Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết bốn: Văn chương khải huyền và cánh chung luận


Chương một: Tổng quan về văn chương khải huyền



John J. Collins
The Jerome Biblical Commentary for the Twenty-First Century, Third Fully Revised Edition, t&tclark, 2020, các trang 962-971
.

Tài liệu Tham khảo

Collins, John J. Daniel. A Commentaryon the Book of Daniel. Hermeneia. Minneapolis, MN: Fortress, 1993.
Collins, John J. Apocalypticism in the Dea Sea Scrolls. London: Rouledge, 1997.
Collins, John J. The Scepter and the Star. Messianism in Light of Dead Sea Scrolls. 2nd edn.Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2010.
Collins, John J. The Apocalyptic Imagination. 3rd edn. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2016.
Cook, Stephen L. Prophecy and Apocalypticism: The Postexilic Social Setting. Minneapolis, MN: Fortress, 1995.
Cook, Stephen L. “Apocalyptic Prophecy” in The Oxford Handbook of Apocalyptic Literature. Edited by John J. Collins. 19-35. New York: Oxford, 2014.
Hanson, Paul D. The Dawn of Acocaliptic. Philadelphia, PA: Fortress, 1975.
Nickelsburg, G.W.E. Resurrection, Immortality, and Eternal Life in Intertestamental Judaism and Early Christianity. Harvard Theological Studies 56. Exp. Edn. Cambridge, MA: Harvard, 2006.
Portier-Young, Anathea. Apocalypse against Empire. Theologies of Resistance in Early Judaism. Garnd Rapids, MI: Eerdmans, 2010.
Rowland, Christopher. The Open Heaven. A Study of Apocalyptic in Judaismand Early Christianity. New York: Crossroad, 1982.
Yarbro Collins, Adela and John J. Collins. King and Messiah as Son of God. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 2009

Dẫn Nhập

Văn chương khải huyền (apocalypticism) là một hiện tượng lấy tên của nó từ Sách Khải huyền của Thánh Gioan, hay là Sách Mặc Khải trong Tân Ước. (Chữ Hy Lạp apokalypsis có nghĩa là mặc khải). Nó được tìm thấy trong sách Đa-ni-en, sách cuối cùng trong Kinh thánh Do Thái, được soạn thảo khoảng năm 164 TCN. Nó cũng được tìm thấy trong phần lớn Tân Ước, và trong các sách Cuộn Biển Chết, là các sách có niên đại từ các thế kỷ quanh việc thay đổi kỷ nguyên, và trong phần lớn các trước tác ngoài Kinh thánh, cả Do Thái giáo lẫn Kitô giáo. Nó liên quan tới việc mặc khải các mầu nhiệm, nhất là các mầu nhiệm liên quan đến tận cùng lịch sử và việc phán xét sau cùng. Ý niệm vừa nói được biết dưới tên cánh chung luận (eschatology), theo chiểu tự, có nghĩa là ngành nghiên cứu về những điều sau hết. Người ta có thể tìm thấy loại cánh chung học này trong các tiên tri cổ điển. A-mốt, chẳng hạn, tiên đoán ngày tận số của Israel (Am 8:2). Tuy nhiên, các tiên tri thường không suy đoán về những gì sẽ xẩy ra sau ngày kết thúc lịch sử hay thế giớI này. Cánh chung luận của nền văn chương khải huyền sau này khác một cách đáng kể. Rõ ràng có một sự liên tục giữa văn chương tiên tri và văn chương khải huyền. Ngay sách Khải Huyền cũng tự gọi mình là “sách của lời tiên tri này” (Kh 22:19; xem 1:3). Nhưng nó là lời tiên tri của một chìa khóa mới.

Nói tiên tri thời hậu lưu đầy

Các tiên tri cổ điển Do Thái như A-mốt và I-sai-a ngỏ các vấn đề thời họ một cách đặc trưng trong ngôn từ tự cho là được Thiên Chúa linh hứng. Họ cũng có các thị kiến thường được diễn tả một cách biểu tượng. Các sấm ngôn và thị kiến này đầu tiên được truyền tải bằng miệng. Sau đó, chúng được thu thập và viết ra. Diễn trình viết ra các sấm ngôn và đọc chúng khá lâu sau khi bối cảnh nguyên thủy của nó đã mất hút đã biến đổi lời tiên tri theo nhiều cách, một số cách trong số này đã góp phần vào việc xuất hiện văn chương khải huyền.

Tất cả các sách tiên tri đều kinh qua một loại biên tập hoặc trong cảnh lưu đầy ở Ba-by-lon hay trong thời hậu lưu đầy. Thường là việc biên tập này được thông tri bởi giao ước Mô-sê, như đặc biệt tìm thấy trong Đệ Nhị Luật. (Một số tiên tri tiên khởi sống trước thời Đệ Nhị Luật đã được soạn thảo). Nói một cách rộng rãi, các tiên tri được dùng để minh họa luận ly học của giao ước. Bao lâu Israel và Giu-đa còn vâng theo lề luật, họ còn được sống tại lãnh thổ của họ. Việc phá hủy và lưu đầy giáng xuống Vương Quốc Phía Bắc, Israel, dưới bàn tay Át-xua, và Giu-đa cùng Giêrusalem dưới bàn tay Ba-by-lon là vì họ không vâng giữ giao ước (Xem 2Vua 17:7-23). Cả các tiên tri cổ điển lẫn các biên tập viên hậu lưu đầy của họ đều có nhãn quan đời này. Các phúc lành của giao ước đều liên quan đến đời sống và sự thịnh vượng trên quê hương; sự chúc dữ kéo theo điều ngược lại.

Việc nói tiên tri tiếp diễn sau thời lưu đầy Ba-by-lon, nhưng nó từ từ được thay đổi. Khác-gai (Haggi) và Da-ca-ri-a hoạt động vào khoảng năm 520 TCN, thời khôi phục Giu-đa sau lưu đầy. Các chương 56-66 của I-sai-a (I-sai-a thứ ba hay Trito-Isaia) có lẽ có từ cùng một thời kỳ. Trong trường hợp này, căn tính của nhà tiên tri không được biết đến; các sấm ngôn của ông được truyển tải một cách vô danh và được gắn vào Sách Isaia. (Điều này cũng đúng với nhà tiên tri vĩ đại được chúng ta biết như là Đệ nhị hay Deutero-Isaia có các sấm ngôn chứa ở Is. 40-55). Từ thời gian này trở đi, xem ra người ta ít lưu ý tới các tên và nhân cách của các tiên tri cá thể. Một số lời tiên tri được chuyển tải một cách vô danh, còn những lời khác thì được gán cho những nhân vật huyền thoại trong quá khứ xa xăm, như Kha-nốc (Enoch) và Đa-ni-en.

Một số học giả coi các lời tiên tri hậu lưu đầy này như một hiện tượng mới, được họ gọi là “nguyên mẫu khải huyền” (proto-apocalyptic) (Hanson; Cook). Trong một nghiên cứu gây ảnh hưởng, công bố năm 1975, Paul D. Hanson lập luận rằng “bình minh của khải huyền” có thể tìm thấy trong Trito-Isaia. Theo Hanson, tư liệu này khác với lời tiên tri trước đó, vì nó ngưng không diễn dịch mặc khải của Thiên Chúa thành những “hạn từ có tính lịch sử đơn thuần, các nền chính trị thực tế và tính phương tiện nhân bản” do quan điểm ngày càng bi quan hơn đối với thực tại (Hanson, 11). Theo quan điểm của ông, có cuộc tranh chấp quyền lực tại Giêrusalem liên quan tới việc khôi phục Đền Thờ. Một nhóm, được phản ảnh ở Ed.40-48, nhưng cả ở Khác-gai và Da-ca-ri-a, muốn có một sự kiểm soát đền thờ nghiêm ngặt hơn của các tư tế. Nhóm khác, đại diện bởi Trito-Isaia, muốn một Đền Thờ cởi mở hơn, nơi, ngoại kiều được nghinh đón. Phe giáo sĩ hay phẩm trị (hierocratic) đã thắng thế. Nhóm được phản ảnh trong Trito-Isaia không sai khi lưu ý tới lịch sử và chính trị thực tế, nhưng nó mất niềm tin vào khả năng giải quyết các vấn đề bởi tác nhân nhân bản. Thay vào đó, họ cầu xin Thiên Chúa “xé các tầng trời và xuống (thế gian)” (Is 63:19) và nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ tạo nên một trời mới và một đất mới (Is 65:17).

Người ta có thể nghi vấn việc lời tiên tri này khác với những lời tiên tri trước đây đến mức nào. Mọi tiên tri đều báo trước sự can thiệp của Thiên Chúa, mặc dù họ mong người Át-sua và người Babylon được dùng “như ngọn roi cơn giận của Gia-vê” (Is 10:5). Ngay cả việc tạo dựng mới được hứa hẹn trong Is 65 cũng chỉ khác về mức độ với loại khôi phục được mong đợi nơi các tiên tri trước đó. Trong việc tạo dựng mới, “Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu, và người già tuổi thọ không tròn; vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ, và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa (Is 65:20). Nhưng người ta vẫn sẽ chết. Việc tạo dựng mới hứa hẹn một trật tự khác một cách đáng kể với trật tự hiện nay, nhưng không khác bao nhiêu với điều ta tìm thấy ở Is 11, nơi chó sói sẽ nằm chung với chiên con.

Một quan điểm khác về lời tiên tri “nguyên mẫu khải huyền” được Stephen Cook đề xuất. Ông lập luận rằng các chờ mong khải huyền không chỉ giới hạn ở các nhóm bên lề. Thay vào đó, ông xét tới những đoạn văn như ở Ed 38-39 và Dcr 1-8 vốn có tính cách tư tế. Đối với Cook, “văn chương khải huyến dựa nặng vào các hình ảnh và các chống đối của huyền thoại học. Người ta đúng khi gọi nó ‘tạo huyền thoại’ (mythopoeic) vì nó nhấn mạnh tới việc áp dụng ngôn ngữ cỡ huyền thoại vào công trình của Thiên Chúa” (Cook, 2014, 2). Đối với Cook, cánh chung học khải huyền ‘liên quan tới việc Thiên Chúa sắp bước vào để khai mở một thời đại tương lai khác về phẩm tính với thời đại này” (Cook, 1995, 24). Đối với Cook, chính sự khác biệt về phẩm tính này trong thời đại tương lai, phân biệt văn chương khải huyền khỏi văn chương tiên tri.

Các học giả khác tranh luận xem liệu việc nói tiên tri thời hậu lưu đầy có tính huyền thoại hơn đối tác tiền lưu đầy của nó hay không, là đối tác cũng mong chờ việc Thiên Chúa bước vào trong Ngày của Chúa. Có một sự khác biệt nhưng chỉ ở mức độ mà thôi. Điều đươc gọi là văn chương khải huyền trong Isaia 24-27 cung cấp một nhóm các hình ảnh huyền thoại vốn không có song hành trong lối nói tiên tri trước đó, nhưng ngoại lệ ngay bên trong sưu tập hậu lưu đầy. Các hình ảnh huyền thoại đáng lưu ý nhất được dẫn khởi từ huyền thoại học Ca-na-an, được chúng ta biết đến nhờ các bản văn tìm được ở Ugarit, bắc Syria năm 1929 (xin xem ở dưới đây khi nhắc đến sách Đa-ni-en). Thiên Chúa sẽ hủy diệt Sự Chết (Mot) mãi mãi (Is 25:8; thần Mot nuốt trửng thần sinh sản, Ba-an, trong bản văn Ugarit) và nó sẽ sát hại con rồng biển (Is 27:1) và Biển (Yamm) là địch thủ lớn khác của Ba-an trong bản văn Ugarit. Dù Is 24-27 hứa hẹn một thời khi sự chết không còn nữa, vẫn không rõ nó có dự kiến sự phục sinh cho những người đã chết hay không. Isaia 26:19 (“Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên”) đôi khi được hiểu như một việc khẳng định sự phục sinh, nhưng nó thường được đọc như ẩn dụ chỉ sự khôi phục Israel sau Lưu đầy, tương tự như chỗi dậy của các bộ xương khô ở Ed 37.

Chiều hướng các tiên tri hậu lưu đầy không liên hệ sứ điệp của họ với “lịch sử đơn thuần” và “tính phương tiện nhân bản” đã trầm trọng thêm bởi sự kiện chúng ta thường không biết được các hoàn cảnh lịch sử chúng muốn chỉ. Vị tiên tri ở Is 24-27 xem ra đang phản ứng đối với việc phá hủy một thành phố đặc thù nào đó. (Is 25:2: “Ngài đã làm cho đô thị hoá ra đống đá, cho thành trì kiên cố nên chốn hoang tàn”.) Rất có lẽ, thành phố muốn nói ở đây là Babylon, nhưng một số học giả từng lập luận rằng đó là Giêrusalem. Tương tự như thế, việc dàn dựng ở Dacaria 9-14 hết sức tối nghĩa. Sự khó khăn trong việc nhận diện những người được nhắc đến trong lịch sử cho các sấm ngôn này chắc chắn đã góp phần cho ý nghĩa chúng không hề nói tới những vấn đề lịch sử đặc thù, nhưng đúng hơn, báo cho biết những vấn đề có tính vũ trụ và cánh chung.

Bên cạnh việc sử dụng hình ảnh huyền thoại, cũng đã có một số khai triển khác trong lối nói tiên tri hậu lưu đầy theo hướng khải huyền. Khi các sấm ngôn được thu thập và biên tập cho các thế hệ đến sau, bối cảnh nguyên thủy đã mất hết tính liên quan của nó, nếu nó được nhìn nhận. Đúng hơn, những người duy trì các bản văn tiên tri có xu hướng giả định rằng chúng nói tới thời gian và quan tâm của những người truyền tải. (Điều này khá rõ ràng trong các Sách Cuộn Biển Chết ở các bình luận về các bản văn tiên tri gọi là Pesharim). Các bản văn tiên tri nào không có, hay không có nữa, các tham chiếu lịch sử chuyên biệt có thể được giả thiết là ám chỉ ngày kết thúc lịch sử.

Việc bản văn hóa và luật sĩ hóa lời nói tiên tri, do sự kiện chúng được viết ra, góp phần vào xu hướng tách biệt các lời tiên tri ra khỏi bối cảnh của chúng. Nhiều các thêm thắt có tính biên tập vào các sách tiên tri đã có âm sắc quá cánh chung. Nhiều thêm thắt vào các bản văn tiên tri bắt đầu với cụm từ “vào ngày đó”(thí dụ nên xem Is 7:20, 21, 23). Chúng tạo ấn tượng cho rằng các bản văn này liên quan tới một tương lai vô định. Hơn nữa, sự kiện nhiều đoạn văn này được thêm vào các sấm ngôn của các tiên tri đã sống nhiều thế kỷ trước đó, tăng cường cảm tưởng cho rằng lời tiên tri có thể ám chỉ các sự việc vượt quá xa thời của những vị tiên tri này.

Văn chương khải huyền của thời văn hóa Hy Lạp

Các thay đổi này trong cách hiểu lời tiên tri trong thời Đệ nhị Đền thờ đã góp phần tạo nên văn chương khải huyền, nhưng chúng không giải thích nó. Các trước tác khải huyền đại diện cho một hiện tượng mới, xuất hiện lần đầu tiên trong thời văn hóa Hy lạp (sau cuộc chinh phục của A-lê-xan-đê Đại Đế, người qua đời năm 323 TCN). Điển hình tiên khởi chính là các sách Đa-ni-en và Kha-nốc. Người ta có thể chắc chắn định niên biểu cho Đa-ni-en vào thời Ma-ca-bê nổi loạn khoảng năm 164 TCN, mặc dù nó có chứa các tư liện xưa hơn. 1 Kha-nốc thực sự là một sưu tập gồm nhiều cuốn sách nhỏ, một số xưa hơn Đa-ni-en và chứa các tư liệu có thể đã có từ cuối thế kỷ thứ 3 TCN.

Một số khác biệt giữa văn chương khải huyền và văn chương tiên tri cổ điển thuộc hình thức. Các tiên tri xưa hơn thường nói các sấm ngôn nhân danh Chúa. Các diễn ngôn như thế khá hiếm trong văn chương khải huyền thường trình bầy các mặc khải của họ trong hình thức thị giác. Dĩ nhiên, các tiên tri cũng có các thị kiến, và rõ ràng có một đường liên tục giữa việc nói tiên tri và các khải huyền về phương diện này. Nhưng các thị kiến khải huyền thì tỉ mỉ hơn. Chúng luôn được trung gian cho thị nhân con người bởi một thiên thần, hay một nhân vật thiên giới khác, người sẽ giải thích các biểu tượng mầu nhiệm của thị kiến, hay đưa thị nhân đi thăm những nơi vượt quá tầm kinh nghiệm nhân bản thông thường. (Chúng ta thấy các khởi đầu của hiện tượng này trong Ed 40-48 và trong Dacaria). Các thị nhân khải huyền không được nhận diện qua tên thật của họ, nhưng các mặc khải của họ được gán cho các nhân vật nổi tiếng vốn được cho là đã sống hàng thế kỷ trước khi các sách này thực sự được viết ra. (Sách Khải Huyền của Thánh Gio-an là một ngoại lệ về phương diện này). Hiện tượng gán các cuốn sách này cho những nhân vật nổi tiếng xa xưa vốn không thực sự viết chúng được gọi là “ngụy thư” [Pseudepigraphy]. Các thị nhân khải huyền bao gồm Kha-nốc, người được cho là đã sống trước Hồng Thủy, Ápraham, và một số nhân vật từ thời Lưu Đầy hay đầu thời Đệ Nhị Đền Thờ (Đa-ni-en, Ét-ra, Ba-rúc) mà các sách của họ không xuất hiện cho tới mãi nhiều thế kỷ về sau.

Nhưng tính mới mẻ của văn chương khải huyền không phải chỉ là vấn đề hình thức văn chương. Nó cũng kéo theo một thế giới quan, tức một loạt các giả thuyết về cách thế giới vận hành và vị trí con người ở đó. Các khía cạnh mới mẻ của thế giới quan này liên quan tới việc lịch sử được quan niệm ra sao, vai trò của các tác nhân siêu nhiên, các thiên thần, và ma quỷ, trong sự việc nhân bản, và các kỳ vọng liên quan tới tận cùng lịch sử và một sự sống vượt quá đời sống này (xem thêm Collins, 2016).

Lịch sử

Hai tiểu loại có thể được phân biệt trong tòan bộ các khải huyền xưa từng được truyền lại cho chúng ta. Một loại tập chú vào diễn trình lịch sử. Loại kia liên quan tới các hành trình qua thế giới bên kia trong đó, các thị nhân được các thiên thần hướng dẫn thăm thú những vùng con người thông thường không tới được. Nhiều khải huyền được biết đến nhiều hơn như Sách Đa-ni-en và Sách Khải Huyển, là các loại có tính lịch sử. Có một vài gối đầu lên nhau giữa hai tiểu loại này. Trong Sách Khải Huyền, chẳng hạn, thị nhân lên đến trời, mặc dầu không được hướng dẫn đi tham quan (Kh 4:1-2).

Các khải huyền tỉ mỉ hơn hướng về lịch sử bao gồm một cái nhìn tổng quan về toàn bộ diễn trình lịch sử, hay về một phần lớn của nó, đội lốt lời tiên tri của một nhân vật thời xưa. Kha-nốc “tiên đoán” diễn trình lịch sử từ trước Hồng Thủy; Đa-ni-en từ thời lưu đầy Babylon. Lịch sử thường được phân chia thành các thời kỳ. Trong Đa-ni-en chương 2, Vua Babylon Na-bu-cô-đô-nô-xo thấy một bức tượng được làm bởi bốn kim loại: đầu bằng vàng ròng ngực và cánh tay bằng bạc và đùi bằng đồng, và cẳng chân một phần bằng sắt một phần bằng đất xét. Đa-ni-en giải thích rằng đầu bằng vàng là chính Na-bu-cô-đô-nô-xo, còn các kim loại kia tượng trưng một loạt các vương quốc khác kém thế hơn ông. Trong bối cảnh sách Đa-ni-en, điều rõ ràng là các vương quốc này ám chỉ Mê-đi (Medes), Ba Tư, và Hy Lạp. (Vương quốc của A-lê-xan-đê bị phân chia giữa các người kế nhiệm ông, và do đó, chúng ta được cho hay các chân của bức tượng một phần bằng sắt một phần bằng đất xét). Cuối cùng, toàn bộ bức tượng đã bị phá hủy bởi một viên đá đã trở thành một ngọn núi. Điều này tượng trưng cho vương quốc Thiên Chúa. Đối với một độc giả Do Thái Giáo, ngọn núi rõ ràng biểu tượng cho Núi Sion, mặc dù điểm này không được khai triển chi tiết cho Na-bu-cô-đô-nô-xo. Những tổng quan khác về lịch sử từ kỷ nguyên Babylon trở đi được tìm thấy ở Đa-ni-en chương 7, cũng dưới hình thức 4 vương quốc, và Đa-ni-en 9, nơi lời tiên tri của Giê-rê-mi-a rằng Giêrusalem sẽ tan hoang trong 70 năm được giải thích là 7 tuần các năm. Kha-nốc, người được cho là sống trước Hồng Thủy, thấy toàn bộ lịch sử nhân loại được ghi trên các tấm bảng thiên giới, và được chia thành các “tuần” (Các tuần Khải Huyền; 1Kha-nốc 93:; 91:11-17). Một phần nữa của 1Kha-nốc, được biết như Khải Huyền Động Vật (Animal Apocalypse) (1Kha-nốc 85-90), mô tả một thị kiến của Kha-nốc trong đó mọi lịch sử Kinh thánh, bắt đầu với A-đam, được kể một cách phúng dụ, với mọi đặc điểm được mô tả như động vật.

Các tổng quan về lịch sử này có ý nghĩa nhiều cách:

Vì diễn trình lịch sử đã được biết đến, trước Hồng Thủy trong trường hợp Kha-nốc, hay trong cuộc lưu đầy Babylon trong trường hợp Đa-ni-en, xem ra nó đã được ấn định trước. Trong hầu hết Kinh thánh Do Thái, diễn trình các biến cố được các hành động nhân bản ấn định. Luận lý học của giao ước trong Đệ Nhị Luật là: nếu Israel giữ lề luật, nó sẽ sung túc; nếu không, nó sẽ bị trừng phạt. Tuy nhiên, trong văn chương khải huyền, diễn trình các biến cố không thể bị thay đổi. Đa-ni-en 9 chứa lời cầu nguyện của Đa-ni-en, trong đó ông thú nhận tội lỗi của Israel và khẩn khoản xin Chúa thương xót và phục hồi họ. Tuy nhiên, mặc khải ông nhận được vào cuối lời cầu nguyện giải thích rằng thời gian kéo dài của việc trừng phạt Israel và việc cuối cùng nó được phục hồi đã được phán quyết. Bẩy mươi tuần năm, hay 490 năm, phải qua đi trước khi được giải thoát: “Bảy mươi tuần đã được ấn định cho dân và thành thánh của ngươi, để chấm dứt gian tà, xoá sạch tội ác, đền xong lỗi lầm” (Đn 9:24). Lịch sử có riêng đà đẩy của nó, và nó không phụ thuộc sự can thiệp bất chợt, dù là về phía thần linh.

Tuy nhiên, dù dòng lịch sử có được ấn định đi nữa, điều này vẫn không có nghĩa là số phận của các hữu thể nhân bản cá nhân đã được ấn định từ trước. Trái lại, tính không thể tránh được của một số biến cố càng làm sắc cạnh thêm các quyết định mà các cá nhân phải thực hiện. Một cách đặc trưng, các tổng quan kéo dài đối với lịch sử được trình bầy như các lời tiên tri, thốt ra từ lâu. Phần lớn khoảng thời gian kéo dài của lịch sử đã qua đi lúc các tổng quan này được viết xuống. Người ta có thể nhận ra thời gian thực sự của tác giả vì ở một điểm nào đó, lịch sử được tiên đoán không còn tương ứng với các biến cố được ghi chép. Do đó, như Sách Đa-ni-en, chương 11, đã cung cấp “một tiên đoán” lịch sử chính xác cho phần lớn thời kỳ văn hóa Hy Lạp, cho tới tận và bao gồm biến cố dẹp việc thờ phượng của Do Thái Giáo bởi An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê [Antiochus Epiphanes] thời Macabê. Tuy nhiên, nó tiếp tục tiên đoán rằng vua sẽ chết “giữa biển và ngọn núi thánh quang vinh”, tức ở lãnh thổ Israel (Đn 11:45). Điều này đã không diễn ra. (Nhà vua chết ở Ba Tư sau cuộc tấn công thất bại vào đền thờ Artemis ở Elymais tháng 12 năm 164 TCN. Dựa vào nhận xét này, triết gia ngoại đạo Porphyry đã có thể suy diễn rằng các lời tiên đoán đã không được soạn thảo thời Babylon, mà đúng hơn ngay trước cái chết của An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê năm 164 TCN. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh giá cao mục đích của hư cấu. Sự kiện rất nhiều điều trong lịch sử đã hiển nhiên được tiên đoán chính xác đã gợi hứng tin tưởng vào việc tiên đoán về tương lai.

Tổng quan về lịch sử nhất định sẽ kết thúc với việc can thiệp và phán xét của Thiên Chúa. Thường thường, việc chấm dứt lịch sử được nghĩ là sắp sửa diễn ra. Sách Khải Huyền được Chúa Kitô mặc khải “để chỉ cho các tôi tớ của Người điều chẳng bao lâu nữa sẽ phải diễn ra” (Kh 1:1). Các sách khải huyền như Đa-ni-en, là sách cho là tường trình các mặc khải đã được ban nhiều thế kỷ trước đây, nhưng vẫn giữ bí mật (Đn 12:9) chuyển tải cảm thức về một sự phán xét gần kề một cách tinh tế nhiều hơn. Như đã thấy ở trên, phần lớn các tiên đoán được “tiên đoán” sau sự kiện, và như thế, các độc giả được dự kiến có thể nhận diện các biến cố thuộc thời của chính họ. Trong trường hợp Đa-ni-en, biến cố có tính dấu mốc là việc phạm thánh Đền Thờ Giêrusalem bởi An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, Vua Syria. Từ lúc xẩy ra biến cố này cho tới “tận cùng” sẽ là “một thời, hai thời và nửa thời” (Đn 7:25) hay 3 năm rưỡi. Trong một số trường hợp, thời kỳ được chỉ rõ bằng số ngày. Do đó, ở Đn 12:11, chúng ta đọc thấy: “Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày”. Một cách đáng lưu ý, câu này được tiếp nối ngay trong câu liền sau đó rằng “Phúc thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày”. Có lẽ, con số ngày thứ nhất đã qua đi, và ngày “tận cùng” không đến, nên tác giả đã tính lại. Tận cùng cũng không đến sau con số thứ hai, nhưng lời tiên tri vẫn không bị bác bỏ. Sử gia Do Thái, Josephus, viết vào khoảng hai trăm năm mươi năm sau, nói rằng Đa-ni-en là tiên tri vĩ đại nhất vì ông không những chỉ tiên đoán điều sẽ xẩy ra mà còn cho biết nó sẽ xẩy ra khi nào (Josephus, Antiquities 10.267).

Đa-ni-en ngoại thường trong toan bộ trước tước khải huyền của Do Thái khi cố gắng ấn định ngày tháng chuyên biệt cho việc can thiệp của Thiên Chúa, nhưng nét này của cuốn sách đã gây một ảnh hưởng rất lớn lao đối với truyền thống về sau. Các nhà giải thích Kitô giáo thường cho rằng các con số cần được giải thích một cách biểu tượng, đến nỗi, mỗi ngày tượng trưng cho một năm, hay một thời kỳ dài hơn. Tuy nhiên, người ta vẫn tiếp tục tiên đoán ngày tận cùng dựa trên các con số của Đa-ni-en cho tới tận thế kỷ 21. Các cố gắng quả là vô dụng. Tốt hơn nên thừa nhận với Chúa Giêsu rằng chúng ta không biết ngày, cả giờ cũng vậy (Mt 24:36; 25:13).

Cố gắng tiên đoán khoảng kéo dài của lịch sử cho thấy cả sự lôi cuốn lẫn sự vô ích của các tiên đoán khải huyền. Chắc chắn, những người chịu bách hại hay sầu khổ, bất kể người Do Thái thời An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nêhay những người khác, đều được an ủi bởi ý nghĩ thời gian không dài. Nhưng tính bất khả tín của việc tiên đoán chắ chắn cuối cùng dẫn tới thất vọng và vỡ mộng.

Còn một kỳ