Truyện phim ĐGH John Paul II: Cuộc đời trước khi làm Giáo Hoàng (phần II)
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với qúi vị cuốn DVD Cuộc Đời ĐGH John Paul II do VietCatholic Media vừa hoàn thành và phát hành trong dịp Đại Hội Thánh Mẫu Dòng Đồng Công tuần này.
Đây là một công trình nghiên cứu chi tiết và tóm lược có thể khẳng định là đầy đủ nhất,(chúng tôi đã từng xem chừng 10 bộ film Anh, Pháp, Ý, Ba Lan và Việt Nam, nhưng khi so sánh chưa có bộ nào đầy đủ bằng bộ film này về những biến cố trong Giáo Hội và ngoài Thế giới liên quan tới Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II). Chúng tôi phải mất 3 tháng trời đi tìm tài liệu, hình ảnh, và hệ thống hóa lại tất cả những biến cố và những thời điểm quan trọng liên quan tới Đức Cố Giáo Hoàng. Những tư liệu và hình ảnh cho chính VietCatholic đã quay film, những hình ảnh từ văn khố Vatican, hoặc từ Đài Truyền Hình Vatican, và do chính Bảo Tàng Viện quê hương Balan của Đức Thánh Cha.
DVD này lược tóm trọn cuộc đời của Đức John Paul II:

Truyện Phim: CUỘC ĐỜI TRƯỚC KHI LÀM GIÁO HOÀNG
Karol Józef Wojtyła, ra đời vào ngày 18-5-1920 tại một thành phố nhỏ bé là Wadowice, gần thủ phủ thời danh Cracow, thuộc nước Ba Lan.
Nhà thờ này chính là nơi mà em bé Karol đã được sinh ra trong đức tin, học biết về tình yêu Thiên Chúa và bắt đầu cho hành trình Đức Tin của mình.
Chính tại giếng rửa tội này mà Karol đã được lãnh bí bích thánh tẩy, gia nhập đại gia đình của Thiên Chúa.
Đây chính là sổ rửa tội ghi lại chi tiết và chứng từ cho biết Wojtyla khi rửa tội lấy tên thánh là Karol.
Ngôi nhà nơi Karol được sinh ra, ngày nay trở thành bảo tàng viện lưu trữ những kỉ vật và biến cố cuộc đời của vị giáo hoàng người Balan.
Cha của Karol là ông Joseph và mẹ là bà Emilia. Cha làm nghề thợ may sau đó gia nhập vào quân ngũ và là viên chức quản trị trong đội quân Áo quốc, sau đó trở thành trung úy trong quân đội Balan cho tới năm 1927 thì hồi hưu và qua đời năm 1941.
Mẹ của Karol là bà Emilia Kắc-zô-rôs-ka, người nội trợ chăm sóc gia đình, và bà cố qua đời năm 1929.
Karol có một người anh lớn tên là Edmund hành nghề bác sĩ và qua đời năm 1932.
Năm lên 6 tuổi, nhập trường mẫu giáo và học tiểu học, trong suốt thời gian này, Karol luôn được điểm tốt đứng dầu hạng trong lớp.
Lúc lên 9 tuổi, được chịu lễ lần đầu, và trong năm đó cũng là lúc mẹ ngài qua đời. Tại nhà thờ giáo xứ của Karol có ảnh Đức Mẹ hằng cứu giúp, và cậu bé Karol hay tới đây cầu nguyện trước tượng Mẹ, do đó long kính mến Đức Mẹ cách rất đặc biệt của vị giáo hoàng tương lai cũng đã được phát sinh ngay từ thời gian ấu thơ tại đây.
Cậu bé Karol cũng hay đi hành hương tại trung tâm hành hương Đức Mẹ Đen của Ba Lan, một trung tâm hành hương nổi tiếng. Sự tích Đức Mẹ Đen…
1.30.05= Cũng tại nơi này cậu Karol đã đi Đàng Thánh Giá và nguyện ngắm về sự thương khó của Chúa Giêsu, một trong các việc đạo đức mà đã ảnh hưởng tới suốt đời sống của Đức John Paul II sau này.
Lớn lên, Karol theo học trường trung học Marcin Wadowita từ năm 1934 tới 1938. và trong khi còn học trung học đệ nhị cấp, là chủ tịch Hội Đức Mẹ Maria, và tham dự chuyến hành hương đầu tiên tới trung tâm Đức Mẹ Częstochowa. Năm 1938 lúc 18 tuổi theo học lớp huấn luyện quân sự ở Hermanice.
Sau khi mãn trung học, rồi vào tháng 6 cùng năm 1938, thanh niên Karol ghi tên theo học Ngành Triết học tại đại học Jagellonian ở Craków. Cũng trong niên khóa này, Karol gia nhập nhóm "Studio 38", nhóm sân khấu được giáo sư thành lập Tadeusz. Karol theo học ngành khịch nghệ và nghệ thuật trình diễn sân khấu ở Wadowice; bà Halina Kwi-a-thows-ka là bạn học trong nhóm kịch nghệ, đã kể lại rằng chàng thanh niên Karol đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc đối với bà và các bạn trong trường sân khấu. Bà nói bà rất hân hạnh được là bạn đồng song và diễn chung với Karol. Tuy nhiên là nói rằng khi nghe tin Karol có ý định theo đuổi ơn kêu gọi làm linh mục thì bà rất lấy làm bỡ ngỡ, vì thấy thanh niên Karol là người thong minh, có nhiều tài, nhất là thích thể thao, biết làm thơ và đóng kịch, và có một tương lai sán lạn, nhưng đùng một cái lại đi tu”.
Thực tế, Karol là một thanh niên thích thể thao, là thủ môn bóng tròn, bơi thuyền, vượt thác, leo núi, và là lực sĩ bơi lội.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, thế chiến II bùng nổ. Lực lượng quân phiệt Nazi chiếm đóng Ba lan và đóng cửa đại học, sinh viên cũng tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân Nazi Đức quốc xã xâm lăng.
Để được sinh sống và tránh bị quân Đức quốc xã bắt lưu đầy sang Đức, Karol phải đi làm việc trong hầm mỏ và từ năm 1942 làm việc trong xưởng chế hóa học. Cũng trong thời gian này ghi tên theo học các lớp tu đức tại một đại chủng viện “chui” do ĐHY Adam Stefan Sapieha, TGM Cracow điều hành, đang khi vẫn ghi tên học phân khoa thần học tại đại học Jagellonian.
Thế chiến thứ Hai đã reo rắc biết bao tang thương cho dân chúng, và chính Đức John Paul II đã kể lại kinh nghiệm này như sau: Ngài đã từng phải chứng kiến những nỗi thống khổ của người dân, cảm nghiệm được nỗi đau của một dân tộc bị mất quyền tự quyết, những bất công và sự chà đạp phẩm giá con người”. Những kinh nghiệm này đã là hành trang qúi giá cho sứ mạng tương lai của Karol, một người người tranh đấu không sợ sệt cho lẽ phải, cho tự do và nhân quyền.
Đây là quang cảnh chủng viện Cracow. Chủng viện này được mở lại sau chiến tranh. Karol tiép tục theo đuổi con đường ơn kêu gọi làm linh mục của mình và theo học tại đại chủng viện này. Chính Đức John Paul II kể lại kinh nghiệm này như sau: “Khi đó tôi theo học thần học và trong một hoàn cảnh rất là khó khăn… nhưng ơn gọi của tôi như là một huyền nhiệm mà Chúa đã thương ban. Chúa gọi tôi trở nên một người phục vụ Lời Chúa, một người ban phát bí tích thánh và con người cử hành mầu nhiệm Đức Tin”.
Thầy Karol được thụ phong linh mục tại Cracow ngày lễ Các Thánh ngày 1-11-1946. Một niềm hạnh phúc tràn đầy vì đã đạt được ý nguyện dâng mình phục vụ dân Chúa.
Thánh lễ đầu tiên của ngài được cử hành tại nhà thờ chính tòa thành Crakcow, ngay tại bàn thờ mà chúng ta đang quan sát. Nhà thờ chính tòa này cũng là nơi mà ngài đã từng cầu nguyện, giải tội, linh hướng và cử hành các bí tích cho dân chúng.
Liền sau đó, ĐHY Sapieha gửi ngài sang Roma du học trường thánh Toma, đại học Angelicum và dưới sự hướng dẫn của linh mục dòng Đa Minh người Pháp là Cha Garrigou-Lagrange. Ngài trình tiến sĩ thần học năm 1948 với đề tài “Những vấn đề Đức Tin trong các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá”.
Cũng trong thời gian này, vào mùa Hè, linh mục Karol thường thi hành công tác mục vụ giúp cho người di dân Balan sống tại các quốc gia như ở Pháp, Bỉ và Hòa Lan.
Rồi vị linh mục trẻ tuổi này trở về Balan, và vào tháng 8 năm 1948 được bổ nhiệm là phó xứ Niegowić và một số các giáo xứ khác trong giáo phận Cracow.
Dù coi xứ đạo nào chăng nữa, Cha Karol cũng luôn gần gủi với giới trẻ và sẵn sang hướng dẫn đời sống tâm linh cho các sinh viên và bạn trẻ. Ngài nhận làm tuyên úy cho sinh viên đại học cho tới năm 1951, lúc đó lại tiếp tục ghi tên theo học thêm về ngành triết học và thần học.
Vào cuối năm 1953 ngài trình luận án tiến sĩ với đề tài “Thẩm định giá trị về khả năng đạo đức Công giáo dựa trên hệ thống đạo đức của Max Scheler" tại trường đại học Công giáo Lublin. Và sau đó được mời dạy tại phân khoa Thần học đại học này ở Cracow.
Một trong những công tác mà ngài quan tâm nhất cho giới trẻ là linh hướng cho họ và ban bí tích hòa giải cho họ, đặc biệt tại giáo xứ Santa Maria này đã trở nên trung tâm thu hút giới trẻ. Các người quen biết ngài đều nhận định rằng ngài là vị linh hướng tuyệt vời.
Vào tháng 7 năm 1958, vị linh mục trẻ tuổi Karol Wojtyla đã đến vùng bờ hồ Masuri để nghĩ hè cùng với một nhóm những người bạn trẻ say mê môn chèo thuyền. Thế nhưng vị linh mục trẻ ấy lại mang theo mình một lá thư mời gọi Ngài hãy gọi điện thoại cho Đức Tổng Giám Mục của Ba Lan, là Đức Hồng Y Wyszynski. Ngài có thể đoán được mục đích của buổi gặp mặt là gì, đó là việc Ngài được chỉ định để trở thành Giám Mục Phụ Tá của Krakow.
Vào ngày 4-7-1958, ngài được ĐGH Piô XII bổ nhiệm làm giám mục phụ tá cho Đức TGM Eugeniusz Baziak ở Craków, và được phong chức giám mục ngày 28-9 tại nhà thờ chính tòa Wavel.
Tại nhà thờ này, nơi có ảnh Đức Mẹ Yên Ủi, ngài thường qùi tại bàn qùi này cầu nguyện lâu giờ. Sau đó đi dường thánh giá và hướng dẫn giáo dân nhất là các bạn trẻ suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Rời thế giới tri thức, từ bỏ những cuộc gắn bó, gặp gỡ đầy tính thách đố với những người trẻ, rời bỏ thế giới uyên thâm nhằm muốn tìm hiểu và diễn dịch về bí mật của tự nhiên, mà chính con người và thế giới Kitô giáo đang muốn tìm hiểu về lý do hiện diện của mình nơi trần gian-tất cả những điều đó, đối với vị linh mục trẻ này, cũng giống thể như là việc mất đi chính bản thân mình, việc mất đi điều đã trở thành nhân dạng của con người. Karol Wojtyla chấp nhận sự bổ nhiệm đó, vì Ngài đã lắng nghe được tiếng gọi Chúa Kitô qua Giáo Hội.
Năm 1962 ngài được cử vào Ủy Ban Giáo Dục của Hội Đồng Giám Mục Balan. Và vào tháng 10 năm 1962 ngài được cử sang Roma tham dự Công Đồng Chung Vatican II. Ngoài việc tham dự Công Đồng Vatican II, ngài còn đóng góp phần quan trọng soạn thảo Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” và tham gia vào tất cả các cuộc họp của Thượng Nghị Hội Giám Mục Thế Giới.
Thế rồi vào ngày 13-1-1964, ngài được ĐGH Phaolô VI cử làm TGM của thành Cracow.
Ngày 29-12-1966 Uỷ ban Giám Mục Tông Đồ Giáo Dân được thành lập và ngài được cử giữ chức chủ tịch. Và sang năm sau vào tháng 4 ngài tham dự Nghị Hội Giáo Dân đầu tiên được tổ chức tại Vatican.
Vào ngày 28-6-1967, ngài được ĐGH Phaolô VI nâng ngài lên chức hồng y. Trong thời gian năm 1968 này ngài thăm viếng tất cả 120 giáo xứ trong tổng giáo phận Cracow và cổ động lòng tôn sùng Đức Bà Đen của Kraków.
Khi làm hồng y, ngài vẫn không quyên sang tác. Một nữ tu già kể đang chỉ cho thấy nơi phòng ngài làm việc, đây còn giữ lại kịch bản sang tác của ngài, nơi ngài cầu nguyện và suy niệm.
Ngài là người thích thiên nhiên, nên tại Alberto với khung cảnh thiên nhiên hữu tình, ngài cũng đã sang tác những vần thơ. Ngài đã nhiều lần tĩnh tâm, ngoạn cảnh và đến thăm nhà nguyện Santa Alberta hoang dã, nơi bồi bổ tâm hồn, nơi yên tĩnh để lấy lại sức thiêng.
Để mở rộng tầm hiểu biết, vào tháng 9 năm 1969, ngài thăm viếng Hoa Kỳ và trong năm 1970 ngài tiếp tục thăm viếng, tìm hiểu, chia sẻ kinh nghiệm tại nhiều nhiều quốc gia ở Châu Âu.
Vào ngày 5-10- 1971 ngài được bầu làm làm tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới.
Tháng 3 năm 1973, ngài tham dự Đại Hội thánh Thể tại Úc châu, tiếp đến thăm viếng Phi luật tân, và sau đó thăm Bỉ và Pháp quốc.
Vào ngày 3-10- 1978, Ngài về Roma tham dự tang lễ Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô I vừa mới qua đời và tham dự Mật Viện bầu tân giáo hoàng.
(... còn tiếp)
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với qúi vị cuốn DVD Cuộc Đời ĐGH John Paul II do VietCatholic Media vừa hoàn thành và phát hành trong dịp Đại Hội Thánh Mẫu Dòng Đồng Công tuần này.
Đây là một công trình nghiên cứu chi tiết và tóm lược có thể khẳng định là đầy đủ nhất,(chúng tôi đã từng xem chừng 10 bộ film Anh, Pháp, Ý, Ba Lan và Việt Nam, nhưng khi so sánh chưa có bộ nào đầy đủ bằng bộ film này về những biến cố trong Giáo Hội và ngoài Thế giới liên quan tới Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II). Chúng tôi phải mất 3 tháng trời đi tìm tài liệu, hình ảnh, và hệ thống hóa lại tất cả những biến cố và những thời điểm quan trọng liên quan tới Đức Cố Giáo Hoàng. Những tư liệu và hình ảnh cho chính VietCatholic đã quay film, những hình ảnh từ văn khố Vatican, hoặc từ Đài Truyền Hình Vatican, và do chính Bảo Tàng Viện quê hương Balan của Đức Thánh Cha. DVD này lược tóm trọn cuộc đời của Đức John Paul II:
- Thời thơ ấu, lớn lên và trưởng thành
- Những vất vả theo đuổi ơn kêu gọi thời thế chiến II khi Đức quốc xã chiếm đóng,
- Khi làm linh mục và những hoạt động với giới trẻ
- Cuộc đời mục vụ giám mục và tham dự Công Đồng Vatican II.
- Ngày đáng nhớ được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 16/10/1978
- Theo thứ tự 26 năm cuộc đời Giáo Hoàng với những biến cố, những Sắc Lệnh và những Thông điệp quan trọng
- Những cuộc tông du thăm các quốc gia trên thế giới
- Những đại hội giới trẻ
- Nỗ lực Đại kết Liên Tôn
- Những đối đầu với cục diện chính trị và chiến tranh và Hòa bình thế giới.
- Và cuối cùng Thánh Lễ An Táng rất trọng thể của vị cha chung,
- DVD được thuyết minh và giải thích tường tận,
- Âm thanh rõ ràng.
- Hình ảnh lịch sử và huy hoàng.
- Trình bày nghệ thuật, công phu và điêu luyện.
- DVD dài trên 2 giờ đồng hồ được in trên loại DVD đặc biệt tối tân nhất hiện nay.
- DVD này hiện đang được trưng bày tại gian hàng VietCatholic tại Đại Hội Thánh Mẫu 2005 tại Dòng Đồng Công.
- Phải tìm cho đúng hình bìa như sau mới là đích thực DVD giá trị của VietCatholic

Truyện Phim: CUỘC ĐỜI TRƯỚC KHI LÀM GIÁO HOÀNG
Karol Józef Wojtyła, ra đời vào ngày 18-5-1920 tại một thành phố nhỏ bé là Wadowice, gần thủ phủ thời danh Cracow, thuộc nước Ba Lan.
Nhà thờ này chính là nơi mà em bé Karol đã được sinh ra trong đức tin, học biết về tình yêu Thiên Chúa và bắt đầu cho hành trình Đức Tin của mình.
Chính tại giếng rửa tội này mà Karol đã được lãnh bí bích thánh tẩy, gia nhập đại gia đình của Thiên Chúa.
Đây chính là sổ rửa tội ghi lại chi tiết và chứng từ cho biết Wojtyla khi rửa tội lấy tên thánh là Karol.
Ngôi nhà nơi Karol được sinh ra, ngày nay trở thành bảo tàng viện lưu trữ những kỉ vật và biến cố cuộc đời của vị giáo hoàng người Balan.
Cha của Karol là ông Joseph và mẹ là bà Emilia. Cha làm nghề thợ may sau đó gia nhập vào quân ngũ và là viên chức quản trị trong đội quân Áo quốc, sau đó trở thành trung úy trong quân đội Balan cho tới năm 1927 thì hồi hưu và qua đời năm 1941.
Mẹ của Karol là bà Emilia Kắc-zô-rôs-ka, người nội trợ chăm sóc gia đình, và bà cố qua đời năm 1929.
Karol có một người anh lớn tên là Edmund hành nghề bác sĩ và qua đời năm 1932.
Năm lên 6 tuổi, nhập trường mẫu giáo và học tiểu học, trong suốt thời gian này, Karol luôn được điểm tốt đứng dầu hạng trong lớp.
Lúc lên 9 tuổi, được chịu lễ lần đầu, và trong năm đó cũng là lúc mẹ ngài qua đời. Tại nhà thờ giáo xứ của Karol có ảnh Đức Mẹ hằng cứu giúp, và cậu bé Karol hay tới đây cầu nguyện trước tượng Mẹ, do đó long kính mến Đức Mẹ cách rất đặc biệt của vị giáo hoàng tương lai cũng đã được phát sinh ngay từ thời gian ấu thơ tại đây.
Cậu bé Karol cũng hay đi hành hương tại trung tâm hành hương Đức Mẹ Đen của Ba Lan, một trung tâm hành hương nổi tiếng. Sự tích Đức Mẹ Đen…
1.30.05= Cũng tại nơi này cậu Karol đã đi Đàng Thánh Giá và nguyện ngắm về sự thương khó của Chúa Giêsu, một trong các việc đạo đức mà đã ảnh hưởng tới suốt đời sống của Đức John Paul II sau này.
Lớn lên, Karol theo học trường trung học Marcin Wadowita từ năm 1934 tới 1938. và trong khi còn học trung học đệ nhị cấp, là chủ tịch Hội Đức Mẹ Maria, và tham dự chuyến hành hương đầu tiên tới trung tâm Đức Mẹ Częstochowa. Năm 1938 lúc 18 tuổi theo học lớp huấn luyện quân sự ở Hermanice.
Sau khi mãn trung học, rồi vào tháng 6 cùng năm 1938, thanh niên Karol ghi tên theo học Ngành Triết học tại đại học Jagellonian ở Craków. Cũng trong niên khóa này, Karol gia nhập nhóm "Studio 38", nhóm sân khấu được giáo sư thành lập Tadeusz. Karol theo học ngành khịch nghệ và nghệ thuật trình diễn sân khấu ở Wadowice; bà Halina Kwi-a-thows-ka là bạn học trong nhóm kịch nghệ, đã kể lại rằng chàng thanh niên Karol đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc đối với bà và các bạn trong trường sân khấu. Bà nói bà rất hân hạnh được là bạn đồng song và diễn chung với Karol. Tuy nhiên là nói rằng khi nghe tin Karol có ý định theo đuổi ơn kêu gọi làm linh mục thì bà rất lấy làm bỡ ngỡ, vì thấy thanh niên Karol là người thong minh, có nhiều tài, nhất là thích thể thao, biết làm thơ và đóng kịch, và có một tương lai sán lạn, nhưng đùng một cái lại đi tu”.
Thực tế, Karol là một thanh niên thích thể thao, là thủ môn bóng tròn, bơi thuyền, vượt thác, leo núi, và là lực sĩ bơi lội.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, thế chiến II bùng nổ. Lực lượng quân phiệt Nazi chiếm đóng Ba lan và đóng cửa đại học, sinh viên cũng tham gia vào cuộc kháng chiến chống quân Nazi Đức quốc xã xâm lăng.
Để được sinh sống và tránh bị quân Đức quốc xã bắt lưu đầy sang Đức, Karol phải đi làm việc trong hầm mỏ và từ năm 1942 làm việc trong xưởng chế hóa học. Cũng trong thời gian này ghi tên theo học các lớp tu đức tại một đại chủng viện “chui” do ĐHY Adam Stefan Sapieha, TGM Cracow điều hành, đang khi vẫn ghi tên học phân khoa thần học tại đại học Jagellonian.
Thế chiến thứ Hai đã reo rắc biết bao tang thương cho dân chúng, và chính Đức John Paul II đã kể lại kinh nghiệm này như sau: Ngài đã từng phải chứng kiến những nỗi thống khổ của người dân, cảm nghiệm được nỗi đau của một dân tộc bị mất quyền tự quyết, những bất công và sự chà đạp phẩm giá con người”. Những kinh nghiệm này đã là hành trang qúi giá cho sứ mạng tương lai của Karol, một người người tranh đấu không sợ sệt cho lẽ phải, cho tự do và nhân quyền.
Đây là quang cảnh chủng viện Cracow. Chủng viện này được mở lại sau chiến tranh. Karol tiép tục theo đuổi con đường ơn kêu gọi làm linh mục của mình và theo học tại đại chủng viện này. Chính Đức John Paul II kể lại kinh nghiệm này như sau: “Khi đó tôi theo học thần học và trong một hoàn cảnh rất là khó khăn… nhưng ơn gọi của tôi như là một huyền nhiệm mà Chúa đã thương ban. Chúa gọi tôi trở nên một người phục vụ Lời Chúa, một người ban phát bí tích thánh và con người cử hành mầu nhiệm Đức Tin”.
Thầy Karol được thụ phong linh mục tại Cracow ngày lễ Các Thánh ngày 1-11-1946. Một niềm hạnh phúc tràn đầy vì đã đạt được ý nguyện dâng mình phục vụ dân Chúa.
Thánh lễ đầu tiên của ngài được cử hành tại nhà thờ chính tòa thành Crakcow, ngay tại bàn thờ mà chúng ta đang quan sát. Nhà thờ chính tòa này cũng là nơi mà ngài đã từng cầu nguyện, giải tội, linh hướng và cử hành các bí tích cho dân chúng.
Liền sau đó, ĐHY Sapieha gửi ngài sang Roma du học trường thánh Toma, đại học Angelicum và dưới sự hướng dẫn của linh mục dòng Đa Minh người Pháp là Cha Garrigou-Lagrange. Ngài trình tiến sĩ thần học năm 1948 với đề tài “Những vấn đề Đức Tin trong các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá”.
Cũng trong thời gian này, vào mùa Hè, linh mục Karol thường thi hành công tác mục vụ giúp cho người di dân Balan sống tại các quốc gia như ở Pháp, Bỉ và Hòa Lan.
Rồi vị linh mục trẻ tuổi này trở về Balan, và vào tháng 8 năm 1948 được bổ nhiệm là phó xứ Niegowić và một số các giáo xứ khác trong giáo phận Cracow.
Dù coi xứ đạo nào chăng nữa, Cha Karol cũng luôn gần gủi với giới trẻ và sẵn sang hướng dẫn đời sống tâm linh cho các sinh viên và bạn trẻ. Ngài nhận làm tuyên úy cho sinh viên đại học cho tới năm 1951, lúc đó lại tiếp tục ghi tên theo học thêm về ngành triết học và thần học.
Vào cuối năm 1953 ngài trình luận án tiến sĩ với đề tài “Thẩm định giá trị về khả năng đạo đức Công giáo dựa trên hệ thống đạo đức của Max Scheler" tại trường đại học Công giáo Lublin. Và sau đó được mời dạy tại phân khoa Thần học đại học này ở Cracow.
Một trong những công tác mà ngài quan tâm nhất cho giới trẻ là linh hướng cho họ và ban bí tích hòa giải cho họ, đặc biệt tại giáo xứ Santa Maria này đã trở nên trung tâm thu hút giới trẻ. Các người quen biết ngài đều nhận định rằng ngài là vị linh hướng tuyệt vời.
Vào tháng 7 năm 1958, vị linh mục trẻ tuổi Karol Wojtyla đã đến vùng bờ hồ Masuri để nghĩ hè cùng với một nhóm những người bạn trẻ say mê môn chèo thuyền. Thế nhưng vị linh mục trẻ ấy lại mang theo mình một lá thư mời gọi Ngài hãy gọi điện thoại cho Đức Tổng Giám Mục của Ba Lan, là Đức Hồng Y Wyszynski. Ngài có thể đoán được mục đích của buổi gặp mặt là gì, đó là việc Ngài được chỉ định để trở thành Giám Mục Phụ Tá của Krakow.
Vào ngày 4-7-1958, ngài được ĐGH Piô XII bổ nhiệm làm giám mục phụ tá cho Đức TGM Eugeniusz Baziak ở Craków, và được phong chức giám mục ngày 28-9 tại nhà thờ chính tòa Wavel.
Tại nhà thờ này, nơi có ảnh Đức Mẹ Yên Ủi, ngài thường qùi tại bàn qùi này cầu nguyện lâu giờ. Sau đó đi dường thánh giá và hướng dẫn giáo dân nhất là các bạn trẻ suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Rời thế giới tri thức, từ bỏ những cuộc gắn bó, gặp gỡ đầy tính thách đố với những người trẻ, rời bỏ thế giới uyên thâm nhằm muốn tìm hiểu và diễn dịch về bí mật của tự nhiên, mà chính con người và thế giới Kitô giáo đang muốn tìm hiểu về lý do hiện diện của mình nơi trần gian-tất cả những điều đó, đối với vị linh mục trẻ này, cũng giống thể như là việc mất đi chính bản thân mình, việc mất đi điều đã trở thành nhân dạng của con người. Karol Wojtyla chấp nhận sự bổ nhiệm đó, vì Ngài đã lắng nghe được tiếng gọi Chúa Kitô qua Giáo Hội.
Năm 1962 ngài được cử vào Ủy Ban Giáo Dục của Hội Đồng Giám Mục Balan. Và vào tháng 10 năm 1962 ngài được cử sang Roma tham dự Công Đồng Chung Vatican II. Ngoài việc tham dự Công Đồng Vatican II, ngài còn đóng góp phần quan trọng soạn thảo Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” và tham gia vào tất cả các cuộc họp của Thượng Nghị Hội Giám Mục Thế Giới.
Thế rồi vào ngày 13-1-1964, ngài được ĐGH Phaolô VI cử làm TGM của thành Cracow.
Ngày 29-12-1966 Uỷ ban Giám Mục Tông Đồ Giáo Dân được thành lập và ngài được cử giữ chức chủ tịch. Và sang năm sau vào tháng 4 ngài tham dự Nghị Hội Giáo Dân đầu tiên được tổ chức tại Vatican.
Vào ngày 28-6-1967, ngài được ĐGH Phaolô VI nâng ngài lên chức hồng y. Trong thời gian năm 1968 này ngài thăm viếng tất cả 120 giáo xứ trong tổng giáo phận Cracow và cổ động lòng tôn sùng Đức Bà Đen của Kraków.
Khi làm hồng y, ngài vẫn không quyên sang tác. Một nữ tu già kể đang chỉ cho thấy nơi phòng ngài làm việc, đây còn giữ lại kịch bản sang tác của ngài, nơi ngài cầu nguyện và suy niệm.
Ngài là người thích thiên nhiên, nên tại Alberto với khung cảnh thiên nhiên hữu tình, ngài cũng đã sang tác những vần thơ. Ngài đã nhiều lần tĩnh tâm, ngoạn cảnh và đến thăm nhà nguyện Santa Alberta hoang dã, nơi bồi bổ tâm hồn, nơi yên tĩnh để lấy lại sức thiêng.
Để mở rộng tầm hiểu biết, vào tháng 9 năm 1969, ngài thăm viếng Hoa Kỳ và trong năm 1970 ngài tiếp tục thăm viếng, tìm hiểu, chia sẻ kinh nghiệm tại nhiều nhiều quốc gia ở Châu Âu.
Vào ngày 5-10- 1971 ngài được bầu làm làm tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới.
Tháng 3 năm 1973, ngài tham dự Đại Hội thánh Thể tại Úc châu, tiếp đến thăm viếng Phi luật tân, và sau đó thăm Bỉ và Pháp quốc.
Vào ngày 3-10- 1978, Ngài về Roma tham dự tang lễ Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô I vừa mới qua đời và tham dự Mật Viện bầu tân giáo hoàng.
(... còn tiếp)