Giờ đây tôi đã thấy !!!

*Giờ đây tôi đã thấy,
Những điều mình ước mơ,
Không còn là sự thật,
Như khi còn bé thơ !

Đất Nước tôi ngày ấy,
Dòng sông chảy lững lờ,
Cánh diều bay theo gió,
Cưỡi trâu hát líu lo.

Không phải sống dật dờ,
Từng ngày lo cơm áo,
Cuộc đời luôn thanh thản,
Đua chen thấy vu vơ.

Trai nóng lòng mong đợi,
Quyểt chí cố học hành,
Lớn giúp nhà giữ nước,
Đền đáp ơn sinh thành.

Gái đảm đang nội trợ,
Không đua đòi phấn son,
Luôn kính cha thương mẹ,
Cùng săn sóc chồng con.

Ôi Quê Hương đẹp quá !
Sông núi dệt nên thơ,
Bao anh hùng liệt nữ,
Gìn giữ mãi đến giờ.

Nhưng giờ tôi đã thấy,
Đâu còn giống như xưa,
Cuộc đời vừa đổi mới,
Nói bao nhiêu cho vừa !

*Ngày nay tôi đã thấy,
Bọn rừng rú kéo về,
Đỉnh cao khoe trí tuệ,
Hung bạo trong say mê.

Giờ đây tôi đã thấy,
Trước sau một lũ hề,
Đem xã hội chủ nghĩa,
Gieo hỗn loạn tứ bề.

Giờ đây tôi đã thấy,
Loài quỉ đỏ bạo tàn,
Vùi cho dân đói rách,
Sống tủi nhục lầm than.

Giờ đây tôi đang thấy,
Dịch Cô-vít dâng cao,
Mỗi ngày thêm người chết,
Dân hoảng loạn biết bao

Giờ đây tôi đang thấy,
Nhiều cảnh quá thương tâm,
Bao tổ chức từ thiện,
Hết lòng hỗ trợ dân.

Giờ đây tôi đã thấy,
Cuộc sống khác khi xưa,
Chúng hô rằng đổi mới,
Lừa bịp bạn thấy chưa?

Giờ đây tôi đã thấy,
Tà quyền ngồi trên cao,
Vơ vét cho đầy túi,
Chẳng giúp dân tí nào.

Giờ đây tôi đã thấy,
Nuối tiếc năm tháng xưa,
Ngày nay đang mùa dịch,
Dân sống một kiếp thừa.

Giờ đây tôi chỉ thấy,
Tà quyền luôn họp hành,
Chống dịch không biện pháp,
Vắc-sin Tàu chích nhanh !!!

ĐINH QUÂN


*Hãy đọc 1 trích đoạn sau sẽ thấy thái độ nhà cầm quyền VN phản ứng ra sao về đại dich.
Đây là bản tin từ mấy tháng trước, bây giờ chắc còn tệ hơn :

Dịch COVID-19 ở Việt Nam: Sự đối lập giữa truyền thông Nhà nước và mạng xã hội.

Bệnh viên kín chỗ, bệnh nhân nằm la liệt gắn với máy trợ thở hoặc bình ô-xy, người người kêu cứu vì có thân nhân qua đời hoặc đang là F0, F1 và cần trợ giúp…. Những thông tin này được loan truyền rộng rãi trên mạng xã hội ở Việt Nam trong mấy tuần qua cho thấy tình hình dịch bệnh bùng phát thật đáng lo. Thế nhưng, nếu một người chỉ xem TV hoặc đọc báo Nhà nước thì dịch bệnh lại không hề đáng sợ như vậy.

Trong chương trình thời sự của Đài Truyền hình Việt Nam, hoặc trên các mặt báo lớn, thông tin đăng tải về dịch bệnh COVID-19 chủ yếu là các con số cập nhật ca nhiễm mới, số ca khỏi bệnh, và gần đây lại không đề cập số ca tử vong mỗi ngày.
Truyền thông Nhà nước cũng chú trọng đưa tin về các chỉ đạo của cơ quan Nhà nước, và nếu có đề cập đến ảnh hưởng của dịch bệnh thì chủ yếu chỉ khai thác những vấn đề kinh tế, xã hội.

Điều mà nhiều người theo dõi tin tức thông qua truyền thông quốc doanh ở Việt Nam nhận thấy, đó là sự thiếu vắng khuôn mặt người dân, những bệnh nhân COVID-19 và thân nhân của họ, hoặc những người vì dịch bệnh mà mất đi miếng cơm manh áo, hoặc rơi vào cảnh khốn cùng….

( Theo bản tin Đài Á Châu Tự Do-RFA phát đi ngày 24/7/21 )
*Và biết bao cảnh đời nghiệt ngã trong mùa đại dịch giữa thành phố mang tên bóng ma ôn dịch dâm ô tay sai quỉ vương, cứ luẩn khuất trong đêm gieo rắc độc trùng sát hại dân lành :

Lá Thư Sài Gòn: Sàigòn Đêm Dịch

Người dân Saigon không được ra khỏi nhà từ 18 giờ hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau. Thế nhưng trong cái giờ giới nghiêm đó vẫn có những hoạt động nhói lòng... May thay, cũng còn nhiều cánh tay chìa ra. Và ngay cả chính họ cũng đã nắm lấy tay nhau để cùng vượt qua những thời khắc khó khăn nhất.

*SÀI GÒN SAU 18 GIỜ*

-KHÔNG GIA ĐÌNH.
Những ngày này, ngày càng nhiều người nghèo, vô gia cư trên đường phố Sài Gòn đang bị cái đói bóp nghẹt.
Từ cuối tháng 7, lệnh phong tỏa ban hành khiến những con đường ngày thường vẫn nườm nượp người tất tả mưu sinh vừa tới 18 giờ đã trở nên vô cùng vắng vẻ. Trên đường phố lúc này chỉ còn lại những người thật sự không còn một chốn dung thân, một nơi để về.
Chốt chặn được thiết lập khắp các giao lộ. Cửa ngõ ra vào TP đều bị kiểm soát. Nếu không có nhiệm vụ mà ra đường sau 18 giờ thì không thể trót lọt được qua các chốt kiểm tra.
Những người ăn xin, buôn thúng bán bưng ngày thường vẫn tập trung dày hai bên cầu Nguyễn Văn Cừ (chợ Nancy cũ), khu vực công viên 23 Tháng 9 (khu nhà ga Sài gòn cũ), trạm xe buýt Bến Thành trên đường Hàm Nghi (Q.1)… nhưng giờ đây không còn một bóng nào.

-XÍCH LÔ LÀ NHÀ.
Hơn 23 giờ, tại công viên cặp bên vòng xoay Lý Thái Tổ (Q.5), dưới hiên nhà tối om có một mái tóc bạc trắng loay hoay trên chiếc xích lô. Đó là chú Nguyễn Văn Công, 66 tuổi, với mái tóc bạc khó lẫn lộn: “Sao chú ngủ ở đây? Nhiều muỗi lắm!”. “Không ngủ ở đây thì biết ngủ ở đâu. Giờ công an đi tuần, nằm vào chỗ khuất may ra thì được ngủ yên”, ông Công nói chuyện qua lớp khẩu trang. “Rồi chú ăn uống, tắm giặt ở đâu?”. Ông Công thì thào trong bóng tối: “Nhà hảo tâm cho sữa, bánh, cho cơm từ thiện và cả tiền…, tắm rửa thì vẫn ra nhà vệ sinh công cộng bên hông cầu Ông Lãnh”.
Ông Công rất tự trọng. Thấy hoàn cảnh ông lang thang, sống một mình, nhiều người đề nghị giúp đỡ nhưng ông đều từ chối vì “tôi còn sức, còn làm kiếm ăn được”. Nhưng nay dịch, không còn khách đi xích lô, tiền dành dụm cũng hết nên ông buộc phải nhận cứu trợ để tồn tại.
Mấy ngày đầu giãn cách, do ảnh hưởng bão số 3 nên đêm khá lạnh, ông kéo tấm bạt quây quanh chiếc xích lô. Ông Công chia sẻ: “Chiếc xe nhìn nhỏ vậy nhưng lợi hại lắm, ban ngày chở khách, ban đêm là cái giường, là cái tủ chứa tất cả tài sản tôi có”. Nói rồi ông bấm đèn pin, bật chiếc lưng ghế xích lô, lôi ra một cái bọc chứa bộ quần áo, vài vỉ thuốc, mấy chai dầu gió: “Tất cả tài sản của tôi có nhiêu đó. Một bộ mặc trên người, một bộ giặt khô thì bỏ bịch cho vào “cốp” xe”.
Ông Công kể trước năm 2001 ông còn mẹ, còn nhà ở P.10, Q.5 nhưng sau đó nhà bị giải tỏa, mẹ mất, vợ con đã bỏ đi cách đó mấy năm cũng biệt tăm. Anh em đang sống cùng một nhà cũng tứ tán tìm kế sinh nhai. Từ đó, ông Công thành người không gia đình, không nhà. Quanh năm kể cả ngày lễ, tết tới giỗ mẹ ông cũng chỉ quanh quẩn với chiếc xích lô và đến giờ thì ông hoang mang không biết về đâu. “Nhà” của ông Công hiện tại là chiếc xích lô mua 20 năm trước với giá 1,9 triệu đồng. Ông tâm sự thực lòng: “Những ngày nước sôi lửa bỏng này giá như có một ngôi nhà để về thì ấm áp. Gần nửa đời người ngủ trên xe, tôi thấy đời sống quá bấp bênh”. “Sao không vào trung tâm bảo trợ xã hội lánh tạm?”, tôi hỏi. Ông Công phân trần: “Vào trung tâm bảo trợ thì phải có đơn, phải được duyệt, thủ tục cũng không phải ngày một ngày hai. Hơn nữa, trong số những người vào trung tâm biết đâu lại có F0. Thôi thì ở ngoài đường đã quen, dù chui lủi có vất vả nhưng còn chủ động”.

-TRƠ TRỌI GIỮA THÀNH PHỐ.
Trước cửa Bệnh viện Nhi đồng 1 (Q.10) có ông già “ở đường” lâu hơn ông Công cả chục năm. Đó là ông Võ Văn Thành (70 tuổi, quê Ninh Thuận).
Ông Thành vào Sài Gòn từ hồi đứa con gái nhỏ lên một tuổi, nay người con gái ấy đã bước sang tuổi… 40. Năm đó bị vợ bỏ, ông chán nản nên vào Sài Gòn, từ đó tới nay chưa một lần về thăm quê. Khi có lệnh hạn chế ra đường sau 18 giờ ông hoang mang, mường tượng lại cảnh quê hương sau nhiều năm không muốn nhớ nhưng đường về mù mờ, mặt người thân cũng không còn rõ nét. Chỉ vào chiếc xe gỉ sét, ông Thành nói: “Chiếc xe này cũng gần 40 tuổi, xuống cấp quá, khách không chịu ngồi nữa. Tôi dùng nó làm chỗ ở kiêm cái kho chứa ve chai”. Dịch kéo dài, vựa ve chai đóng cửa, ông Thành phải để rải rác chai nhựa nhặt được ở công viên. Số mới nhặt thì treo lủng lẳng quanh xe như chỗ chơi bán đồ hàng của con nít.
Mấy chục năm ngủ trên xe, ông đã quen với thế nằm cong nên giờ không còn cảm thấy đau lưng nữa. Làm “phu xe” cả năm đầu tắt mặt tối, những ngày dịch ông Thành mới có thời gian ngắm kỹ Sài Gòn tĩnh lặng. Ở tuổi thất thập, thỉnh thoảng ông Thành lại nhớ về khuôn mặt của đứa con gái từ khi còn nhỏ. “Nghe nói nó đã theo chồng đi xa. Chỉ mong đời nó không lênh đênh, lận đận như tôi…”.
Cùng tên, cùng nghề xích lô còn có ông già Nguyễn Văn Thành (77 tuổi, quê Đồng Nai). Lúc trẻ ông lập gia đình nhưng không bao lâu thì vợ mất. Bản thân ông lên Sài Gòn đạp xích lô tới nay đã gần 40 năm. Anh em họ hàng của ông giờ đã lớn tuổi và có lẽ không còn sống. Trước dịch, ông Nguyễn Văn Thành và ông Công lúc nào cũng gắn bó, buổi tối thường tìm chỗ đậu xe cùng ngủ để đêm hôm thủ thỉ trò chuyện. Tuy nhiên, từ ngày áp dụng quy định hạn chế ra đường sau 18 giờ, họ phải tách nhau mỗi người một ngả. “Hằng ngày, vào buổi trưa, chúng tôi hẹn nhau ở một sân bóng. Lúc gặp nhau lại chia sẻ hộp cơm, cái bánh mì, vỉ sữa xin được cùng ăn hết rồi lại… chia tay”, ông Thành chia sẻ.

-TÌM CHA TRONG ĐÊM
Lệnh phong tỏa nên ngoại trừ những người thực hiện công vụ, không người dân nào ra đường. Vậy mà tại ngã ba Nguyễn Đình Chiểu – Lý Thái Tổ, tiếng khóc nỉ non của cô bé Nguyễn Ngọc Bích Châu, 10 tuổi, khiến những người có nhiệm vụ ra đường giờ đó đều dừng lại.
Mặc một bộ quần áo ngắn tay, đi đôi dép kẹp với thân hình nhỏ thó gầy guộc, đen đúa, Châu không ngừng nài nỉ: “Cho con tới chỗ ba con”. Ba con là ai? Ở đâu? Tại sao con ra đường giờ này một mình?… nhưng cô bé không thể trả lời rành mạch. Em kể tiếng được, tiếng mất: “Nhà con ở hẻm đường sắt, ba con đi chở xe ba bánh nhưng xe hư rồi, mẹ con bệnh, con mang thuốc về cho mẹ rồi ra chỗ ba…”. Nhưng, địa chỉ nhà ở đâu thì Châu không nhớ, ba tên gì em cũng không nói được…
Người ta nghe câu chuyện của Châu lõm bõm và phải tự xâu chuỗi: Nhà em ở khu phong tỏa, mẹ bị bệnh, cha không ở cùng.
21 giờ, đường không một bóng người, cô bé nhỏ thó lọt thỏm trong bộ quần áo bảo hộ thùng thình ghì chặt tờ 20.000 đồng và một bịch sữa được cho trên đường từ nhà đi. Đoạn đường từ ngã ba Nguyễn Đình Chiểu – Lý Thái Tổ đến Trần Hưng Đạo – Nguyễn Văn Cừ (nơi ba Châu đang đợi) không quá dài nhưng phải qua gần chục lượt kiểm tra. Mất hơn 30 phút qua chốt và đi bộ mới tới ngã tư Trần Hưng Đạo – Nguyễn Văn Cừ, đã quen thuộc nên Châu sà ngay vào hiên ngôi nhà có bóng đèn sáng nhất. Nơi đó, cha em đang nằm.
Vòng tay qua cổ, câu nói đầu tiên của cô bé với ba khiến ai nấy bất chợt cay xè mắt: “Nhà mình chắc sắp bị cắt điện đó ba. Người ta còn đòi tiền nhà nữa. Mẹ bảo ra báo ba gấp để không kịp”. Anh Nguyễn Thượng Huân (52 tuổi, ba bé Châu) mặt méo xệch ôm con mếu máo. Người cha gầy gò có đôi chân teo nhỏ dường như không chú ý đến lời con gái nói mà chỉ siết chặt cô bé vào lòng, mắt ngân ngấn: “Ba đã nói đi phải về liền. Sao con đi đâu, nay mới về, ba tìm con khắp”..

-NHÀ CHIA HAI NỬA TÌM ĐƯỜNG SỐNG.
Ba của Châu bị tật ở chân đi lại rất khó khăn. Anh chỉ có thể lết từng bước nhỏ nên việc mua bán thuốc men chữa bệnh cho mẹ đều phụ thuộc vào Châu. Hai ngày trước, khi gom được ít gạo, bánh và ít xúc xích, anh nói Châu mang về cho mẹ và các em. Về tới nhà mới hay bệnh của mẹ trở nặng, Châu lại chạy ra chỗ ba xin tiền mua thuốc. Vét sạch trong túi được hơn 300.000 đồng, anh Huân chỉ tiệm thuốc, dặn dò con kỹ lưỡng mua thuốc mang về cho mẹ.
Trước khi con đi, anh dặn con phải về lại chỗ cha ngay để lỡ có gì còn chạy đi chạy lại cho kịp. Thế nhưng, khi về nhà rồi, Châu mới biết hẻm nhà mình đã bị phong tỏa. Người ngoài không được vào, người trong không được ra. Châu ở nhà từ tối hôm trước tới tối hôm sau thì nóng ruột: “Con cứ nghĩ đến lời ba dặn mang thuốc về thì phải ra ngay. Con sợ ba chờ không thấy, ba mong”. Quanh quẩn hơn một ngày trong nhà trọ, đợi lúc không có người Châu lẻn chạy ra ngoài. Lúc này đã hơn 20 giờ, đường đã vắng hoe.
Châu không nhớ số nhà mình ở vì đó là nhà trọ, ở thuê. Tên ba em cũng không dám nói vì sợ người ta bắt luôn. Trên tất cả, Châu còn sợ phải quay về nhà, vào lại hẻm đã bị cách ly vì em sợ Covid-19.
Anh Huân tâm sự, vợ anh bị tai biến giờ nằm liệt giường. Trước dịch anh vẫn chạy xe ba bánh và cùng con bán vé số trang trải cuộc sống. Khi có dịch, xe bị hư, không còn người mướn chạy xe, người mua vé số không còn, chủ yếu người qua đường thương cảnh gia đình giúp đỡ nên vợ chồng, con cái có tiền ăn.
Từ khi chính thức thực hiện giãn cách, gia đình anh hoàn toàn kiệt quệ. Vợ bệnh không có tiền thuốc thang. Sáu miệng ăn trút hẳn lên vai một người khuyết tật. Lúc đó, anh nghĩ nếu cứ ở nhà trọ thì chưa chết dịch cũng sẽ chết đói nên tính cách để lại vợ và 3 đứa con nhỏ ở nhà. Còn anh và Châu (con gái lớn) ra đường kiếm ăn. Những ngày này hai cha con chia nhau ra hai điểm xin cứu trợ. Xin xong, buổi tối gom lại rồi chia ra đồ nào ăn ngay, đồ nào dự trữ. Châu có nhiệm vụ mang đồ về nhà nhờ hàng xóm nấu cho mẹ và các em ăn rồi lại chạy ra chỗ cha. Từ khi thực hiện giãn cách thì buổi tối không người, việc di chuyển của Châu khó khăn.

-NGỦ CHỖ SÁNG ĐỂ NGƯỜI ĐI TỪ THIỆN DỄ THẤY.
Gần một tháng nay, hiên nhà bán xe máy trên đường Trần Hưng Đạo là nơi cha con Châu ngủ đêm. Anh ngủ chỗ sáng để người đi từ thiện dễ thấy mà dừng lại. Nhìn anh co quắp trong tấm bìa carton, tôi hỏi sao anh không mang mền ra đắp cho đỡ lạnh? Anh Huân thật thà: “Đắp mền ấm quá, tôi sợ lúc người ta tới tặng đồ lại ngủ quên, không biết để thức dậy nhận và cảm ơn họ”.
Thời gian này, nhà anh sống được là nhờ đồ từ thiện. Người cho gạo, người cho mắm muối, người cho rau nên bữa ăn của các con và vợ ở nhà cũng tạm ổn. Ngoài ra, anh chia sẻ buổi tối người đi từ thiện thường cho tiền. Anh muốn canh thức để trực tiếp được nhận tiền và cảm ơn. Có số tiền ấy, vợ anh có thuốc uống, may ra qua được đợt dịch này.

-BỒNG CON THƠ KIẾM ĂN
Là trẻ mồ côi chưa kịp lớn, vừa đủ 17 tuổi Lê Thùy Trang đã làm mẹ một con. Cuộc sống lang bạt của bà mẹ đơn thân vốn đã khó khăn lại tăng thêm bội phần trong mùa bạo dịch.
Khi bạn cùng lứa còn chăn ấm, đệm êm cùng gia đình an toàn tránh dịch thì hằng đêm, Trang vẫn phải một mình vác con trên vai ra đường nhặt ve chai mặc cho dịch bệnh có thể quấn lấy hai mẹ con bất cứ lúc nào.

-THÂN CÒ LẶN LỘI ĐÊM GIÃN CÁCH.
Càng về khuya, đường Sài Gòn càng trở lên cô quạnh. Các gian hàng mặt phố kéo cửa xếp im ỉm, những ngọn đèn trong rèm cửa trên những lầu cao chỉ còn lác đác vài bóng thì Lê Thùy Trang (17 tuổi, ngụ Q.4) vẫn một mình lặng lẽ ngồi xổm dưới những gốc cây to bới rác.
Đã quá 23 giờ mà Trang vẫn miệt mài bới móc tìm chai nhựa, giấy vụn hay đâu đó một mẩu thức ăn thừa để qua bữa tối. “Mấy bữa nay người ra đường ít, chai nhựa cũng ít, em đi từ tối tới giờ mới được nhiêu đây”, cô gái chỉ vào chiếc thùng carton chứa hơn chục chai nhựa và vài lon bia nhỏ nhẻ nói. 17 tuổi nhưng con của Trang đã sắp thôi nôi. Trang bảo, mẹ bỏ đi từ khi em chưa tròn tuổi, cha
nuôi em lên tám thì cũng bỏ rơi. Không cha mẹ, không người thân, em lớn lên như cây dại giữa đời.
Năm 15 tuổi Trang gặp một người đàn ông nói thương và muốn lấy em. Thiếu thốn tình cảm gia đình lại mơ ước có được một mái ấm, Trang đồng ý thuê phòng trọ ở chung. Vài tháng sau, Trang biết mình có bầu. Người đàn ông ở cùng tuy thương em nhưng gia cảnh nghèo khó phải bỏ đi làm xa, lâu lâu, gửi cho Trang chút tiền trang trải nhưng từ đầu dịch thì biệt tăm. Người mẹ trẻ ôm con đợi chờ trong căn trọ không một đồng trong túi. Đứa con cả ngày khóc đòi sữa, buộc lòng Trang phải ôm con ra đường kiếm sống.
Khi được hỏi sao không tìm tới các hội nhóm cứu trợ từ thiện? Bà mẹ trẻ ngờ nghệch: “Em không có xe, có hôm em bế con đi bộ tới điểm cho thì người ta đã nhận và tan hết. Em có nhờ người để ý khi có cứu trợ gọi để chạy qua xin. Họ gọi cho hàng xóm, hàng xóm qua gọi, em chạy tới nơi thì cũng đã không còn gì”. Thấy mẹ con Trang đáng thương, những người nhận được cứu trợ trước đó cũng chia lại cho một chút thức ăn. Vài hộp sữa, vài cái bánh ngọt cho đứa con trai. Vậy mà Trang đã mừng lắm.
Cám cảnh người mẹ trẻ đèo bòng con thơ trong mùa dịch, nhiều người trong khu trọ khuyên Trang đưa con lên chùa hoặc gửi trại trẻ mồ côi nuôi giúp nhưng em nói dịch này, bên đó họ không nhận. Nói là để chống chế vậy thôi chứ Trang chưa từng có ý định đưa con mình cho ai nuôi cả. “Em là trẻ mồ côi, lớn lên không có ba mẹ buồn lắm. Lúc bệnh đau em chỉ mong một lần được gặp mẹ, được ba yêu thương. Bởi thế, dù chết đói em cũng không bỏ con. Con là người thân duy nhất của em trên đời”.

-GIẤC NGỦ TRÊN VAI MẸ.
Nhiều năm lăn lộn lề đường, Trang nghiệm ra rằng ông trời không bao giờ dồn em vào bước đường cùng. Ở những lúc bế tắc nhất, em đều nhìn thấy một lối nhỏ khác để bước qua. Trong mùa dịch này, lúc đói, khổ nhất em lại có được một người mẹ nuôi tên Hoa. Bà Hoa sống bằng nghề thu mua ve chai của những người bán vé số nhặt dạo rồi bán lại cho vựa lớn.
Bà Hoa cũng là mẹ đơn thân và có một người con gái hơn Trang một tuổi (cũng lay lắt lề đường và có bầu năm 17 tuổi) nên bà thương và cưu mang Trang. Tuy không giúp nhiều nhưng lúc khó khăn, bệnh tật bà là chỗ dựa tinh thần để mẹ con Trang cố gắng. Trang bảo, ở với mẹ nuôi, em làm gì sai thì mẹ mắng nhưng đói thì mẹ chia đồ cho ăn. Không giúp được về mặt kinh tế nhưng lúc khó khăn này Trang cảm thấy mình có một gia đình. Con Trang có người để gọi là bà ngoại, em nghe cũng thấy ấm áp.
Đứa con nhỏ của Trang tên ở nhà là ku Tin (mọi người hay gọi là “A Kay” vì Trang thường một nách ôm con kể cả lúc làm việc).
Ku Tin ngủ trên vai mẹ ngày đêm nhưng mẹ không có sức (và cũng không còn tâm trí) để hát ru vì mẹ bận dồn sức… nhặt ve chai.
Chưa đầy một tuổi nhưng đêm nào ku Tin cũng theo mẹ ra đường kiếm ve chai. Có hôm quá nửa đêm mà mẹ con vẫn lang thang ngoài đường. Với Tin, ở nhà hay ngoài đường cũng không khác nhau, cứ buồn ngủ là em gục vào vai mẹ ngủ.
Có lẽ vì biết mẹ cũng khổ nên ku Tin chẳng mấy khi quấy khóc. Suốt ngày theo mẹ ở ngoài đường nên chẳng mấy khi Tin được mặc quần. Tiện đâu đặt đó, khi đi nhặt ve chai Trang không mang theo nhiều quần cho con nên cứ tiểu ướt thì vắt quần lên cây, đợi khô mặc tiếp không có quần thay. Nhìn đứa con nhỏ thó đang bò trên nền gạch, Trang bảo: “Em nghe người ta nói nó suy dinh dưỡng mà em cũng không biết phải làm gì”.
Mấy hôm nay túng quá, Trang đành gửi con cho mấy đứa trẻ bán mít (con của dân lao động nghèo) gần cầu Ông Lãnh để tranh thủ nhặt rồi về sớm. Trong số đó có Trần Tấn Phát, 8 tuổi, cũng là trẻ mồ côi. Có lẽ đồng cảm với hoàn cảnh của Trang nên những lúc rảnh, Phát thường gọi: “Chị Trang đi lượm đi, mang A Kay em coi cho”.

-DẸP CẢ TỰ TRỌNG.
Chị Nguyễn Thị Kim Oanh, 40 tuổi, trước dịch bán xe cà phê dạo dọc đường. Dịch bùng phát, vợ chồng chị thất nghiệp. Nhà hai vợ chồng thêm hai đứa con nhỏ cầm cự được hơn 2 tháng, qua tháng thứ 3 trong nhà không còn một hạt gạo, chỉ còn đủ tiền mua được một thùng mì gói ăn qua ngày. Trong lúc chờ chồng kiếm việc, chị Oanh bất đắc dĩ mang theo hai đứa con, một trai một gái ra đường xin từ thiện qua ngày. “Đi một mình, họ thấy mình trẻ, họ ngại cho. Mình đưa hai đứa nhỏ đi, thấy hoàn cảnh thực, họ không ngại giúp”, chị Lúc trước, chị Oanh theo mấy người trong xóm ngồi trên cầu Nguyễn Văn Cừ (Nancy) nhưng sau này không ai ngồi trên cầu nữa, chị dắt con qua mấy điểm khuất hơn và lang thang khuya mới về nhà.

-MONG CÓ NƠI TÁ TÚC
Tại trạm xe buýt Bến Thành (đường Hàm Nghi, Q.1), mới hơn 21 giờ đã tập trung khá nhiều người lang thang. Hầu hết họ là lao động mất việc, không thể trả tiền trọ, tiền ăn. Ban ngày họ tản ra những nơi cứu trợ xin cơm, quà từ thiện, tập trung tắm, rửa tại nhà vệ sinh công cộng Bến Thành và ngủ đêm ở đây. Một số nhóm còn lại là người nghiện, lang thang lâu năm thì tập trung ở công viên 23/9.
Vừa thấy chiếc xe dừng lại, tưởng bị đuổi, những người lang thang đang ngồi, liền vội vã cắp chiếu, ba lô vào nách cắm cổ chạy. Một người phụ nữ lam lũ, đầu tóc xõa xượi hớt hải quay lại hỏi: “Bắt hả?”. “Không, có quà, cô qua nhận đi”. Chị vội chạy qua nói: “Em quê Tiền Giang, làm phụ hồ. Công trình nghỉ, thợ và phụ hồ đều thất nghiệp chia nhau mỗi người một ngả kiếm đồ từ thiện ăn uống qua ngày”.
Mấy hôm trước chị ở bên công viên 23/9, nhưng tối nào cũng bị dân xì ke tới sờ gáy móc đồ. Sợ quá, chị chạy ra bến xe buýt này. Từ ngày đi bụi tới nay chị mới được tắm gội do nhà vệ sinh ở bến xe buýt không đủ chỗ nên phải xếp hàng. Chờ gần 1 tiếng mới đến lượt tắm. Chị chỉ tay về phía nhà chờ: “Hôm nay có mấy người mới tới, mang theo cả xe nhưng chiều đã đi kiếm chỗ gửi rồi đi người không với bọc đồ về ngủ”.
Thấy có người tới tặng quà, anh Nguyễn Văn Hùng (quê Cần Thơ) cũng lại gần kể chuyện: “Nhà tôi có hai vợ chồng, 6 đứa con. Giờ vợ chồng thất nghiệp ở thành phố, con cái ở quê. Dịch, không về quê được, chủ nhà trọ thì đuổi vì nợ tiền trọ mấy tháng, buộc lòng chúng tôi phải ra đường. Tôi hoàn toàn chưa nhận được một đồng nào từ các gói hỗ trợ. Ai cũng mong có một chỗ ở mà khó quá”.

-THÂT NGHIỆP CHƯA NHẬN TRỢ CẤP.
Trong khi đó, Triệu Sinh Linh (19 tuổi, ngụ H.Bình Chánh) trước dịch làm nhân viên phục vụ quán cà phê, mất việc 4 tháng nay, chia sẻ: “Mấy ngày nay em lang thang bến xe buýt ăn cơm từ thiện qua ngày. Em đã tới ấp hỏi về việc người mất việc nhận hỗ trợ nhưng cán bộ ấp nói phải tìm gặp trưởng ấp. Mà em không biết trưởng ấp ở đâu nên đi thẳng ra bến xe”.
Cùng cảnh với Linh, bạn Nguyễn Ngọc Trúc (22 tuổi, quê Kom Tum) cho hay: “Hôm trước, em nghe nói người mắc kẹt tại thành phố sau khi đăng ký với địa phương sẽ được theo đoàn về quê với điều kiện là có phiếu xét nghiệm âm tính Covid-19. Em vay mượn được 400.000 đồng đi xét nghiệm, có phiếu xác nhận âm tính. Tuy nhiên, tối đó lại có tin người dân không được rời nơi cư trú. Giấc mơ đoàn tụ gia đình vỡ vụn, em cùng Linh lang thang bến xe trú ngụ qua ngày”.
Người lao động tập trung nhiều ở bến xe, dạ cầu, công viên do không nhận được tiền hỗ trợ nằm ở danh sách kê khai tại địa phương. Ngay khi mất việc, cuộc sống khó khăn, người lao động bỏ nơi cư trú đi lang thang. Thời gian qua họ chủ yếu sống nhờ cứu trợ của các nhà hảo tâm, nhóm thiện nguyện.
Tuy nhiên, nguồn từ thiện không phải lúc nào cũng sẵn. Ngoài người lao động mất việc tập trung ở các điểm “tị nạn” trong trung tâm thành phố, ở vùng ven, công viên, gầm cầu, dọc hai bờ kênh Tàu Hũ – Bến Nghé, còn người nghiện trà trộn cùng người lang thang lâu năm, người già. Trong đó, còn có nhiều phụ nữ và trẻ em. Với mức độ lây lan dịch bệnh như hiện tại, họ rất cần được bảo vệ. Tuy nhiên, trước tình trạng trung tâm xã hội đã phát hiện những ca dương tính và tạm ngưng tiếp nhận, thì nguy cơ nhiễm dịch của những người ngoài cộng đồng này rất đáng ngại.
Bên dạ cầu Chà Và (Q.5), một phụ nữ vác bụng bầu chạy tới, mồ hôi nhễ nhại để kịp xin một phần quà. Kế bên người phụ nữ lúc ấy còn có một bé gái tầm 10 tuổi không đi học.
Em Lò Văn Đông (21 tuổi, quê Lào Cai) làm công nhân nhà máy nước đá Thiên Phú, lương 6 triệu đồng/tháng. Sau khi nhà máy đóng cửa, Đông nghỉ việc thì chỉ còn lại 1 triệu đồng và một chiếc điện thoại, nhưng cũng vừa bị móc mất tối hôm trước.

-CHỦ TRỌ CŨNG KẸT “THẾ KHÓ”
Bà Phạm Ngọc Sa (một chủ nhà trọ tại Q.8) chia sẻ: “Công nhân trả phòng hầu hết đã nợ tiền trọ một, hai tháng nay. Tôi chỉ yêu cầu họ phụ đóng tiền điện nước. Phần lớn những người bỏ về không còn trang trải được bữa ăn hàng ngày nên tôi rất thương. Tuy nhiên tôi không dám nhận lại họ về nhà trọ của mình vì khi ra đường, họ đã tiếp xúc ai, có bị nhiễm bệnh không, thì tôi không kiểm soát được. Nếu không may có một ca dương tính thì rất nguy hiểm cho những người còn ở lại phòng trọ khác”.
Theo Lam Ngọc (TNO)