GIÁO PHẬN PHAN THIẾT HÀNH TRÌNH 30 NĂM

A. TẠ ƠN CHÚA VÀ TRI ÂN HAI ĐỨC GIÁM MỤC

Năm Thánh Thể 2005, Giáo Phận Phan Thiết được phép của Toà Thánh tổ chức Năm Thánh mừng 30 năm thành lập giáo phận.

Đức Thánh Cha Phaolô VI ký Tông Sắc thành lập Giáo Phận Phan Thiết ngày 30/01/1975. Cùng với Quyết Định số 1538/75 ký ngày 30/03/1975 của Toà Thánh và quyết định của Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre ký ngày 30.3.1975, Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi đã về nhận nhiệm sở mới là Giáo Phận Phan Thiết với tư cách là Giám Quản Tông Toà vào ngày 17/04/1975. Ngài đến Phan Thiết giữa tiếng bom rơi đạn nổ của cuộc chiến khốc liệt với một niềm tin yêu phó thác vào Chúa.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ký Tông Sắc ngày 6/12/1979, bổ nhiệm Đức Cha Nicolas trở thành Giám Mục Chính Toà tiên khởi của Giáo Phận Phan Thiết.

giáo phận út của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Phan Thiết đã được Đức Cha Nicolas chăm sóc mục vụ, xây dựng và phát triển trong suốt hành trình sứ vụ Giám mục của ngài.

30 năm dưới sự lãnh đạo của vị mục tử nhân lành, khôn ngoan thánh thiện, giáo phận đã lớn lên không ngừng về mọi mặt.

30 năm trong chức vụ Giám mục, giám hiệu “Thiên Chúa là tình yêu” đã trở thành như nguyên lý, phương tiện và cùng đích của những tư tưởng và hành động của Đức cha Nicolas.

Ngày 14.7.2001, Đức Thánh Cha Giaon Phaolô II đã bổ nhiệm Linh mục Phaolô Nguyễn Thanh Hoan làm Giám Mục Phó Giáo Phận Phan Thiết. Ngài được thụ phong ngày 11.8.2001

Ngày 5.4.2005, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chấp thuận đơn thỉnh cầu nghĩ hưu vì sức khoẻ của Đức Cha Nicolas. Với quyền kế vị, Đức Cha Phaolô trở thành Giám Mục Chính Toà Giáo Phận Phan Thiết thay thế và tiếp nối Đức Cha Nicolas lãnh đạo Giáo phận.

Hôm nay ngày 30.4.2005. Trời dịu mát sau cơn mưa đầu mùa. Những ngày dài nắng hạn, cháy bỏng, oi bức đã được xoa dịu bằng dòng nước mát của cơn mưa trời ban. Linh mục đoàn cùng đông đảo các tu sĩ nam nữ, đại diện các hội đoàn, các giới trong Giáo phận về Nhà Thờ Chính Toà hiệp dâng thánh lễ Tạ ơn Chúa nhân dịp mừng sinh nhật lần thứ 78 của Đức Cha Nicolas và 40 linh mục của Đức Cha Phaolô.

Đúng 9 giờ sáng, đoàn rước từ nhà xứ tiến vào nhà thờ trong tiêng nhạc lời ca chúc tụng cảm tạ, trong hân hoan vui mừng.

1. Diễn văn chào mừng và cảm tạ

- Mở đầu là bài diễn văn chào mừng và cảm tạ của Đức Ong JB Lê Xuân Hoa, Tổng đại diện.

Trọng kính hai Đức Cha quý mến !

Hôm nay, hòa mình với niềm vui chung của đất nước, ghi nhớ ngày tái lập hòa bình trên quê hương Việt Nam, trong phạm vi Giáo phận, cũng là ngày 40 năm linh mục của Đức Cha Phaolô, ngày sinh nhật 78 của Đức Cha Nicôlas, nguyên Giám Mục chính tòa Phan Thiết. Trong bầu không khí của năm Thánh Thể, cũng là Năm Thánh của Giáo phận, 30 năm thành lập. Chúng con, đại diện tiểu biểu cho gia đình Giáo phận, gồm các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh, Hội đồng mục vụ các cấp, đại diện các đoàn thể giáo dân, trong giờ phút long trọng này xin dâng lên hai Đức Cha lòng quý mến và hiếu thảo của chúng con.

Kính thưa Đức Cha Phaolô, với quyết định của Tòa Thánh, với lời công bố của Đức Cha trong thư mục vụ ngày 9.4.2005, Đức cha đã trở thành Giám mục chính tòa Phan Thiết kế vị Đức Cha Nicôlas.

Hôm nay, lần đầu tiên, gia đình Giáo phận hiện diện ở đây bên cạnh Đức Cha, chúng con chào mừng và chúc mừng Đức Cha trong chức vụ mới, chức vụ của một người Chủ chăn có quyền hành thông thường riêng biệt và trực tiếp, lãnh trách nhiệm hướng dẫn đoàn chiên Giáo phận. Chúng con hứa vâng phục Đức Cha, cộng tác với Đức Cha trong mọi công việc để bảo vệ và phát huy những thành quả thành quả tốt đẹp trong hoạt động Tông Đồ mà vị tiền nhiệm Đức Cha đã để lại cho Giáo phận.

Lá cờ mà Đức Cha Nicôlas trao lại cho Đức Cha hôm nay là lá cơ tươi thắm, đứng thẳng đang bay trước mọi ngọn gió, dù thuận dù nghịch. Đó là hiệu kỳ của Đức tin, yêu thương và hiệp nhất.

Giờ đây, chúng con xin phép Đức Cha Phaolô để đặc biệt, ngỏ lời với Đức Cha Nicôlas nguyên là Giám mục chính tòa của chúng ta.

Kính thưa Đức Cha Nicôlas, làm sao Giáo phận không ưu tư và lo lắng khi biết sức khỏe Đức Cha gần một năm nay đã bị suy giảm nhiều. Và làm sao Giáo phận khỏi bâng khuâng và xúc cảm khi biết tin Tòa Thánh đã chấp thuận để Đức Cha được từ chức, giao quyền cải quản Giáo phận cho người kế vị.

Kính thưa Đức Cha, mọi sự việc xảy cho cá nhân cũng như cho tập thể đều không ngoài sự quan phòng khôn ngoan của Chúa. Do đó, trong quan điểm Đức tin và kỷ luật, Giáo phận xin cúi đầu chấp nhận và vâng phục sự xếp đặt của Tòa Thánh. Nhưng chúng con không thể không nhìn lại một cách bình thường công đức và sự nghiệp Đức Cha đã để lại cho Giáo phận trải dài trong 30 năm qua. Nói sao cho cùng, viết sao cho hết. Đức Cha về Giáo phận lúc 48 tuổi, bây giờ Đức Cha nghỉ việc Giáo phận tuổi đã 78. Thời gian và công tác mục vụ đã dục khét vóc dạng và làm hào mòn sức lực Đức Cha dù rằng trí tuệ và tinh thần Đức Cha vẫn con minh mẫn sáng suốt. Giờ đây dù khiêm nhường đến đâu, thì Đức Cha cũng có thể nói : “Lòng nhiệt tâm đối vời nhà Chúa đã nghiến cả thân tôi.” (Tv 69, 10 )

Kính thưa Đức Cha Nicôlas

Giây phút này tại nhà thờ chính tòa, có đủ thành phần tiểu biểu của dân Chúa trong Giáo phận, trước sự hiện diện của Đức Cha Phaolô. Chúng con xin Đức Cha nhận nơi chúng con tâm tình cảm tạ và tri ân sâu xa nhất và chân thành nhất,và xin hợp một ý lòng cùng Đức Cha dâng lên Chúa muôn trùng cao cả về mọi hồng ân Chúa đã thương ban cho Đức Cha trong đời Giám mục của ngài. Để đền đáp công đức hải hà của Đức Cha trong 30 năm qua chúng con nguyện khắc ghi và thi hành và lời dạy bảo của Đức Cha : “Thiên Chúa Là Tình Yêu”. “Các con hãy thương yêu nhau.”

Xin Đức Mẹ Maria, bổn mạng Giáo phận, Thánh Nicôlas, Thánh Phaolô chứng giám lòng hiếu thảo của chúng con và chuyển cầu cho chúng con, cho Giáo phận. Xin hiệp ý với Đức Cha Phaolô, chúng con kính mời Đức Cha - trong thời gian nghỉ để chữa bệnh và dưỡng bệnh - về ở Tòa giám, để chúng con có thể gần gũi và thăm viếng Đức Cha.

Thánh lễ sắp bắt đầu, ước gì những lời cầu nguyện của cộng đoàn tại đây và trong khắp Giáo phận đang hướng về đây, dâng lên Cha trên trời, hợp với hiến lễ của Đức Kitô, được Ngài và vui lòng chấp nhận và ban phúc lành hiền phụ cho chúng con cho toàn thể Giáo phận Phan Thiết thân yêu này.


- Sau những tràng vỗ tay chúc mừng, đại diện linh mục đoàn, các chủng sinh, tu sĩ, các hội đoàn dâng những lẵng hoa tươi thắm lên hai Đức Cha.

- Tiếp theo, Đức cha Nicolas ngõ lời cùng cộng đoàn.

2. Bài đáp từ của Đức Cha Nicolas

Xin cám ơn Đức Ong Tổng Đại Diện, quý cha Hạt trưởng, quý cha, các tu sĩ nam nữ, chủng sinh, đại diện Hội Đồng Mục Vụ các giáo xứ, đoàn thể, ca đoàn, lễ sinh và anh chị em đại diện các cộng đoàn dân Chúa đã đến để cùng dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa, nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của tôi (1-5-1927) và để cầu nguyện cách đặc biệt cho tôi.

Cám ơn Chúa về những ơn lành Người đã ban cho tôi suốt 78 năm qua, nhất là trong 30 năm, thời gian tôi coi sóc Giáo Phận Phan Thiết thân yêu này. Xin Chúa tiếp tục ban cho Giáo Phận được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn.

Trong bài chúc mừng của Đức Ong Tổng Đại Diện cũng đã nhắc đến một số công trình đã thực hiện được trong Giáo Phận và cho Giáo Phận, đồng thời cũng đã nhắc đến người đứng đầu Giáo Phận và cám ơn tôi. Xin cám ơn những lời đầy khích lện của Đức Ong. Phải, trong việc thực hiện những công trình nhỏ bé và khiêm tốn này, có phần đóng góp của tôi, nhưng như tôi vẫn nói: một cha xứ, cha phó hay Giám Mục không có giáo dân, thì giống như những con cua, con ghẹ không que, không càng… Chính nhờ sự đồng tâm nhất trí trong Giáo Phận, nhờ sự hợp tác chân tình và nhiệt thành của tất cả anh chị em mà những công trình này đã được thực hiện và thành công. Xin Chúa thưởng công bội hậu cho anh chị em.

Xin anh chị em tiếp tục cộng tác với các cha, nhất là với Đức Cha Phaolô, người kế vị tôi, để cùng nhay xây dựng và phát triển Giáo Phận ngày càng đẹp hơn, đoàn kết hơn, đạo đức, thánh thánh thiện hơn trong việc tông đồ và truyền giáo.

Hôm nay, cũng là ngày Giáo Phận mừng kỷ niệm lần thứ 40, ngày Đức Cha Phaolô được thụ phong linh mục. Chúng ta cùng ta ơn Chúa với ngài và cầu nguyện cho ngài mạnh khoẻ, sống lâu, tràn đầy ơn Chúa, để ngài phục vụ Giáo Phận lâu dài.

Một lần nữa, cám ơn và xin tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Phận, cho hai Giám Mục chúng tôi.

Giờ đây chúng ta dâng thánh lễ tạ ơn Chúa
.

3.Lời cám ơn của Đức Cha Phaolô

Cuối thánh lễ Đức Cha Phaolô ngõ lời cám ơn.

Kính thưa cộng đoàn cùng với anh chị em.

Hôm nay đại diện mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận tụ họp về đây để cám ơn Đức Cha Nicolas. Qua bao năm trong gian khó đã đưa giáo phận đi lên một cách tốt đẹp để chúng ta cùng hướng về tương lai.

Cuộc tụ họp hôm nay cũng để cùng với tôi tạ ơn Chúa, 40 năm làm linh mục. Giai đoạn 40 năm linh mục chẳng có là bao. Nhưng trước mắt, luôn luôn Chúa vẫn đề ra những nhiệm vụ để cho mình thực hiện liên tục.

Xin cám ơn tất cả, cám ơn Đức Cha, Đức Ong, Quý Cha cùng toàn thể mọi người đã hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho tôi. Xin tiếp tục cầu nguyện để cho khắp trong Giáo hội công việc không bị ngừng động lại nhưng tiếp tục đi lên. Bởi vì những bước đi mà chỉ có Chúa Thánh Linh mới hướng dẫn chúng ta. Xin Chúa Thánh Linh, và xin cả cộng đoàn cầu nguyện cho tôi để tôi có thể chu toàn sứ vụ mà Chúa đã trao phó.

Xin cám ơn.


B. ĐIỂM LẠI NHỮNG NÉT CHÍNH YẾU CỦA LỊCH SỬ GIÁO PHẬN.

1. Những cột mốc lịch sử

- Cho đến tiền bán thế kỷ XVII (1748), Bình Thuận vẫn là vùng đất hoang sơ theo như miêu tả của Đức Cha Phụ tá Emond Bennetat : Chiều dài của Vương Quốc Chănpa (bao gồm Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang) từ phía Nam lên phía Bắc khoảng 6 ngày đường, có nơi chỉ vài tiếng đồng hồ, có nơi thậm chí hầu như chẳng hao tốn sức gì cả. Nhưng dù là chiều dài hay chiều rộng thì vương quốc đó bát ngát là những rừng cây trùng trùng điệp điệp, mà phần lớn lãnh thổ chẳng có dân cư nào khác hơn ngoài cọp, voi và những loài thú dữ. Trên toàn lãnh thổ Chămpa có 6 ngôi Nhà Thờ và một ngôi Nhà Nguyện ( Memorial Indochinois N 0 25. Tr 761). Chính trên vùng đất gần như hoang mạc này, vào những năm 1665, dù lúc đó còn là lãnh thổ Vương Quốc Chămpa, hạt giống Tin Mừng đã được gieo xuống. Tại Phan rí, đầu năm 1665, người ta đã ghi nhận một cộng đoàn tín hữu rất nhiệt thành với hơn 400 giáo dân, chưa kể 22 tân tòng đã có mặt (x. Chappoule. Aux Origines d’une Eglise, Roma et les Missions d’Indochine au XVII e siecle, T.I, Paris 1943, tr 181-182).

- Phan rí trong những năm 1665 - 1697, trở thành cửa ngõ ra vào và trạm dừng chân của các nhà thừa sai, trước khi đi vào lãnh địa của các Chúa Nguyễn.

- Năm 1685, người Kitô hữu hầu như có mặt trên khắp Bình Thuận : Phan rí 100 giáo dân, Phan thiết 1500 và Lagi 300 giáo dân ( x. kỷ yếu đ.p Nha trang, xb 1972, tr 7)

- Đến năm 1911, vùng Bình thuận có đến 16 cộng đoàn với khoảng 3081 giáo dân.

- Từ năm 1955, trong số 650.000 giáo dân miền Bắc di cư vào Nam, có khoảng 20.500 định cư tại Bình Thuận (trong đó có :15.000 gốc Vinh, 2.500 gốc Thanh Hoá và 3.000 gốc Hải Phòng). Các tín hữu đã cùng chen vai sát cánh với cộng đoàn địa phương, tạo ra một dung mạo mới, một khí thế mới cho Giáo hội tại vùng đất Bình thuận.

- Trong những năm 1957-1963 trên cơ sở chính sách dinh điền, một làn sóng dân mới từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Huế, Hố Nai, Phước Long... tràn vào Bình Tuy, tỉnh vừa mới tách ra từ tỉnh Bình Thuận theo Nghị định 29.06.1957, và trong thời gian này dấy lên một phong trào tòng giáo mạnh mẽ và mở rộng lớn hấu như khắp miền Nam.

- Năm 1964, cả Bình Thuận đã có đến 35 Giáo xứ, qui tụ quanh hai Giáo hạt (Phan Thiết và Thanh Hải) với 49.773 giáo dân, đó là các Giáo xứ: Phan Thiết, Vinh Lưu, Thọ Ninh (Thọ Tràng), Thuận Nghĩa, Tân Lý, Tân Lập, Vinh Tân, Thanh Xuân, Hiệp Nghĩa, Cù Mi, Huy Khiêm, Võ Đắt, Tư Tề, Võ Xu, Mepu-Thuận Đức, Duy Cần (Gia An) Chính Tâm 1 (Chính Tâm), Chính Tâm 2 (Thánh Tâm), Long Hương, Phan Rí Cửa, Long Lễ (Long Hà), Sông Mao, Ma Ó (Hoà Thuận), Lương Sơn, Kim Ngọc, Tầm Hưng, Ma Lâm, Mũi Né, Sao Biển (Rạng), Phú Hài, Thanh Hải, Vinh Thuỷ, Vinh Phú, Đông Hải (x. Niên giám 1964 tr.249-250). Trong những năm 1964-1975 xuất hiện thêm 17 cộng đoàn, đó là các Giáo xứ: Hiệp An, Long Hoa, Thánh Tâm (Quân Đội), Phước An, Tánh Linh, Vinh Thanh, Đồng Tiến, Bình An, Vinh An, Hoà Vinh, Hiệp Đức, Tân Châu, Gio Linh, Tin Mừng, Phục Sinh, Thánh Linh, Đông Hà.

- Chính đà phát triển mạnh mẽ đó, từ năm 1970, Đức Cha F.X. Nguyễn Văn Thuận đã có ý định phân chia Giáo phận Nha Trang thành hai Giáo Phận: Nha Trang và Phan Thiết. Công việc chuẩn bị được khẩn trương tiến hành: nhân sự và cơ sở vật chất.

- Ngày 30/01/1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI ký Tông Sắc phân chia Giáo Phận Nha Trang, lấy hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy lập thành Giáo Phận Phan Thiết. Đó là đứa con thứ 25 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

2. Ba mươi năm Giáo Phận Phan Thiết

- Như nụ hoa xương rồng trên vùng cát nóng bỏng, Giáo Phận Phan Thiết đã được cưu mang ròng rã suốt 310 năm (1665-1975), và đến khi chào đời được sinh ra trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, tế nhị và khó khăn: Cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn mới, với những dấu hiệu cho thấy một cuộc chuyển giao quyền hành chính trị sắp diễn ra ở Miền Nam Việt Nam.

- Cùng với Tông Sắc thành lập Giáo Phận Phan Thiết được Đức Thánh Cha Phaolô VI ký ngày 30/01/1975, với Quyết Định số 1538/75 ký ngày 30/03/1975 của Toà Thánh và quyết định của Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre ký ngày 30.3.1975, ngày 17/04/1975, trong tin yêu phó thác và bom đạn, Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi đã về nhận nhiệm sở mới là Giáo Phận Phan Thiết với tư cách là Giám Quản Tông Toà. Và ngày 6/12/1979, với Tông Sắc được ký cùng ngày của Đức Cha Gioan Phaolô II, Đức Cha Nicolas trở thành Giám Mục Chính Toà tiên khởi của Giáo Phận Phan Thiết. Với những định hướng rõ rệt ngay từ đầu, trong suốt 30 năm qua, Vị Chủ Chăn của Giáo Phận đã xây dựng Giáo Phận theo mãu Vị Hiền Thê và Thân Thể của Đức Kitô là Hội Thánh, nghĩa là xây dựng:

a. Một Giáo Phận duy nhất và hiệp nhất: hiệp nhất giữa giáo dân với nhau, giữa linh mục với nhau, giữa giáo dân và linh mục, và giữa mọi thành phần dân Chúa với Giám mục của mình...

b. Một Giáo Hội thánh thiện: thành một cộng đoàn Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến để nên phương tiện cứu độ cho mọi người...

c. Một Giáo Phận Công Giáo: nghĩa là chung cho mọi người, sẵn sàng đón nhận mọi người, và trong đó mọi người đều được đối xử bình đẳng và đồng trách nhiệm, loại trừ óc bè phái cục bộ địa phương...

d. Một Giáo Phận Tông Truyền: như các cộng đoàn tín hữu thuở sơ khai “Chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, và luôn hiệp nhất với nhau” (Cv 2,42), nghĩa là trên nền tảng các Tông đồ và người kế vị các ngài là các Giám Mục, Tông Truyền còn có nghĩa là được “sai đi loan báo Tin Mừng”, vì thế Giáo Phận coi việc truyền giáo như là ơn riêng, là ơn gọi, là lẽ sống, là bản chất và là căn tính của mình... (lời của Đức Cha Nicolas).

* GIAI ĐOẠN 1975-1986

Đặc điểm của thời kỳ này là dè dặt và thận trọng. Việc đi lại của Giám Mục và Linh mục không thuận lợi. Một số sinh hoạt tôn giáo bình thường (dạy và học giáo lý, tập hát...) sinh hoạt ở mức tối thiểu. Một số nhà thờ bị tạm ngưng hoạt động: Vinh Thuỷ, Tư Tề (1978), Vinh Phú, Vinh An (1979), Long Hương, Thanh Hải (1980), Tánh Linh (1983).Một số Linh mục đi học tập cải tạo: 7 Linh mục (1976), 3 Linh mục (1978), 3 Linh mục (1979-1980)... Đó là những điều có thể hiểu được trong thời hậu chiến ở một số quốc gia trên thế giới, và là hậu quả của một quá khứ trong bối cảnh đặc thù tại Việt Nam.

Về phía Giáo Hội, đây có thể nói là thời kỳ mà những đặc tính Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền được biểu lộ rõ rệt nhất và mạnh mẽ nhất trong mối quan hệ giữa các thành phần dân Chúa trong Giáo Phận. Trong điều kiện đi lại khó khăn, những tập Giáo Huấn của Đức Giám Mục (bắt đầu từ năm 1979), ngắn gọn nhưng rất súc tích và cụ thể, được vang lên hàng tuần trong các Giáo xứ đã khiến cho người chủ chăn khiêm tốn của Giáo Phận “hiện diện cách hữu hình giữa đoàn chiên thân yêu của mình” (x. Giáo huấn 1979, lời ngỏ) và đã trở thành như là công cụ đào tạo và huấn luyện cho cộng đoàn dân Chúa một cách rất hữu hiệu. Đàng khác, trong nỗ lực xây dựng và bảo vệ đức tin và các cộng đoàn, việc giảng dạy giáo lý được đặt lên ưu tiên hàng đầu.

* GIAI ĐOẠN 1986-2005

Đặc điểm thời kỳ này là cố gắng đối thoại và hiểu biết nhau hơn... Trong bầu khí đó, các mâu thuẫn khó khăn từ từ được tháo gỡ. Một số Linh mục học tập cải tạo được trở về. Một số lớn nhà thờ bị tạm ngưng hoạt động được sinh hoạt lại bình thường; việc giảng dạy giáo lý cần được thực hiện đều khắp trong Giáo Phận, song hành với việc huấn luyện các Giáo Lý Viên cách bài bản. Một số thiện hội cũng được thành lập đã trở thành phương tiện sống đức tin và truyền bá Tin Mừng (như Bà Mẹ, Gia Trưởng, Legio...).

Đặc biệt trong thời gian khoảng 14 năm (1991-2005), khoảng 60 ngôi nhà thờ và nhà nguyện trong Giáo Phận đã được xây mới. Chủng viện Nicolas đựơc xây dựng mới và hoạt động. Ngoài ra phần lớn Giáo xứ đã xây dựng hoặc tu sửa lại nhà xứ, nhà giáo lý. Các cộng đoàn tu sĩ mở nhà trẻ, nhà nội trú, lớp mẫu giáo, lớp tình thương nhằm phục vụ giới nghèo. Ngoài ra, Giáo Phận đã thực hiện nhiều công trình xã hội, từ thiện và phát triển như: đập nước, cầu cống, đường sá, nhà tình thương, cho vay vốn nuôi bò, mua giống, xoá đói giảm nghèo... (x. Thư mục vụ 01.02.2000).

Những nỗ lực truyền giáo và tái truyền giáo trực tiếp và gián tiếp đã tạo ra được một phong trào tòng giáo và tái tòng giáo rất mạnh mẽ trong Giáo Phận, khiến con số giáo dân từ 69.921 năm 1975 đến năm 2005 đã lên tới 148.411 người, trong 5 giáo hạt, 55 giáo xứ và 37 giáo họ, đồng thời củng cố thêm đức tin và tạo thêm uy tín cho Giáo Hội đối với nhiều người.

Về mặt nhân sự, con số Linh mục, đại chủng sinh, tu sĩ cũng gia tăng đáng kể. Khi thành lập, giáo phận có 59 linh mục ( 4 vị hưu), 33 đại chủng sinh, 4 lớp tiểu chủng sinh. Năm 2005, có 82 linh mục, 85 đại chủng sinh, dự tu. Trong thư mục vụ ngày 01/02/2000 kỷ niệm 25 năm Giáo Phận Phan Thiết, Đức Giám Mục Giáo Phận đã viết:“Là một hạt cải nhỏ bé lúc đầu, Giáo Phận chúng ta đã nẩy mầm và mọc lên thành cây. Chúng ta hết lòng cảm tạ Thiên Chúa vì đã giữ gìn và hỗ trợ Giáo Phận tăng trưởng như ý Chúa muốn. Chúng ta sẽ cố gắng sống tốt để đáp lại tình yêu của Người”.

Trong tâm tình đó, Giáo Phận hướng về tương lai với tràn đầy tình yêu, niềm tin và hy vọng.

3. Hướng về tương lai

- Nếu tạm lấy mốc hạt giống Tin Mừng được gieo vãi trên mảnh đất Bình Thuận khô cằn và cát bỏng này, thì đến nay đã 340 năm trôi qua (1665-2005). Một vài cột mốc trên đây đủ để đưa ra một số nhận định khách quan và một số bài học lịch sử quan trọng và hữu ích cho hiện tại và tương lai:

a. Công cuộc truyền giáo sẽ đạt được những hiệu quả cao nhất và tạo ra một phong trào mạnh mẽ, khi Giáo hội chứng tỏ được mình mang trong mình sức mạnh của Tình yêu và trở thành chỗ nương tựa, nơi ẩn náu cho những người nghèo, bất hạnh bị áp bức cả tinh thần lẫn vật chất, hay nói cách khác, Giáo Hội thực hiện 3 chức năng (tư tế, ngôn sứ và phục vụ) của mình cách triệt để.

b. Về nhân sự, cần có những con người quan tâm, tha thiết và hăng hái với công cuộc truyền giáo (Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và giáo dân), nhất là những con người biết phối hợp việc rao giảng với chứng từ của đời sống, vì như Đức Phaolô VI đã viết trong Tông Huấn Loan Tin Mừng là: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhnâ chứng hơn là những thầy dạy hoặc nếu có nghe những thầy dạy, thì bởi vì chính thầy cũng là những nhân chứng” (số 41).

c. Tính tổ chức và tính đồng bộ là điều thiết yếu cho công cuộc truyền giáo đạt được những hiệu quả cao và rộng khắp: đó là điều đã được thể hiện phần nào trong phong trào tòng giáo và tái tòng giáo trong giai đoạn 1986-2005.

d. Vấn đề tiền và hậu tòng giáo, tình trạng bội giáo gần như đồng loạt sau những đợt tòng giáo ồ ạt của hai đợt đầu (1890-1900 và 1945-1963). Nguyên nhân là do các tân tòng không được trang bị về mặt giáo lý trước và sau tòng giáo. Điều đáng mừng là trong suốt 30 năm qua, Giáo Phận đã đặt vấn đề dạy giáo lý (tổng quát, hôn nhân và tân tòng) lên một trong những ưu tư hàng đầu của mình.

Chính nhờ tiếp thu những kinh nghiệm quá khứ, cùng với những nổ lực truyền giáo trong tinh thần hiệp nhất mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận mà 30 năm qua, giáo phận đã không ngừng tăng trưởng và phát triển cả về chất lẫn về lượng.

Trên cơ sở đó giáo phận hướng về tương lai vời đầy tràn niềm hy vọng.

Giáo Phận Phan Thiết như một nụ xương rồng vàng óng nở hoa khoe sắc. Cho dẫu mặt trời cháy bỏng trên vùng đất khô cằn, cây xương rồng luôn khiêm tốn nép mình bên đường như bông hoa nhỏ tạo vẻ ngạc nhiên cho du khách. Giờ đây cây xương ròng đã chuyển thành cây thanh long như là một biểu tượng đầy sức sống tươi trẻ của giáo phận thân yêu.

(Chính tâm ngày 30.4.2005)