Canada đang giữa mùa đông, nhưng không giá buốt như mọi năm. Anh hàng xóm da trắng của tôi bảo ông thần mùa đông năm nay đã đổ lầm tuyết mưa băng giá xuống Texas bên Hoa Kỳ. Ngồi nhà xem TV thấy dân Texas điêu đứng mà thương hết sức. Với tôi, hình ảnh gây xúc động nhất là hình hảnh cái quạt trần bị rỏ nước từ trần chảy xuống đóng thành băng, những cục băng dài lơ lửng. Tôi chưa từng thấy cái cảnh đó bao giờ.
Phải giam trong nhà, cả ngày ai cũng ôm cái TV và mạng lưới. Suốt ngày toàn tin Cô Vít 19, tin tân vương Biden và cựu vương Trump, tin quân đội Miến Điện làm đảo chính và dân xuống đường, tin các tàu chiến quốc tế tới Biển Đông... Đúng phải vậy không cơ?
Xin bỏ qua các chuyện này để các cụ bớt nhức đầu, tôi xin kể hầu các cụ những chuyện khác nha. Tin đầu tiên là cuối năm vừa qua, Canada vừa tìm ra một mỏ vàng và kim cương lớn ở vùng Nunavut miền cực bắc. Vàng và kim cương lẫn với nhau. Mỏ này lớn như mỏ vàng Witwatersand Goldfield ở Nam Phi hiện nay. Canada đã giầu nay sẽ giầu thêm nữa các cụ ơi. Tin thứ hai là tin Canada vừa được đứng đầu danh sách số 1 về chất lượng cuộc sống trong năm 2020 vừa qua, đây là lần thứ 5 Canada được xếp hạng như vậy. Trong danh sách ‘Top 10’, sau Canada là Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy…Canada ngon lành như vậy hèn chi mà bà Kamala Harris phó vương bên Hoa Kỳ thuở thập niên 1970 đã sang học 4 năm Trung học ở đây, miền Montreal của tinh bang Quebec đấy các cụ ạ.
Nghe tôi nói vậy thì ông bồ chữ Từ Hòe cười hà hà. Ông bảo không biết tương lai của bà phó vương này sẽ ra sao, nhưng xem buổi lễ bà tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống thì thấy cũng kỳ lạ. Quốc vương Biden tuyên thệ xong thì đến lượt bà. Bà cũng như Vua Biden đều đặt tay trên sách Thánh Kinh. Có điều kỳ lạ là bà để ví tiền trên cuốn thánh kinh. Tay bà, rồi ví tiền, rồi mới tới cuốn Thánh Kinh. Kỳ ha.
Xin hết chuyện Hoa Kỳ, xin được nói về tin quốc tế : Theo các nguồn bí mật cho biết : hiện Trung Cộng đã đổ vào Canada 800 tỷ đô la. Họ tràn ngập miền tây, con cái họ đi học toàn lái các loại xe xịn nhất. Họ chọn mua những cơ sở thương mại to nhất, ở những căn nhà sang trọng nhất. Họ sống vương giả trên miền đất hạnh phúc này.
Ông ODP bồ chữ của làng An lạc chúng tôi nói ngay : Họ đang trả thù cho mối hận ngày xưa đấy mà. Nhiều hội viên trong làng không hiểu gì nên ông bồ chữ giải thích : Hồi Canada lập quốc, giới da trắng là vua kì thị trên đất nước này. Những năm 1881-85 có khoảng 15.000 người Hoa đến đây thì 6.500 người phải đi làm cho đường sắt Canadian Pacific Railway. Họ là những nhân công cực khổ nhất, làm việc nặng nhọc nhất, và được người da trắng gọi là cu-ly. Khi đường sắt nối liền đông-tây Canada làm xong thì Da Trắng làm luật cấm người Hoa đến Canada. Trong 38 năm liền, người Hoa muốn vào Canada phải đóng thuế đầu người. Năm 1885 thuế đầu người là 50$, năm 1900 tăng lên 100$, năm 1903 tăng lên 500$. Sổ thuế còn ghi rõ ràng : Từ năm 1885 đến 1923 Canada đã thu thuế ‘head tax’ được 23 triệu đồng, lúc đó lương công nhân là 5$ một tuần. Phong trào chống người Hoa rất mạnh. Năm 1907 Hơn 5 ngàn người da trắng xuống đường chống người Hoa và đuổi người Hoa về nước. Họ vừa hò hét vừa ném đá vào người Hoa. Nhiều cơ sở của người Hoa bị phá. Nhiều người Hoa từ Vancouver đã trốn sang Toronto. Thế chiến thứ I, người Hoa được nhập lính Canada, nhưng là lính bậc 2, không cầm súng mà chỉ cầm cuốc xẻng để đào hầm cho lính da trắng. Thế chiến thứ hai, người Hoa đóng góp rất nhiều cho Canada về nhân lực lẫn tài lực, do đó người da trắng mới bắt đầu nể người Hoa. Phải đợi đến đời thủ tướng Pierre Trudeau làm ra luật Đa Văn Hóa, Policy of Multiculturalism, người Hoa mới được dễ dàng đoàn tụ với gia đình ở Canada.
Sau người Tàu, người Ấn Độ cũng bị kỳ thị ở Canada. Năm 1908 có hơn 5 ngàn người Ấn Độ tới Canada, nhưng toàn là đàn ông và phải trả 200$ một đầu người. Năm 1911 Canada chỉ nhận thêm 2.342 người Ấn, trong khi nhận 100.000 người da trắng Ukranian. Mãi tới năm 1947 Canada mới thôi đuổi người Ấn Độ, và họ mới có quyền đi bầu. Thời đó báo chí ghi rằng dân Canada nhìn ai thì đầu tiên họ nhìn tới màu da, rồi tới phái tính. Báo chí Canada thời đó chê người Ấn Độ là dân ‘cà ri hôi hám’. Kẹt và xui một cái là người Ấn Độ luôn chia rẽ nhau vì tôn giáo : đạo Sikh, đạo Muslim, đạo Hindu.
Ngoài người Tàu và người Ấn Độ, người Nhật cũng bị nạn nữa. Năm 1941 Nhật ném bom Trân Châu Cảng, lúc đó ở Canada có vào khoảng 20.000 người Nhật. Do áp lực của Mỹ, Canada đã bắt gom những người Nhật này vào các trại tập trung ở B.C. miền tây. Năm 1988 thủ tướng Canada là ông Mulroney đã chính thức xin lỗi người Nhật về sự bất công này…
Nghe ông ODP kể đến đây thì Chị Ba Biên Hòa lên tiếng : Người Việt chúng ta thật là có phước và may mắn. Năm 1975, người Việt tỵ nạn đã được Canada mở cửa đón tiếp thân ái nồng nàn. Chúng ta thế hệ thứ nhất đã hội nhập và phát triển, đã sinh hoa kết trái rực rỡ trên mảnh đất phì nhiêu và đầy tình người này.
Rồi Chị Ba miên man sang lãnh vực con cháu, tức thế hệ thứ hai. Chị kể năm ngoái khi chưa có dịch Cô Vít, chị đến thăm một bà bạn. Bà đẻ thêm tới ba người con trai lận. Bà chỉ vào hình chụp 3 cậu con trai đã lập gia đình. Bà chỉ vào ông con trai thứ nhất rồi kể : Tôi có bầu thằng này rồi vượt biên. Ôi chuyến đi hãi hùng, nhưng rồi cũng tới được Thái Lan. Sống lây lất ở trại mấy tháng rồi do tổ tiên phù hộ chúng tôi được Canada nhận, cháu sinh ở Canada nhưng có gốc ở Việt nam. Chỉ thằng này có gốc ở VN nên mặt mũi trông cứng rắn hơn hai em nó. Đây là Út Hai, đây là Út Ba. Cả ba thằng đều là kỹ sư cơ khí, làm cho hải quân. Ông xã tôi gốc hải quân mà.Tôi hỏi thằng Út bốn đâu thì chị bạn cười khì khì : cột rồi ! Dân Canada có ai đông con như bọn tôi đâu ! Bà bạn tôi có tới 6 con lận, 3 gái sinh ở VN, 3 trai sinh ở Canada.
Cụ B.95 nghe xong chuyện này thì quay vào anh John: Chi Ba đã kể xong, bây giờ đến lượt anh. Anh kể chuyện gì hay hay của Canada đi. Anh John liền gãi đầu rồi thưa : Canada thì nhiều chuyện lắm, cháu chưa biết chọn chuyện gì. Nhân nghe bác Từ Hòe nói tới thời sự Miến Điện, phe quân nhân đảo chính, cháu liền nghĩ tới chuyện sợ vợ ở Miến Điện. Sách chép là chuyện gốc Miến Điện, có người bảo chuyện này gốc bên Lào, nhưng không sao, gốc nước nào cũng được, ý chuyện mới là chính. Rằng ngày xưa có một ông vua Miến Điện, rất hiền lành và đạo đức nổi tiếng. Ông hay ngồi thiền, và mỗi lần thiền thi ông thấy mình chưa hạnh phúc hoàn toàn vì ông có tật sợ vợ. Ông nghĩ : trên đời này, anh chồng nào không sợ vợ mới là người có hạnh phúc thật. Ông muốn được xem con người hạnh phúc này mặt mũi ra sao, khác ông chỗ nào. Trong dinh ông có một con bạch mã rất đẹp mà ông rất quý. Ông liền gọi một cận thần lại và bảo : Ngươi hãy đi khắp nước tìm cho ta một người chồng nào không sợ vợ, rồi hãy nhân danh ta thưởng cho người đó con bạch mã quý báu này. Vị cận thần này đi hầu như khắp nước mà không tìm được ai. Nhưng may là ngày cuối cùng khi ông toan dắt con bạch mã về trả lại cho vua thì anh gặp được quý nhân. Ai cũng bảo anh này không bao giờ sợ vợ. Chính anh ta cũng tự nhận như vậy. Thế là vị cận thận bèn thay mặt vua thưởng cho anh ta con bạch mã. Và vị cận thần này sung sướng ra về vì đã chu toàn phận sự. Anh phải đi mất một tuần mới về tới dinh vua. Anh vào trình vua về sứ mạng hoàn tất. Lúc anh vừa bước ra khỏi cung thì cái anh không sợ vợ kia cỡi con bạch mã cũng vừa tới. Anh trình rằng vợ anh không thích con bạch mã, vợ anh muốn trả lại con bạch mã để đổi lấy con hồng mã cơ. Nghe xong, vị cận thần này liền xây xẩm mặt mũi rồi té xuống đất bất tỉnh.
Cả làng khen chuyện hay và vỗ tay rất lâu. Được hứng, anh John xin kể một chuện thứ hai, và anh bảo chuyện này có gốc Canada. Rằng trong ngày cuối năm khi các táo thần về chầu, ngọc hoàng liền nảy ra cái ý kiến tìm hiểu. Ngọc hoàng phán rằng hôm nay ta muốn biết một việc mà ta nghe nói chỉ ở trần gian mới có, đó là vấn đề sợ vợ. Bây giờ các ngươi hãy chọn đứng vào một chỗ cho đúng : Ai có tật sợ vợ thì đứng bên phải ta, còn ai không bao giờ sợ vợ thì đứg bên trái. Tức thì các sứ thần trần gian răm rắp chạy qua phía bên phải hết, trừ có một sứ thần hình như gốc Việt Nam, cứ lúng túng không biết đứng chỗ nào. Ngọc hoàng liền hỏi : Nhà ngươi có sợ vợ không? Anh ta thưa rằng có. Ngọc hoàng bèn hỏi sao ngươi không đứng về bên phải. Táo thần này bèn quỳ xuống rồi tâu : Vợ thần dặn rằng hễ thấy chỗ nào đông người thì phải tránh xa ngay !
Cả làng liền vỗ tay râm ran khen hay. Mấy cô trong phe các bà nói thêm : Anh John hãy xem lại tài liệu đi, chắc ông sứ thần này không phải gốc VN đâu. Dám cũng gốc Miến Điện quá !
Bà Cụ B.95 tỏ ý không muốn nghe chuyện sợ vợ nữa, anh John liền thưa rằng sở dĩ đàn ông có bệnh sợ vợ là vì đàn bà lý sự giỏi lắm nên đàn ông không cãi lại được. Sử còn ghi chuyện này để chứng minh. Rằng có một ông phú hộ kia lấy phải vợ già nên ông chán, bỏ bê nhà cửa, quay ra ăn chơi cờ bạc, hút xách và gái gung. Một bữa kia ông nghe tin từ bạn thân là vợ ông ngủ với một tên ăn mày. Ông giận lắm, ông liền về nhà làm dữ với vợ :
Thật là hết nói ! tại sao bà lại làm cái việc động trời này? Hết người rồi sao mà bà lại làm cái việc đó với thằng ăn mày?
Bà vợ già thản nhiên đáp :
Tại nó năn nỉ tôi quá nên tôi xiêu lòng!
Nó năn nỉ thế nào khiến bà xiêu lòng?
Nó nói : Lạy bà, xin bà thương, bà thấy trong nhà cái gì không xài nữa thì bà cho con !
Mấy bà cười rũ ra. Cô Huế Tôn Nữ lên tiếng : Liền bà có hư là vì liền ông nhiều máu dê quá. Tôi xin kể chuyện này để chứng minh : Rằng có một chàng công tử nhà giàu độc thân kia đi Huế nghỉ hè. Qua bạn bè giới thiệu, chàng được ở trọ một gia đình quý tộc. Gia đình này có 3 cô con gái rất đẹp. Chàng công tử này trổ tài chinh phục và cả 3 cô đều thích anh ta. Anh đã có một tháng hè hạnh phúc. Hết hè anh trở lại Saigon. Một tháng sau anh nhận được điện tín ông bố ba cô gái gửi khẩn cho anh với nội dung như thế này : Con gái tôi mang bầu, yêu cầu anh trở ra Huế gấp để thu xếp sự việc. Chàng công tử Saigon liền phúc đáp ngay : Xin Bác cho cháu biết cô nào có bầu. Cháu sẽ ra ngay.
Bà cụ B.95 nghe xong liền cười rồi lắc đầu. Thấy vậy, Cụ Chánh tiên chỉ làng nói : Thôi, chuyện liền ông với liền bà, nói mãn đời không hết, ai cũng có lý cả. Vì đây là luật thiên nhiên, âm dương hút nhau mà.
Anh John tiếp lời : Thôi, ta không nói chuyện sơ vợ hay chuyện bắt nạt vợ nữa, bây giờ tôi xin nói chuyện nhà thờ, chuyện nghiêm chỉnh nha. Rằng bữa trước xem lễ trực tuyến khi nghe bài phúc âm nói về chuyện Chúa Giêsu bữa đó về thăm sinh quán của ngài. Làng xóm kéo đến nghe rất đông. Ai cũng háo hức vì nghe ngài làm nhiều phép lạ khắp nơi. Họ xin ngài làm một phép lạ cho dân làng coi. Ngài không làm phép lạ gì hết vì biết họ có ý chế nhạo và không tin. Ngài bảo : xưa nay các nhà tiên tri đều bị sinh quán coi rẻ. Cả 4 Phúc m đều chép lời Chúa nói y như vậy. Lời tiếng Anh là: ‘ No man is a prophet in his country ’. Đọc xong câu này thì tôi giật mình và vô cùng sửng sốt vì câu này có gốc từ thành ngữ tiếng VN : ‘Bụt nhà không thiêng’.
Các cụ đã thấy cái anh John rể VN này thông thái chưa.
Ông ODP liền góp ý ngay : Anh nói như vậy thật là đúng. Chuyện Chúa Giêsu về làng là chuyện ngày xưa và cả 4 tác giả Phúc m đều chép như vậy. Câu ‘bụt nhà không thiêng’ là lời dịch đúng nhất và hay nhất. Rồi từ chuyện Kinh Thánh này làm tôi nhớ tới một chuyện VN, cũng mang một thông điệp như vậy, ta có của quý mà ta không biết, đó là chuyện nhà ái quốc Phạm Hồng Thái. Xưa nay nói về lòng ái quốc thì sách báo ở VN đều nhắc tới Kinh Kha, một điều Kinh Kha, hai điều Kinh Kha. Kinh Kha là ai, thưa là người được tiến cử cho vua nước Yên là Thái Tử Đan. Ông được Thái tử Đan hứa sẽ trọng thưởng nếu giết được Tần Thủy Hoàng. Cuộc lên đường của Kinh Kha được diễn ra linh đình bên bờ sông Dịch. Nhưng Kinh Kha đã thất bại, đã giết hụt, Tần Thủy hoàng thoát chết. Kinh Kha liền bị bắt và bị tử hình. Chuyện chỉ có thế. Trong khi sử VN ghi chuyện anh hùng Phạm Hồng Thái hay hơn nhiều nhưng ít được sách vở nói tới vì nó chạm tới uy tín sự cai trị của đế quốc Pháp thời bấy giờ. Chàng tuổi trẻ họ Phạm gốc ở Nghệ An, lớn lên trong thời quê hương bị giặc Pháp đô hộ tàn ác. Ông đã bỏ học đi tìm đường cứu nước. Nghe tin bên Tàu có nhóm người VN ở Quảng Châu đang bí mật lập đảng cách mạng và tìm cách về VN diệt thù, Phạm Hồng Thái tìm mọi cách tới được nơi này, và đúng lúc đó Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương là Merlin cũng đang có mặt ở đây. Nhân có bữa tiệc tiếp rước Merlin, Phạm Hồng Thái đóng vai ký giả và lọt vào được bên trong. Khi tiệc vừa bắt đầu thì Phạm Hồng Thái tung một trái tạc đạn vào bàn tiệc của Merlin. Nhiều người chết nhưng Merlin chỉ bị thương. Phạm Hồng Thái chạy thoát được ra ngoài nhưng chạy đến sông Tô Giang thì hết đường. Vì không muốn sa vào tay giặc Pháp, ông liền nhảy xuống sông tự tử. Báo chí Trung Hoa và thế giới loan tin ầm ĩ về biến cố long trời lở đất này. Lúc đó Trung Hoa chưa rơi vào tay CS. Lãnh tụ Tôn Trung Sơn đã cho mai táng nhà anh hùng VN tại Nghĩa Trang 72 Liệt Sĩ Cách Mạng Trung Quốc ở Hoàng Hoa Cương. Pháp phản đối việc này nhưng Trung Hoa lờ đi. Tin anh hùng Phạm Hồng Thái giết Merlin bị bưng bít hoàn toàn ở VN. Ngay cả các sách sử VN cũng không ghi chép nhiều về việc này. Phạm Hông Thái của VN anh dũng và vinh quang hơn Kinh Kha của Tàu nhiều chứ, một đàng vì lòng ái quốc, một đàng vì danh lợi, khác nhau rất nhiều chứ.
Xin các cụ nhắc con cháu rằng anh hùng Phạm Hồng Thái của VN vĩ đại hơn Kinh Kha của Tàu nhiều, hãy tôn kính anh hùng Phạm Hồng Thái hơn Kinh Kha, và hãy nhớ câu Chúa nói trong Kinh Thánh rất giống câu thành ngữ ‘Bụt nhà không thiêng’ của VN nha.
TRÀ LŨ
Phải giam trong nhà, cả ngày ai cũng ôm cái TV và mạng lưới. Suốt ngày toàn tin Cô Vít 19, tin tân vương Biden và cựu vương Trump, tin quân đội Miến Điện làm đảo chính và dân xuống đường, tin các tàu chiến quốc tế tới Biển Đông... Đúng phải vậy không cơ?
Xin bỏ qua các chuyện này để các cụ bớt nhức đầu, tôi xin kể hầu các cụ những chuyện khác nha. Tin đầu tiên là cuối năm vừa qua, Canada vừa tìm ra một mỏ vàng và kim cương lớn ở vùng Nunavut miền cực bắc. Vàng và kim cương lẫn với nhau. Mỏ này lớn như mỏ vàng Witwatersand Goldfield ở Nam Phi hiện nay. Canada đã giầu nay sẽ giầu thêm nữa các cụ ơi. Tin thứ hai là tin Canada vừa được đứng đầu danh sách số 1 về chất lượng cuộc sống trong năm 2020 vừa qua, đây là lần thứ 5 Canada được xếp hạng như vậy. Trong danh sách ‘Top 10’, sau Canada là Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy…Canada ngon lành như vậy hèn chi mà bà Kamala Harris phó vương bên Hoa Kỳ thuở thập niên 1970 đã sang học 4 năm Trung học ở đây, miền Montreal của tinh bang Quebec đấy các cụ ạ.
Nghe tôi nói vậy thì ông bồ chữ Từ Hòe cười hà hà. Ông bảo không biết tương lai của bà phó vương này sẽ ra sao, nhưng xem buổi lễ bà tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống thì thấy cũng kỳ lạ. Quốc vương Biden tuyên thệ xong thì đến lượt bà. Bà cũng như Vua Biden đều đặt tay trên sách Thánh Kinh. Có điều kỳ lạ là bà để ví tiền trên cuốn thánh kinh. Tay bà, rồi ví tiền, rồi mới tới cuốn Thánh Kinh. Kỳ ha.
Xin hết chuyện Hoa Kỳ, xin được nói về tin quốc tế : Theo các nguồn bí mật cho biết : hiện Trung Cộng đã đổ vào Canada 800 tỷ đô la. Họ tràn ngập miền tây, con cái họ đi học toàn lái các loại xe xịn nhất. Họ chọn mua những cơ sở thương mại to nhất, ở những căn nhà sang trọng nhất. Họ sống vương giả trên miền đất hạnh phúc này.
Ông ODP bồ chữ của làng An lạc chúng tôi nói ngay : Họ đang trả thù cho mối hận ngày xưa đấy mà. Nhiều hội viên trong làng không hiểu gì nên ông bồ chữ giải thích : Hồi Canada lập quốc, giới da trắng là vua kì thị trên đất nước này. Những năm 1881-85 có khoảng 15.000 người Hoa đến đây thì 6.500 người phải đi làm cho đường sắt Canadian Pacific Railway. Họ là những nhân công cực khổ nhất, làm việc nặng nhọc nhất, và được người da trắng gọi là cu-ly. Khi đường sắt nối liền đông-tây Canada làm xong thì Da Trắng làm luật cấm người Hoa đến Canada. Trong 38 năm liền, người Hoa muốn vào Canada phải đóng thuế đầu người. Năm 1885 thuế đầu người là 50$, năm 1900 tăng lên 100$, năm 1903 tăng lên 500$. Sổ thuế còn ghi rõ ràng : Từ năm 1885 đến 1923 Canada đã thu thuế ‘head tax’ được 23 triệu đồng, lúc đó lương công nhân là 5$ một tuần. Phong trào chống người Hoa rất mạnh. Năm 1907 Hơn 5 ngàn người da trắng xuống đường chống người Hoa và đuổi người Hoa về nước. Họ vừa hò hét vừa ném đá vào người Hoa. Nhiều cơ sở của người Hoa bị phá. Nhiều người Hoa từ Vancouver đã trốn sang Toronto. Thế chiến thứ I, người Hoa được nhập lính Canada, nhưng là lính bậc 2, không cầm súng mà chỉ cầm cuốc xẻng để đào hầm cho lính da trắng. Thế chiến thứ hai, người Hoa đóng góp rất nhiều cho Canada về nhân lực lẫn tài lực, do đó người da trắng mới bắt đầu nể người Hoa. Phải đợi đến đời thủ tướng Pierre Trudeau làm ra luật Đa Văn Hóa, Policy of Multiculturalism, người Hoa mới được dễ dàng đoàn tụ với gia đình ở Canada.
Sau người Tàu, người Ấn Độ cũng bị kỳ thị ở Canada. Năm 1908 có hơn 5 ngàn người Ấn Độ tới Canada, nhưng toàn là đàn ông và phải trả 200$ một đầu người. Năm 1911 Canada chỉ nhận thêm 2.342 người Ấn, trong khi nhận 100.000 người da trắng Ukranian. Mãi tới năm 1947 Canada mới thôi đuổi người Ấn Độ, và họ mới có quyền đi bầu. Thời đó báo chí ghi rằng dân Canada nhìn ai thì đầu tiên họ nhìn tới màu da, rồi tới phái tính. Báo chí Canada thời đó chê người Ấn Độ là dân ‘cà ri hôi hám’. Kẹt và xui một cái là người Ấn Độ luôn chia rẽ nhau vì tôn giáo : đạo Sikh, đạo Muslim, đạo Hindu.
Ngoài người Tàu và người Ấn Độ, người Nhật cũng bị nạn nữa. Năm 1941 Nhật ném bom Trân Châu Cảng, lúc đó ở Canada có vào khoảng 20.000 người Nhật. Do áp lực của Mỹ, Canada đã bắt gom những người Nhật này vào các trại tập trung ở B.C. miền tây. Năm 1988 thủ tướng Canada là ông Mulroney đã chính thức xin lỗi người Nhật về sự bất công này…
Nghe ông ODP kể đến đây thì Chị Ba Biên Hòa lên tiếng : Người Việt chúng ta thật là có phước và may mắn. Năm 1975, người Việt tỵ nạn đã được Canada mở cửa đón tiếp thân ái nồng nàn. Chúng ta thế hệ thứ nhất đã hội nhập và phát triển, đã sinh hoa kết trái rực rỡ trên mảnh đất phì nhiêu và đầy tình người này.
Rồi Chị Ba miên man sang lãnh vực con cháu, tức thế hệ thứ hai. Chị kể năm ngoái khi chưa có dịch Cô Vít, chị đến thăm một bà bạn. Bà đẻ thêm tới ba người con trai lận. Bà chỉ vào hình chụp 3 cậu con trai đã lập gia đình. Bà chỉ vào ông con trai thứ nhất rồi kể : Tôi có bầu thằng này rồi vượt biên. Ôi chuyến đi hãi hùng, nhưng rồi cũng tới được Thái Lan. Sống lây lất ở trại mấy tháng rồi do tổ tiên phù hộ chúng tôi được Canada nhận, cháu sinh ở Canada nhưng có gốc ở Việt nam. Chỉ thằng này có gốc ở VN nên mặt mũi trông cứng rắn hơn hai em nó. Đây là Út Hai, đây là Út Ba. Cả ba thằng đều là kỹ sư cơ khí, làm cho hải quân. Ông xã tôi gốc hải quân mà.Tôi hỏi thằng Út bốn đâu thì chị bạn cười khì khì : cột rồi ! Dân Canada có ai đông con như bọn tôi đâu ! Bà bạn tôi có tới 6 con lận, 3 gái sinh ở VN, 3 trai sinh ở Canada.
Cụ B.95 nghe xong chuyện này thì quay vào anh John: Chi Ba đã kể xong, bây giờ đến lượt anh. Anh kể chuyện gì hay hay của Canada đi. Anh John liền gãi đầu rồi thưa : Canada thì nhiều chuyện lắm, cháu chưa biết chọn chuyện gì. Nhân nghe bác Từ Hòe nói tới thời sự Miến Điện, phe quân nhân đảo chính, cháu liền nghĩ tới chuyện sợ vợ ở Miến Điện. Sách chép là chuyện gốc Miến Điện, có người bảo chuyện này gốc bên Lào, nhưng không sao, gốc nước nào cũng được, ý chuyện mới là chính. Rằng ngày xưa có một ông vua Miến Điện, rất hiền lành và đạo đức nổi tiếng. Ông hay ngồi thiền, và mỗi lần thiền thi ông thấy mình chưa hạnh phúc hoàn toàn vì ông có tật sợ vợ. Ông nghĩ : trên đời này, anh chồng nào không sợ vợ mới là người có hạnh phúc thật. Ông muốn được xem con người hạnh phúc này mặt mũi ra sao, khác ông chỗ nào. Trong dinh ông có một con bạch mã rất đẹp mà ông rất quý. Ông liền gọi một cận thần lại và bảo : Ngươi hãy đi khắp nước tìm cho ta một người chồng nào không sợ vợ, rồi hãy nhân danh ta thưởng cho người đó con bạch mã quý báu này. Vị cận thần này đi hầu như khắp nước mà không tìm được ai. Nhưng may là ngày cuối cùng khi ông toan dắt con bạch mã về trả lại cho vua thì anh gặp được quý nhân. Ai cũng bảo anh này không bao giờ sợ vợ. Chính anh ta cũng tự nhận như vậy. Thế là vị cận thận bèn thay mặt vua thưởng cho anh ta con bạch mã. Và vị cận thần này sung sướng ra về vì đã chu toàn phận sự. Anh phải đi mất một tuần mới về tới dinh vua. Anh vào trình vua về sứ mạng hoàn tất. Lúc anh vừa bước ra khỏi cung thì cái anh không sợ vợ kia cỡi con bạch mã cũng vừa tới. Anh trình rằng vợ anh không thích con bạch mã, vợ anh muốn trả lại con bạch mã để đổi lấy con hồng mã cơ. Nghe xong, vị cận thần này liền xây xẩm mặt mũi rồi té xuống đất bất tỉnh.
Cả làng khen chuyện hay và vỗ tay rất lâu. Được hứng, anh John xin kể một chuện thứ hai, và anh bảo chuyện này có gốc Canada. Rằng trong ngày cuối năm khi các táo thần về chầu, ngọc hoàng liền nảy ra cái ý kiến tìm hiểu. Ngọc hoàng phán rằng hôm nay ta muốn biết một việc mà ta nghe nói chỉ ở trần gian mới có, đó là vấn đề sợ vợ. Bây giờ các ngươi hãy chọn đứng vào một chỗ cho đúng : Ai có tật sợ vợ thì đứng bên phải ta, còn ai không bao giờ sợ vợ thì đứg bên trái. Tức thì các sứ thần trần gian răm rắp chạy qua phía bên phải hết, trừ có một sứ thần hình như gốc Việt Nam, cứ lúng túng không biết đứng chỗ nào. Ngọc hoàng liền hỏi : Nhà ngươi có sợ vợ không? Anh ta thưa rằng có. Ngọc hoàng bèn hỏi sao ngươi không đứng về bên phải. Táo thần này bèn quỳ xuống rồi tâu : Vợ thần dặn rằng hễ thấy chỗ nào đông người thì phải tránh xa ngay !
Cả làng liền vỗ tay râm ran khen hay. Mấy cô trong phe các bà nói thêm : Anh John hãy xem lại tài liệu đi, chắc ông sứ thần này không phải gốc VN đâu. Dám cũng gốc Miến Điện quá !
Bà Cụ B.95 tỏ ý không muốn nghe chuyện sợ vợ nữa, anh John liền thưa rằng sở dĩ đàn ông có bệnh sợ vợ là vì đàn bà lý sự giỏi lắm nên đàn ông không cãi lại được. Sử còn ghi chuyện này để chứng minh. Rằng có một ông phú hộ kia lấy phải vợ già nên ông chán, bỏ bê nhà cửa, quay ra ăn chơi cờ bạc, hút xách và gái gung. Một bữa kia ông nghe tin từ bạn thân là vợ ông ngủ với một tên ăn mày. Ông giận lắm, ông liền về nhà làm dữ với vợ :
Thật là hết nói ! tại sao bà lại làm cái việc động trời này? Hết người rồi sao mà bà lại làm cái việc đó với thằng ăn mày?
Bà vợ già thản nhiên đáp :
Tại nó năn nỉ tôi quá nên tôi xiêu lòng!
Nó năn nỉ thế nào khiến bà xiêu lòng?
Nó nói : Lạy bà, xin bà thương, bà thấy trong nhà cái gì không xài nữa thì bà cho con !
Mấy bà cười rũ ra. Cô Huế Tôn Nữ lên tiếng : Liền bà có hư là vì liền ông nhiều máu dê quá. Tôi xin kể chuyện này để chứng minh : Rằng có một chàng công tử nhà giàu độc thân kia đi Huế nghỉ hè. Qua bạn bè giới thiệu, chàng được ở trọ một gia đình quý tộc. Gia đình này có 3 cô con gái rất đẹp. Chàng công tử này trổ tài chinh phục và cả 3 cô đều thích anh ta. Anh đã có một tháng hè hạnh phúc. Hết hè anh trở lại Saigon. Một tháng sau anh nhận được điện tín ông bố ba cô gái gửi khẩn cho anh với nội dung như thế này : Con gái tôi mang bầu, yêu cầu anh trở ra Huế gấp để thu xếp sự việc. Chàng công tử Saigon liền phúc đáp ngay : Xin Bác cho cháu biết cô nào có bầu. Cháu sẽ ra ngay.
Bà cụ B.95 nghe xong liền cười rồi lắc đầu. Thấy vậy, Cụ Chánh tiên chỉ làng nói : Thôi, chuyện liền ông với liền bà, nói mãn đời không hết, ai cũng có lý cả. Vì đây là luật thiên nhiên, âm dương hút nhau mà.
Anh John tiếp lời : Thôi, ta không nói chuyện sơ vợ hay chuyện bắt nạt vợ nữa, bây giờ tôi xin nói chuyện nhà thờ, chuyện nghiêm chỉnh nha. Rằng bữa trước xem lễ trực tuyến khi nghe bài phúc âm nói về chuyện Chúa Giêsu bữa đó về thăm sinh quán của ngài. Làng xóm kéo đến nghe rất đông. Ai cũng háo hức vì nghe ngài làm nhiều phép lạ khắp nơi. Họ xin ngài làm một phép lạ cho dân làng coi. Ngài không làm phép lạ gì hết vì biết họ có ý chế nhạo và không tin. Ngài bảo : xưa nay các nhà tiên tri đều bị sinh quán coi rẻ. Cả 4 Phúc m đều chép lời Chúa nói y như vậy. Lời tiếng Anh là: ‘ No man is a prophet in his country ’. Đọc xong câu này thì tôi giật mình và vô cùng sửng sốt vì câu này có gốc từ thành ngữ tiếng VN : ‘Bụt nhà không thiêng’.
Các cụ đã thấy cái anh John rể VN này thông thái chưa.
Ông ODP liền góp ý ngay : Anh nói như vậy thật là đúng. Chuyện Chúa Giêsu về làng là chuyện ngày xưa và cả 4 tác giả Phúc m đều chép như vậy. Câu ‘bụt nhà không thiêng’ là lời dịch đúng nhất và hay nhất. Rồi từ chuyện Kinh Thánh này làm tôi nhớ tới một chuyện VN, cũng mang một thông điệp như vậy, ta có của quý mà ta không biết, đó là chuyện nhà ái quốc Phạm Hồng Thái. Xưa nay nói về lòng ái quốc thì sách báo ở VN đều nhắc tới Kinh Kha, một điều Kinh Kha, hai điều Kinh Kha. Kinh Kha là ai, thưa là người được tiến cử cho vua nước Yên là Thái Tử Đan. Ông được Thái tử Đan hứa sẽ trọng thưởng nếu giết được Tần Thủy Hoàng. Cuộc lên đường của Kinh Kha được diễn ra linh đình bên bờ sông Dịch. Nhưng Kinh Kha đã thất bại, đã giết hụt, Tần Thủy hoàng thoát chết. Kinh Kha liền bị bắt và bị tử hình. Chuyện chỉ có thế. Trong khi sử VN ghi chuyện anh hùng Phạm Hồng Thái hay hơn nhiều nhưng ít được sách vở nói tới vì nó chạm tới uy tín sự cai trị của đế quốc Pháp thời bấy giờ. Chàng tuổi trẻ họ Phạm gốc ở Nghệ An, lớn lên trong thời quê hương bị giặc Pháp đô hộ tàn ác. Ông đã bỏ học đi tìm đường cứu nước. Nghe tin bên Tàu có nhóm người VN ở Quảng Châu đang bí mật lập đảng cách mạng và tìm cách về VN diệt thù, Phạm Hồng Thái tìm mọi cách tới được nơi này, và đúng lúc đó Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương là Merlin cũng đang có mặt ở đây. Nhân có bữa tiệc tiếp rước Merlin, Phạm Hồng Thái đóng vai ký giả và lọt vào được bên trong. Khi tiệc vừa bắt đầu thì Phạm Hồng Thái tung một trái tạc đạn vào bàn tiệc của Merlin. Nhiều người chết nhưng Merlin chỉ bị thương. Phạm Hồng Thái chạy thoát được ra ngoài nhưng chạy đến sông Tô Giang thì hết đường. Vì không muốn sa vào tay giặc Pháp, ông liền nhảy xuống sông tự tử. Báo chí Trung Hoa và thế giới loan tin ầm ĩ về biến cố long trời lở đất này. Lúc đó Trung Hoa chưa rơi vào tay CS. Lãnh tụ Tôn Trung Sơn đã cho mai táng nhà anh hùng VN tại Nghĩa Trang 72 Liệt Sĩ Cách Mạng Trung Quốc ở Hoàng Hoa Cương. Pháp phản đối việc này nhưng Trung Hoa lờ đi. Tin anh hùng Phạm Hồng Thái giết Merlin bị bưng bít hoàn toàn ở VN. Ngay cả các sách sử VN cũng không ghi chép nhiều về việc này. Phạm Hông Thái của VN anh dũng và vinh quang hơn Kinh Kha của Tàu nhiều chứ, một đàng vì lòng ái quốc, một đàng vì danh lợi, khác nhau rất nhiều chứ.
Xin các cụ nhắc con cháu rằng anh hùng Phạm Hồng Thái của VN vĩ đại hơn Kinh Kha của Tàu nhiều, hãy tôn kính anh hùng Phạm Hồng Thái hơn Kinh Kha, và hãy nhớ câu Chúa nói trong Kinh Thánh rất giống câu thành ngữ ‘Bụt nhà không thiêng’ của VN nha.
TRÀ LŨ