giáo của chúng ta”.

Thông điệp về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Tổng thống Trump không chỉ có ý nghĩa là một nguyên thủ quốc gia thế tục đã ca ngợi Đức Mẹ, mà còn cho thấy sự thay đổi trong vị thế tôn giáo của Hoa Kỳ trong chính trị và văn hóa.

Hoa Kỳ được thành lập trong sự tương phản hoàn toàn với nền chính trị “ngai vàng và bàn thờ” phổ biến ở Âu Châu thế kỷ 18. Nó được xây dựng trên các nguyên tắc Khai sáng, vốn được hình thành ở mức độ đáng kể trong sự đối lập với một số khía cạnh của tư tưởng chính trị Công Giáo. Hiến pháp của Hoa Kỳ được thiết kế theo hướng thế tục. Thế nhưng, vào năm 2025, chúng ta lại có một Tổng thống Hoa Kỳ viện dẫn Đức Mẹ Maria.

Việc Tổng thống Trump ca ngợi Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ở một khía cạnh, có vẻ không phù hợp, nhưng ở khía cạnh khác, đó là dấu hiệu cho thấy sự tin tưởng của đất nước vào cộng đồng Công Giáo của mình. Điều này cũng làm thay đổi ranh giới cũ giữa huyền thoại công dân Tin Lành và tầm nhìn đạo đức Công Giáo, làm mờ đi những ranh giới đó, và ý nghĩa của bản sắc Mỹ đang được định hình lại.

Hành động này không chỉ đơn thuần là một tình cảm mộ đạo. Nó còn giao thoa với những sự tái định hình chính trị đang diễn ra ở nước Mỹ hiện nay. Cơ sở truyền thống của chính trị MAGA, đặc biệt là ở miền Nam, được xác định bởi bản sắc Tin Lành phái Phúc Âm, thường e ngại những đặc điểm riêng biệt của Công Giáo. Nhưng liên minh “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” hiện đại đa dạng hơn nhiều.

Những người đàn ông trẻ tuổi có tư tưởng bảo thủ về mặt xã hội — bao gồm cả cử tri người Mỹ gốc Phi, người Mỹ Latinh, người Á Châu và người da trắng theo đạo Công Giáo — ngày càng thúc đẩy phong trào này. Những phản xạ bè phái cũ đang giảm dần khi chủ nghĩa bảo thủ văn hóa không còn đồng nghĩa với truyền thống “Vành đai Kinh thánh” nữa. Nội các năm 2024 của Tổng thống Trump cũng đánh dấu một sự thay đổi so với các bổ nhiệm năm 2016, khi những người theo đạo Tin lành được tưởng thưởng cho lòng trung thành của họ và chiếm ưu thế ở các vị trí cao nhất. Năm 2016, các vị trí Phó Tổng thống, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh đều do những người theo đạo Tin lành nắm giữ. Trong nội các hiện nay, tất cả các vị trí đó đều do những người Công Giáo thực hành đạo đảm nhiệm.

Việc Tổng thống Trump sử dụng ngôn ngữ liên quan đến Đức Mẹ Maria không phải là một sự khiêu khích đối với người Tin Lành mà là một tín hiệu gửi đến một khối cử tri mới nổi, những người cảm thấy thoải mái với các biểu tượng Công Giáo. Liệu đây có phải là một sự mở lòng tôn giáo thực sự hay chỉ là một cử chỉ chính trị được tính toán kỹ lưỡng là một câu hỏi hợp lý. Tuy nhiên, ngay cả khi mang tính chính trị, điều đáng chú ý là việc viện dẫn Đức Mẹ Maria giờ đây được xem là khả thi và táo bạo trong đời sống công cộng của Mỹ.

Thông điệp của Tổng thống Trump thể hiện rõ ràng sự tôn vinh vai trò của Đức Mẹ Maria trong lịch sử cứu rỗi. Ông nhắc lại sự kiện Truyền Tin — “‘Kính chào người được ơn! Chúa ở cùng người!’” — và ca ngợi sự chấp thuận của Mẹ: “Này, con là tôi tớ của Chúa. Xin cho mọi sự được thực hiện theo lời Chúa.”

Thông điệp của Tổng thống không chỉ đơn thuần là lời chúc mừng mùa lễ hội, mà còn là dấu hiệu cho thấy bối cảnh chính trị của nước Mỹ đang thay đổi. Thời gian sẽ trả lời liệu điều đó có dẫn đến sự củng cố sâu rộng hơn nữa vai trò của Công Giáo trong đời sống công cộng hay không.


Source:Catholic Herald