Câu hỏi 96: Tại sao hiện có quá nhiều chia rẽ bên trong Kitô giáo?

Cũng như với các quan điểm khác nhau về Chúa Giêsu, chắc chắn có chỗ bên trong Kitô giáo cho tính đa nguyên hợp pháp (xem câu hỏi 7). Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa tính đa nguyên lành mạnh và các khác biệt không thể nào hòa giải. Ngay từ lúc bắt đầu của thời đại Kinh Thánh, đã có các cộng đồng khác nhau với các viễn ảnh văn hóa, ngôn ngữ, và thần học đa dạng. Cùng một lúc, người ta thấy Giáo Hội tiên khởi chật vật với vấn đề tự định nghĩa về chính mình nghĩa là điều gì hôp nhất chúng ta như một cộng đồng đức tin và điều gì phân cách hay cắt rời một ai đó khỏi cộng đồng này. Thánh Phaolô nói một cách nhấn mạnh: “Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!” (Gl 1:9). Tác giả thư 1 Gioan, khi cố gắng cứu Tin Mừng Gioan cho Giáo Hội chính thống, đã kêu gọi cộng đồng “cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không... Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi” (1Ga 4:1-3). Mátthêu khẳng định quyền lực của cộng đồng đức tin được buộc hay tha trong các vấn đề cả tín lý lẫn kỷ luật.

Việc giải thích của cộng đồng về đức tin là một diễn trình liên tục như toàn bộ lịch sử của Giáo Hội đã chứng thực. Bi thảm thay, thường vì các lý do chính trị và kinh tế nhiều hơn là vì các lý do thần học đúng nghĩa, các chia rẽ làm tan nát cõi lòng vẫn đã xẩy ra. Các chia rẽ chính là giữa người Chính Thống Giáo Đông Phương và người Công Giáo Rôma năm 1054 và giữa người Công Giáo Rôma và người Thệ Phản năm 1517. Công đồng Vatican II (1962-1965) cuối cùng đã nhìn nhận rằng tất cả chúng ta đều có tội và xa lìa vinh quang Thiên Chúa, chúng ta phải tìm lại sự hợp nhất mọi Kitô hữu, điều mà Chúa Giêsu vốn đã cầu xin cho có (Ga 17:20-21). Nhiệm vụ của phong trào đại kết không phải là giả vờ coi như lịch sử này chưa bao giờ diễn ra và đơn sơ hy vọng rằng chúng ta có thể trở về với một hoàng kim thời đại trước đây. Mọi Kitô hữu phải thừa nhận và tôn trọng lịch sử và truyền thống đặc thù của mỗi tín phái. Cùng một lúc, chúng ta phải thắng vượt tính hay chia rẽ của quá khứ (thường dựa vào các thiên kiến cho thấy chúng ta dễ xúc cảm và nói năng hoa mỹ hơn trong sự kiện) và tìm kiếm sự hợp nhất cao hơn trong Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta vốn có do phép rửa của chúng ta (Gl 3:28).

Câu hỏi 97: Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại, khoa học. Chúa Giêsu có điều gì để nói với thời đại khao học không?

Khoa học tìm cách giải thích vũ trụ vật lý của chúng ta qua các mô hình giả thiết và, nếu có tính thực tế, áp dụng kiến thức đó một cách có thể khai thác năng lực và sức mạnh của vật chất phục vụ thiện ích của con người. Các thiện ích của khoa học thì mênh mông và tôn giáo chỉ có thể ca ngợi thiên tài sáng tạo của các khoa học gia như là ơn phúc từ Thiên Chúa. Bất chấp các tranh chấp quá khứ, thường dựa trên ngu dốt và sợ hãi, không nên có bất cứ thù nghịch nào giữa khoa học và tôn giáo. Chúng đơn giản chỉ chuyển dịch trên các bình diện khác nhau mà thôi, nhưng cả hai đều nhằm làm cho thế giới nên nhân bản hơn.

Một quan tâm chung của cả khoa học lẫn tôn giáo ngày nay là sinh thái. Tưởng tượng trái đất như mẹ và bầu trời như cha là một ẩn dụ tôn giáo có thể lội cuốn hay không đối với tâm trí con người hiện đạiNhưng, không giống như quan điểm máy móc về vũ trụ do Newton đề xướng, Các khoa học gia ngày nay ngày càng thừa nhận hơn rằng vũ trụ là một cơ thể sinh động và sôi nổi trong đó mọi thành phần đều nối kết với nhau và do đó gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi mọi thành phần khác. Phong trào duy nữ và sinh thái, cả hai phát xuất từ các quan tâm tôn giáo, nhấn mạnh tới tính nối kết, các mối tương quan, việc chăm sóc và quan tâm nuôi dưỡng người khác, cảm thức trách nhiệm xã hội, những điều ngày càng lên đặc điểm cho thời đại ta.

Chúa Giêsu là một con người của thời đại Người và do đó bị giới hạn bởi kiến thức khoa học của thời đại của Người. Nhưng Người quả mang vào ý thức nhân bản một cảm thức về mầu nhiệm thần linh tại tâm điểm vạn vật, một mầu nhiệm thần linh vốn có tính tương quan và yêu thương, khẳng định và lên sinh lực mà không hề có tính cạnh tranh hay cưỡng chế. Điều Chúa Giêsu muốn nói với các khoa học gia chỉ là thế này: đừng trở thành tác nhân của tha hóa, thống trị, cưỡng chế và cạnh tranh. Một phương thức như thế có thể đem lại cho các anh các chiến thắng ngắn hạn trong nghệ thuật thao túng nhưng nó sẽ không bao giờ dẫn các anh vào việc hiểu biết và đánh giá cao mầu nhiệm là vũ trụ vật lý của chúng ta.

Câu hỏi 98: Mỗi Chúa nhật, chúng ta đều đọc: “Chúng tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Điều này có nghĩa gì?

Câu này lấy từ “Kinh Tin kính Nixêa”, vốn thực sự được lên công thức tại Công đồng Constantinốp lần thứ nhất năm 381. Công đồng sử dụng ngôn ngữ khải huyền của Kinh Thánh. Việc phục sinh của Chúa Giêsu là một biến cố khải huyền (xem câu hỏi 71). Trong tư cách ấy, nó biểu thị tận cùng của lịch sử và phán xét cuối cùng; thế nhưng lịch sử vẫn tiếp tục. Người Biệt phái, và nhiều người khác, có chung một loại trông đợi nào đó về sự phục sinh phổ quát vào ngày tận cùng thời gian. Điều độc đáo đối với đức tin Kitô giáo là chủ trương cho rằng con người Giêsu này đã trỗi dậy một cách dự ứng trước ngày tận cùng. Nơi Chúa Giêsu, dự định thần linh đã được mạc khải, thế nhưng niềm hy vọng của chúng ta là cả chúng ta nữa cũng sẽ được trỗi dậy trong Người (Rm 6:5-11). Như thế, “kẻ chết sống lại” như biến đổi sau cùng của mọi sự trong Chúa Kitô vẫn còn cần phải diễn ra. Bao hàm toàn bộ lịch sử, nó sẽ thực sự là tận cùng của lịch sử như chúng ta biết nó.

Nên lưu ý rằng việc biến đổi này trải dài toàn bộ sáng thế. Như J. Moltmann từng chỉ rõ, không những lịch sử nhân bản mà cả biến hóa cũng có các nạn nhân của nó. Điều này có nghĩa: việc Chúa Giêsu đến vào ngày tận thế sẽ biểu thị ơn cứu chuộc không những cho con người mà còn cho cả biến hóa nữa. Đó là lý do tại sao, ẩn dụ phục sinh hết sức quan trọng. Hình ảnh này vươn xa để bao gồm toàn bộ vũ trụ vật lý trong mọi biểu hiện của nó từ viên đá đơn giản nhất tới những thuần thần tinh tế nhất. “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8:22-23). Hình ảnh sinh nở thích đáng xiết bao. “Sự sống đời sau” sẽ bao gồm mọi con cái từ mẹ đất sinh ra: “Hoa trái đầu mùa” là Chúa Giêsu Kitô, rồi đếnnnhững kẻ thuộc về Người (1Cr 15:23), những kẻ có “hoa trái đầu mùa của Thần Khí”, rồi đến toàn bộ sáng thế để cuối cùng “Thiên Chúa là tất cả trong tất cả” (1Cr 15:28). Chúng ta phải tưởng tượng đời sau này ra sao? Chắc chắn không như một nơi hoàn toàn khác, thuộc thế giới khác, xa lạ, không một chút nối kết nào với trái đất này! Đúng hơn, nó sẽ là thế giới này, cũng một thế giới này, nhưng đã được biến đổi bởi quyền năng đầy sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa thành hợp nhất với sự sống thân linh, một toàn bộ toàn vẹn, thành sự sống đời đời nơi sự chết không còn bất cứ quyền lực nào nữa. Đó chính là điều phục sinh muốn nói (xem câu hỏi 68).

Câu hỏi 99: Còn về hoả ngục? Há Chúa Giêsu chẳng nói rằng những kẻ làm điều dữ sẽ bị ném vào lửa nơi khóc lóc và nghiến răng sao?

Đã có một ám chỉ như thế trong giải thích của Mátthêu về dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13:36-43). Lửa là một hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh về phán xét (thí dự Mc 9:42-48; Mt 3:10-12; 7:19). Hình ảnh này phát xuất từ lửa phán xét bừng cháy trong thung lũng Hinnom (Grm 7:32; 19:6; Is 66:24) được gọi là “Gehenna” trong Tân Ước. Cựu ước cũng nhắc đến “sheol”, thế giới tối tăm của người chết. Điều mà các tiên tri, thánh Gioan Tẩy giả, và Chúa Giêsu muốn truyền tải bằng hình ảnh này là: tầm quan trọng tối cao của quyết định nhân bản cả cho đời này lẫn cho đời sau. Nó không phải là vấn đề Thiên Chúa trả thù hay trừng phạt võ đoán. Đúng hơn, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta có ý chí tự do và tôn trọng các hậu quả của các chọn lựa của chúng ta, dù cho các lựa chọn này bao gồm việc chúng ta quay lưng khỏi vị Thiên Chúa vốn là nguồn sống duy nhất này.

Giáo Hội vốn định tín rằng có hỏa ngục, nhưng quả là vô ích khi suy đoán nó ra sao hay nó ở đâu và liệu có ai ở trong nó hay không. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện các phán đoán này. Tuy nhiên, để tưởng tượng hỏa ngục, ta chỉ cần nhìn các thứ hỏa ngục do con người tạo ra qua chiến tranh, hận thù sắc tộc, tra tấn, tàn sát, bỏ đói hàng loạt v.v... trong thế giới ngày nay. Điều quan trọng trong tín lý của Giáo Hội về hỏa ngục không phải là khả năng của chúng ta tưởng tượng ra các hành khổ cực kỳ về thể lý kéo dài mãi mãi, nhưng là cảm thức được sự mất mát khôn tả sẽ xẩy ra nếu chúng ta tự làm cho mình, qua các lựa chọn của mình, thành đời đời mất khả năng trở về với tình yêu của Thiên Chúa. Chính sự nồng ấm sâu đậm của tình yêu Thiên Chúa và việc chúng ta mất khả năng đáp ứng tình yêu này sẽ đời đời hành hạ chúng ta. Tất cả những điều này muốn nói: Thiên Chúa coi trọng những điều chúng ta làm, việc chúng ta đáp ứng ra sao đối với các sáng kiến thần linh có tạo ra sự khác biệt đối với việc tạo hình dạng cho đời sau. Đây là một vị Thiên Chúa đối thoại, Đấng muốn chúng ta trở thành các hữu thể nhân bản trọn vẹn và tự do mãi mãi sống bên trong vòng tình yêu thần linh, nhưng là Đấng tôn trọng tự do bản vị của chúng ta coi nó như thánh thiêng và bất khả xâm phạm.

Câu hỏi 100: Việc tái lâm của Chúa Giêsu sẽ ra sao?

Điều xem ra rõ ràng là các cộng đồng Kitô giáo tiên khởi có một trông đợi rất mạnh Chúa Giêsu sẽ trở lại bất cứ lúc nào như Con Người. Thánh Phaolô thậm chí xem ra còn iả định rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong sinh thời của một số người ngài viết thư cho (1Tx 4:13-5:11; 1Cr 15:50-52). Thế nhưng, Người cũng sẽ trở lại khi người ta ít ngờ nhất “như một tên trộm vào ban đêm” (1Tx 5:2; Mt 24:43-44), nên điều tốt hơn hết mà chúng ta có thể làm là sẵn sàng. Đây là điểm chính trong các diễn từ khải huyền của các Tin Mừng nhất lãm (Mc 13:1-37 các song hành). Gioan cho thấy ít cảm thức khẩn trương hơn, vì những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô thì đã đang trải nghiệm được sự sống đời đời rồi. Thế nhưng, Sách Khải huyền, vốn phát xuất từ cộng đồng Gioan, kết thúc với hoài mong của mọi Kitô hữu: “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22:20).

Hình ảnh Con Người đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang (Mc 13:26 song hành) nhằm mục đích nói rằng khi thời khắc cuối cùng tới không ai không thấy hay tránh khỏi nó. Đó là thời khắc phán xét cuối cùng và dứt khoát. Nhưng chúng ta có thể làm gì đối với sự kiện cả hai ngàn năm sau, chúng ta vẫn còn phải chờ thời khắc đó? Người ta chỉ có thể suy đoán. Nhưng nếu chúng ta coi trọng sự kiện Chúa Giêsu đã thất bại trong sứ mệnh trần thế của Người và do đó, chúng ta tiếp tục sống dưới dấu thập gía, thì có lẽ ý định sáng tạo của Thiên Chúa để biến đổi thế giới bao gồm việc hủy diệt “mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần”, “mọi kẻ thù của Người”, mà kẻ thù cuối cùng là sự chết, đơn giản chỉ cần nhiều thời gian và không gian hơn mà thôi. Luca xem ra cảm thức được sự kiện chúng ta đang ở trong trạng huốn này lâu dài hơn tưởng tượng lúc ban đầu: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1:7). Chúng ta vẫn phải tín thác vào sựquan phòng của Thiên Chúa (xem câu hỏi 64). Niềm hy vọng của chúng ta vẫn còn đó như đã được thánh Phaolô mô tả cách đẹp đẽ: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21). Amen, Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!

Câu hỏi 101: Cha nghĩ điều gì sẽ diễn ra nếu Chúa Giêsu tái lâm ngày hôm nay?

Tôi nghĩ Người có thể hỏi cùng câu hỏi Người đã hỏi các môn đệ đầu tiên của Người ở Xêdarê Philípphê “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mc 8:29 song hành). Phân tích đến cùng, không phải nhiều câu hỏi chúng ta hỏi Chúa Giêsu quan trọng cho bằng câu hỏi chủ yếu Người hỏi chúng ta. Và chúng ta trả lời ra sao? Thậm chí chúng ta bắt đầu trả lời ra sao nếu chúng ta không vác lấy thập giá của chúng ta và lên đường theo chân Người? Điều Máccô dạy chúng ta là: sẽ không thể có câu trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai cũng như chúng ta là ai trong tư cách môn đệ, nếu chúng ta không cảm nghiệm được việc Người chết ra sao (Mc 15:39). Phêrô từng tuyên bố rằng ngài thà chết còn hơn bác bỏ Người (Mc 14:27-31), nhưng ngài đã bác bỏ Người. Thế nhưng, nghịch lý và mầu nhiệm sự sống là những người chết lại là những người mang lại nhiều hoa trái (Ga 12:24-26). Sau cùng, điều đáng kể là làm theo thánh ý Chúa Cha bằng cách lên đường theo chân Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần của sự thật và sự sống.

Giải thích một số từ ngữ

Xin lưu ý: Các ngoặc đơn chỉ nơi từ ngữ xuất hiện lần đầu tiên

Các công đồng (Dẫn nhập): dựa trên mô hình cuộc gặp gỡ của Phêrô và Phaolô với các nhà lãnh đạo cộng đồng Giêrusalem ở Cv 15 và vào nhu cầu ngày càng lớn của các cộng đồng địa phương do các Giám Mục dẫn dắt phải khai triển các mối liên kết với các cộng địa phương khác, các tham khảo của các Giám Mục tụ họp với nhau và bao gồm sự tham dự của giáo dân đã bắt đầu vào năm 175 và phát triển thành các công đồng “chung” hay toàn thế giới thời Constantinô năm 325. Các công đồng chung được các hoàng đế triệu tập và các sắc lệnh của chúng, cả tín lý lẫn kỷ luật, có hiệu lực phổ quát. Bẩy công đồng đầu tiên từ Nixêa I (325) tới Nixêa II (787) thẩy đều bàn tới các vấn đề chính của Kitô học.

Các Giáo phụ (Dẫn nhập): thường được nhắc đến như là thời kỳ “giáo phụ”, bao gồm các trước tác của các tác giả Kitô giáo hậu Tân Ước từ thời Thánh Inhaxiô thành Antôkia (qua đời năm 110) đến Thánh Gioan Đamátcô (qua đời năm 749).Đây cũng là thời kỳ của bẩy công đồng chung đầu tiên (xem trên).

Các kinh tin kính (Dẫn nhập): các công thức được chính thức công nhận về đức tin Kitô giáo. Chúng có thể ngắn như công thức của Tân Ước: “Đức Giêsu là Chúa!” hoặc dài như Kinh Tin Kính Nixêa đọc hàng tuần trong các nhà thờ.

Cánh chung học (câu hỏi 70): phát xuất từ chữ Hy Lạp, chỉ chung cuộc (eschaton) và học hỏi (logos), đây là môn học về ý định cuối cùng của Thiên Chúa đối với toàn bộ sáng thế và nhất là đối với con người. Phục sinh đôi khi được gọi là biến cố “cánh chung” hay “khải huyền” do việc dự ứng sự tái lâm của Chúa Kitô và việc xử lý sau cùng đối với mọi sự.

Cứu thế học (câu hỏi 77): từ chữ Hy Lạp chỉ sự cứu rỗi (sōteria) và học hỏi (logos), đây là việc nghiên cứu ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi hay giải phóng sáng thế. Việc này chủ yếu được mạc khải trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (câu hỏi 75), dù không hoàn toàn như vậy. Kitô học và cứu thế học, tức là việc Chúa Giêsu là ai và Người đã hoàn tất những gì, có liên hệ hết sức gắn bó với nhau.

Khải huyền (Câu hỏi 33) do chữ Hy Lạp chỉ mạc khải (apocalypsis), thường để chỉ loại văn chương phổ biến nơi cả người Do Thái lẫn Kitô hữu trong khoảng từ năm 200 TCN tới năm 200 CN. Cuốn cuối cùng của Tân Ước, vốn đặc trưng cho loại văn chương này, có tên là Khải Huyền hay Mạc Khải cho Gioan. Viết trong thời bách hại, loại văn chương này dùng ngôn từ và hình ảnh che đậy hay có tính biểu tượng để mang lại niềm hy vọng cộng đồng vào một chiến thắng sau cùng và niềm khích lệ để họ kiên tâm. Hình thức cực đoan của khải huyền trông đợi “các dấu lạ” để tiên đoán chính xác ngày tận thế diễn ra khi nào, ở đâu, và cách nào, nhưng khải huyền của Kinh Thánh là loại văn chương có tính phản kháng từ nền tảng, dựa vào Thiên Chúa để thể hiện các niềm hy vọng của cộng đồng. Đối với các Kitô hữu, “biến cố khải huyền” sau cùng và dứt khoát diễn ra trong biến cố phục sinh của Chúa Giêsu (xem các câu hỏi 68,71,98).

Khoa phê bình Kinh Thánh (Dẫn nhập): áp dụng lý trí nhân bản (do đó, “khoa phê bình”) vào các bản văn của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Lý lẽ này có thể là lịch sử, triết học, kinh nghiệm, văn chương v.v...Các phương pháp đã được khai triển để tương ứng với các loại câu hỏi được nêu ra. Việc khai triển khoa phê bình Kinh Thánh “hiện đại” thường được địnhniên biểu từ thời phong trào Ánh Sáng thế kỷ 18.

Mạc khải (Câu hỏi 12): Việc tự thông đạt của Thiên Chúa như qua trung gian thiên nhiên, lịch sử, kinh nghiệm bản thân v.v... Đối với các Kitô hữu, việc Thiên Chúa tự thông đạt chủ yếu phát xuất qua Chúa Giêsu, Đấng mạc khải tực tại thần linh một cách sau cùng và dứt khoát trong biến cố phục sinh. Mọi điều cho là mạc khải khác phải nhất quán với mạc khải một lần vĩnh viễn này (xem các câu hỏi 67-75).

Tin mừng nhất lãm (Dẫn nhập): Các Tin Mừng Mátthêu, Máccô và Luca, gọi thế vì có thể đặt chúng vào những cột song hành để thấy chúng có bao nhiêu tư liệu chung với nhau. Trong khi Tin Mừng Gioan tuy có một số tư liệu chung với ba Tin Mừng này, nhưng nó rất khác cả về đề cương lẫn về nội dung.

Thư Mục

Đề nghị để đọc thêm

Marcus J. Borg, Jesus: A New Vision, Spirit, Culture, and the Life of Discipleship [Chúa Giêsu: Viễn kiến, Tinh thần, Văn hóa mới, và đời sống làm Môn đệ]. San Francisco: HarperCollins, 1987.

Raymond e. Brown, Responses to 101 Questions on the Bible [Trả lời 101 Câu hỏi về Kinh Thánh]. Mahwah: Paulist Press, 1990.

Michael L. Cook, Guidelines for Contemporary Catholics: The Historical Jesus [Các Hướng dẫn dành cho Người Công Giáo: Chúa Giêsu Lịch sử]. Chicago: The Thomas More Press, 1986.

Bernard J. Cooke, God’s Beloved: Jesus’ Experience of the Transcendent [Người được Thiên Chúa Yêu thương: Trải nghiệm Đấng Siêu việt của Chúa Giêsu]. Philadelphia: Trinity Press International, 1992.

James W. Douglass, The Nonviolent Coming of God [Việc Xuất hiện Bất Bạo động của Thiên Chúa]. Maryknoll:Orbis Books, 1991.

Joseph A. Fitzmyer, A Christological Catechism. New Testament Answers [Sách Giáo lý Kitô học. Các Câu Trả lời của Tân ước]. Ramsey: Paulist Press, 1982.

Andrew M. Greeley, The Jesus Myth. New Insights into the Person and Message of Jesus [Huyền thoại Giêsu. Những Tầm nhìn thông sáng mới vào Con người và các Sứ điệp của Chúa Giêsu], New York: Doubleday Image Books, 1973.

Monika K. Hellwig, Understanding Catholicism [Hiểu Đạo Công Giáo]. Ramsey: Paulist Press, 1981.

Monika K. Hellwig, Jesus, The Compassion of God [Chúa Giêsu, Lòng Cảm thương của Thiên Chúa]. Wilmington: Michael Glazier, 1983.

Elizabeth A. Johnson, Consider Jesus. Waves of Renewal in Christology [Hãy Xem xét Chúa Giêsu. Các đợt Canh tân trong Kitô học]. New York: Crossroad, 1990.

John P. Meier, A Marginal Jew. Rethinking the Historical Jesus [Một Người Do thái Bên lề. Suy nghĩ lại về Chúa Giêsu Lịch sử]. New York: Doubleday, 1991.

Juergen Moltmann, The Way of Jesus Christ, Christology in Messianic Dimensions [Con đường Chúa Giêsu Kitô, Kitô học trong các Chiều kích Thiên sai của nó]. San Francisco: HarperCollins, 1990.

Albert Nolan, Jesus Before Christianity [Chúa Giêsu trước Kitô giáo]. Revised Edition. Maryknoll: Orbis Books, 1992.

Janoslav Pelikan, Jesus Through the Centuries: His Place in the History of Culture [Chúa Giêsu qua các Thế kỷ: Vị trí của Người trong Lịch sử Văn hóa]. New Haven: Yale University Press, 1985.

Sandra M. Schneiders, Women and the Word. The Gender of God in the New Testament and the Spirituality of Women [Phụ nữ và Ngôi Lời. Phái tính của Thiên Chúa trong Tân Ước và Linh đạo Phụ nữ]. Mahwah: Paulist Press, 1986.

Gerard S. Sloyan, Jesus in Focus. A Life in its Setting [Chúa Giêsu trong tập chú. Một Cuộc đời trong Khung cảnh của nó]. Mystic: Twenty-Third Publications, 1983.

Gerard S. Sloyan, The Jesus Tradition. Images of Jesus in the West [Truyền thống Giêsu. Các Hình ảnh của CHúa Giêsu ở Phương Tây]. Mystic: Twenty-Third Publications, 1986.