BA MƯƠI NĂM HIỆP THÔNG VỚI GIÁO HỘI QUÊ HƯƠNG
Biến cố ngày 30.04.1975 đã làm thay đổi quá nhanh và quá nhiều cho Miền Nam Tổ Quốc Việt-Nam, về chánh trị, kinh tế lẫn tín ngưỡng và tôn giáo.
Giáo Hội Công Giáo Quê Hương, không là một ngoại lệ, đã sống toàn vẹn với vận mạng của Dân Tộc Việt-Nam. Các Đức Giám Mục (kể cả Đức Tồng Giám mục Henri Lemaitre, Khâm sứ Tòa Thánh) đã chấp nhận mọi gian nguy, hiểm trở có thể đến với mình, quyết chu toàn nhiệm vụ Chủ chăn mà Giáo Hội giao phó để dẫn dắt Cộng dồng Dân Chúa. Nhờ thế, Giáo Hội Công Giáo Việt-Nam vẫn sống kiên cường dưới sự linh hướng của Hội đồng Giám Mục.
I.- HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT-NAM.
Chúng ta biết rằng : Giáo Hội Công Giáo Quê Hương được lãnh đạo và đại diện bởi Hội đồng Giám Mục Việt-Nam. Tiếng nói hay hành động của một tín hữu Công giáo, dù người đó là một Giám mục, một Linh mục, một Tu sĩ hay một Giáo dân, cũng chỉ là tiếng nói hay hành động của cá nhân ấy mà thôi chứ không phải của Giáo Hội Công Giáo tại Việt-Nam.
1.- Các Giám mục Miền Nam đã họp từ 15 đến 20.12.1975 và đã loan đi Thông cáo chung :
“… Đứng trước hoàn cảnh mới và phức tạp, chúng tôi ý thức tầm mức quan trọng của khóa họp và vì thế, chúng tôi đã nhất trí đề ra một phương pháp mới để làm việc.
Chúng tôi nghĩ rằng chưa mấy ai trong chúng ta có đầy đủ kinh nghiệm về nếp sống hiện tại. Do đó, chúng tôi đặt trọng tâm của khóa họp vào việc lắng nghe và tìm hiểu…”
Ngày 16.07.1976, Hội nghị các Giám mục Miền Nam Việt-Nam đã ra Thư Chung với các điểm chính như sau:
“Giáo Hội tại thế. Đức Giêsu Kitô đã được sai đến qui tụ nhân loại thành một gia đình duy nhất trong đó Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Công cuộc đó chỉ được hoàn thành khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Nhưng Ngài đã thiết lập Giáo Hội, hầu ở trần gian, trong giòng lịch sử nầy, Giáo Hội làm dấu chỉ cho sự hợp nhất và làm khí cụ xây dựng nhân loại mới ấy. Bởi đó Giáo Hội có nhiệm vụ đồng hành với toàn thể nhân loại và cùng chung một số phận trần thế (xem Vui Mừng và Hy Vọng 40, 2).
Dấn thân. Đạo chúng ta là đạo cứu thế qua việc dấn thân phục vụ. Chính Chúa Kitô đã đến làm người ở giữa chúng ta và sống trọn vẹn thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (xem Hipri 4, 15).
Chính vì vậy mà Giáo Hội ước mong được đối thoại với hết mọi người. Giáo Hội tin rằng đối thoại là con đường tốt nhất để đi tới sự thông cảm nhau.
Phục vụ. Sự hiện diện của chúng ta trong lòng dân tộc còn phải thể hiện mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Đức Kitô đã làm người để cứu độ chúng ta. Ngài yêu thương thế gian đến nổi đã hiến mạng sống để cứu độ thế gian.
Không bị một tham vọng trần thế nào thúc đẩy, Giáo Hội cũng chỉ nhắm một điều là tiếp tục công cuộc của chính Chúa Kitô. Đấng đã đến thế gian để làm chứng cho chân lý, để cứu rỗi chứ không luận phạt, để phục vụ chứ không để được hầu hạ (xem Vui Mừng và Hy Vọng 3).
Người Công Giáo và Chủ nghĩa Xã hội. Gìữa Đức Tin Kitô giáo và Chủ nghĩa Mác-Lênin có xung khắc về cơ bản, điều nầy ai cũng nhìn nhận. Tuy nhiên, không vì thế mà không thể có đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai cùng phục vụ con người trong sứ mạng cá nhân và xã hội: “Vì mọi người dù tin hay không tin, cũụng đều phải trợ lực cho việc xây dựng thế giới nầy là hợp lý, là nơi họ đang sống (xem Vui Mừng và Hy Vọng 21, 6).
2.- Hội đồng Giám Mục Việt-Nam đã họp Đại hội từ ngày 24.04 đến 01.05.1980 tại Hà nội. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ ‘Venerabilium Nostrorum’ thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt-Nam ngày 24.11.1960, các Đức Giám Mục Việt-Nam mới có dịp họp chung. 33 Đức Giám Mục đã có thư gởi toàn thể tín hữu Công giáo ngày 01.05.1980. Trong đó, Hội đồng Giám mục Việt-Nam xác định Đường Hướng Mục Vụ được xây dựng dựa trên căn bản :
A.- Một Hội Thánh vì Loài Người. Sứ mạng của Hội Thánh :
a) không những là đem Phúc Âm và ân sủng của Chúa Kitô đến cho nhân loại, mà còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế (Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân 1)
b) là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để phục vụ tất cả loài người. Đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giải thích trong thông điệp "Đấng Cứu chuộc con ngườĩ" (Redemptor Hominis) rằng: «Con người là con đường của Hội Thánh», nghĩa là tất cả mọi con đường của Hội Thánh đều dẫn tới con người (Đấng Cứu chuộc con người, 14). Đây cũng là điểm gặp gỡ giữa Hội Thánh và xã hội trần thế, giữa sứ mạng của Hội Thánh và xã hội trần thế, vì ‘dù có tin hay không tin, mọi người đều phải góp phần xây dựỉng thế giới cho hợp lý, vì họ cần chung sống trong thế giới này (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Vui Mừng và Hy Vọng, 21, 6).
B.- Hội Thánh trong Lòng Dân Tộc. Sự gắn bó và hòa mình với Dân Tộc và Đất Nước đưa tới những nhiệm vụ cụ thể mà chúng ta có thể tóm lại trong hai điểm chính:
a) Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc;
b) Xây dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp với truyền thống Dân Tộc.
Các Giám Mục cũng đã loan báo việc thông qua ‘Qui chế Hội đồng Giám mục Việt-Nam’ và giải thích ý nghĩa việc đi Rôma : “Việc viếng mộ các Tông đồ và việc tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục Thế Giới tại Rôma nói lên hai đặc tính của Hội Thánh Chúa Kitô là phổ quát và hợp nhất, đồng thời thể hiện tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm của các Giám Mục đối với Hội Thánh hoàn cầu.”
3. Ad limina = bước qua ngưỡng cửa vương cung thánh đường các tông đồ, nói cách khác là đến Rôma. Tại đây, các Giám Mục, mỗi năm năm phải đến viếng mộ hai thánh Tông đồ, Phêrô và Phaolô, cùng gặp Ðức Giáo Hoàng để tường trình về mục vụ tại Giáo phận mình có trách nhiệm.
21 Đức Giám Mục Việt-Nam thực hiện ‘ad limina' do Đức Hồng Y Trịnh văn Căn hướng dẫn. Đặt biệt, ngày 22.06.1980, Đức Thánh Cha đã ưu ái đến tận Nhà Quản lý Phát Diệm (Rôma) để thăm Đức Hồng Y và các Đức Cha. Trong diễn văn đọc hôm 17.06.1980, Đức Thánh Cha nhấn mạnh hai điểm: lần đầu các Giám Mục đến đông từ miền Bắc tới Rôma viếng Tòa Thánh và ‘gặp Phêrô'', thủ lãnh Giám Mục đoàn và Chủ Chăn Giáo Hội hoàn cầu, dấu hiệu hữu hình sự hiệp nhất và hiệp thông của toàn Giáo Hội. Do đó, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đặc biệt về lòng trung thành, về sự hiệp nhất và hiệp thông với Phêrô, bởi vì Đức Thánh Cha thấu hiểu hoàn cảnh của các Vị chủ chăn và của Cộng đồng Công giáo Việt Nam. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Đức Thánh Cha thấy rõ: cần phải củng cố Đức Tin. Đức Tin này được củng cố nhất là khi các Giám mục đến viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, cột trụ của Giáo hội và có nhiệm vụ do Chúa trao cho: là "củng cố Đức Tin của anh em mình", trước hết những anh em trong Hàng Giám mục, kế vị các Tông đồ, thuộc Giám mục đoàn, và cũng là thầy dạy Đức Tin cho phần Dân Chúa được trao phó cho.
Năm 1985 chỉ có 3 Giám Mục được về Rôma. Năm 1990 có 21 Giám Mục và 1996 có 14 Giám Mục.
Trong cuộc gặp gỡ chung với Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngày 14.12.1996, sau khi nghe lời chào mừng của Đức Hồng Y Tổng Gíam Mục Hà nội, Đức Thánh Cha đã trao cho mỗi Giám mục bài diển văn, nói đến ý nghĩa của việc các Giám Mục về Rôma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và gặp Đức Thánh Cha. Ý nghĩa đó là sự hiệp thông của toàn thể Gíáo Hội và sự hiệp nhất của Giám mục đoàn với nhau và với Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha nói lên ao uớc của Người được gặp tất cả các Giám mục Việt-Nam, nhưng không thể được. Đức Thánh Cha gởi lời chào thăm các Giám mục vắng mặt, cộng đoàn tín hữu, và toàn thể Dân Tộc Việt-Nam. Đức Thánh Cha lưu ý rằng: cuộc viếng thăm của một Hội đồng Giám mục đầy đủ là dấu chứng tỏ sự tự do tôn giáo được tôn trọng tại một quốc gia.
Lần cuối cùng, năm 2002, Hội đồng Giám mục Việt-Nam (chỉ thiếu hai vị) đã đến viếng mộ hai thánh Tông đồ, Phêrô và Phaolô, cùng gặp Đức Giáo Hoàng để tường trình về mục vụ tại Giáo phận mình có trách nhiệm.
Ngày 22.01.2002, sau khi chào mừng Ðức Thánh Cha, cám ơn Tiền Nhân từ gần năm thế kỷ đã gieo Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội Ðất Việt, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt-Nam, đã đề cập đến việc sống đạo của tín hữu người Việt, quốc nội cũng như hải ngoại.
Nhìn lại Quê hương đang canh tân, Đức Cha nói: “Việt-Nam là quốc gia đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền kinh tế quốc doanh chuyển sang kinh tế thị trường, từ chủ thuyết cô lập tiến vào việc hội nhập với cộng đồng thế giới tự do. Thế nhưng, trong tiến trình đổi mới nầy Giáo Hội vẫn còn chưa được hưởng tất cả những tự do cần thiết''.
Ðức Thánh Cha mở đầu Huấn từ bằng bày tỏ sự sung sướng được gặp gỡ những Giám Mục mới được tấn phong và hầu hết các Giám mục trong Hội đồng Giám Mục trong diễm phúc hiệp thông đầy tình huynh đệ. Ðức Thánh Cha nhờ các Giám Mục chuyển đến toàn thể các thành phần Dân Chúa Việt-Nam là Ðức Thánh Cha cầu nguyện và khuyến khích chúng ta sống theo Phúc Âm bằng noi gương Tiền Nhân Tử đạo.
Sau khi nhắc lại những hoạt động mà các Giám Mục đã cộng tác thực hiện từ sau lần ‘ad limina'' trước, Đức Thánh Cha mời: Giáo Hội Việt-Nam ra khơi.
Ðức Thánh Cha cầu xin một hơi thở từ Chúa Thánh Thần để có niềm phấn khởi mới trong việc giáo huấn, đào tạo, kinh nguyện cũng như công tác tông đồ mà các Giám Mục. Những dự án mục vụ cần vừa thích hợp với hoàn cảnh và nhu cầu khả hữu vừa lưu ý đến môi trường đang sống, trong đó, phải lưu ý yếu tố con người được vun bồi bởi nhiều nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác nhau. Ðức Thánh Cha nhắc lại sự hoàn chỉnh các cơ chế của Hội đồng Giám Mục. Hôm kết thúc khóa họp thường niên ngày 22.09.2001, Hội đồng đã lập 4 Ủy ban mới: Phúc âm hóa, Giáo lý, Văn hóa và Bác ái Xã hội.
Trong tường trình ngũ niên, các Giám Mục thường đề cập đến sự phát triển huấn dạy giáo lý cơ bản lẫn đào luyện liên tục cho linh mục, tu sĩ và giáo dân để xây dựng và sống Ðức Tin. Ðiều cần là cung cấp cho mọi người một giáo huấn vững chắc về học thuyết xã hội của Giáo Hội.
Giáo Hội Công Giáo cũng được kêu gọi chia sẻ niềm Hy vọng bằng luôn đề xuất con đường đối thoại. Chỉ một cuộc đối thoại tín nhiệm và xây dựng giữa các thành phần của xã hội dân sự cũng đủ mở ra một niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt-Nam.
Ðức Thánh Cha nêu đoạn 76 Gaudium et Spes ‘Giáo Hội, vì sứ mạng và chức năng mình, Giáo Hội không lẫn lộn với một cộng đồng chánh trị và không bị gắn liền với bất cứ hệ thống chánh trị nào''. Bởi thế ‘cộng đồng chánh trị và và Giáo Hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình''. Nhưng vì cả hai cùng được mời gọi hoàn tất sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập thể con người, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu ‘cả hai thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với nhau''. Vì ‘sự hợp tác lành mạnh nầy'', Giáo Hội mời tín hữu dấn thân cho sự phát triển mọi con người và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng. Giáo Hội không muốn thay người trách nhiệm của Nhà nước, công việc của cá nhân hay tập thể.
Ðể thực hiện sự ‘hợp tác lành mạnh'' nầy, Giáo Hội mong đợi nơi chánh quyền tôn trọng toàn diện sự độc lập và tự trị của Giáo Hội mà quyền Tự do Tôn giáo quí giá đã được khẳng định trong Công Ðồng Vatican II và trong những Tuyên ngôn và Quy ước quốc tế, cho từng cá nhân và những cộng đồng tôn giáo.
Đức Thánh Cha không chỉ Ưu Tư đến Giáo Hội Công giáo mà còn nghĩ đến các tôn giáo khác cũng như cả Dân Tộc Việt-Nam. Người mọi người Việt được quyền có đời sống no ấm và hạnh phúc thật sự, Đức Thánh Cha đã nói đến Sự Hợp Tác Lành Mạnh giữa Cộng Đồng Chánh trị và Cộng Đồng Tôn Giáo. Khi Cộng Đồng Tôn Giáo được độc lập và tự chủ thì mới có đủ tư cách để cộng tác trực tiếp vào việc xây dựng xã hội lành mạnh. Một thí dụ: công táục giáo dục cần thiết cho việc mở mang dân trí. Các tôn giáo không được dự phần vào công tác nầy vì Nhà nước đã chiếm đoạt toàn bộ những trường học cũa các tôn giáo từ 1975 đến giờ.
Nhật báo ‘La Croix'' (Thánh Giá), phát hành tại Pháp quốc ngày 23.01.2002, dưới tựa đề «Jean-Paul II encourage les évêques vietnamiens qu''il juge ‘exemplaires''» (Gioan-Phaolô Ðệ Nhị khích lệ các Giám Mục Việt-Nam mà Ngài cho là ‘mẫu mực''), đặc phái viên thường trực đã nhắc lại cuộc thăm viếng ‘ad limina'' đầy đủ các Giám Mục Việt-Nam tại Rôma.
II.- NHỮNG SỰ KIỆN ÐÁNG TIẾC.
1. Ủy ban đoàn kết Công giáo. Sau ngày 30.04.1975, các cơ sở của Giáo Hội ở miền Nam như các trường học, các tu viện, các cơ sở xã hội như nhà thương, trại cùi... đều bị Nhà nước tịch thu. Khi tất cả các nguyệt san Công giáo bị đình bản thì tờ báo "Công Giáo và Dân Tộc" ra đời cùng với nhóm linh mục "yêu nước", do Nhà nước dựng nên để ủng hộ cho những hoạt động của đảng Cộng sản. Ủy ban đoàn kết Công giáo là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc.
Ngày 25.12.2002, Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Sài gòn Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn đã gởi linh mục Nguyễn Tấn Khóa, quyền Chủ tịch UBĐK.CGVN
và các Đại biểu Đại hội những người công giáo Việt-Nam xây dựng và bảo vệ tổ quốc lần thứ IV. Trong đó, Đức Cha cho biết: vì công việc mục vụ không cho phép tôi đến dự Đại hội (Tác giả xin góp ý: lý do Đức Cha nêu lên để không cho phép đến dự Đại hội: có thể không phải do không có thời giờ, nhưng do sứ nhiệm Giám mục không cho phép Đức Cha đến dự Đại hội). Đức Cha viết tiếp: tôi xin mượn lá thư này góp vài ý kiến với các Đại biểu trong nhiệm vụ xây dựng Đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh hiện nay.
“Phục vụ con người là mục đích tối cao” của mọi tổ chức và cơ chế xã hội (xem Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI). Khẳng định này đặt con người làm mục đích, làm cứu cánh, làm trọng tâm của mọi hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội trong cộng đồng dân tộc. Phải chăng khẳng định nầy muốn nói lên chân lý căn bản nảy ra những nhu cầu, những đòi hỏi bức thiết phải đáp ứng trong hoàn cảnh hiện tại để xây dựng một xã hội nhân bản hơn cho tổ quốc Việt Nam. Những đòi hỏi bức thiết đó gồm có hai việc chính sau đây:
I. Xóa bỏ dần những khuyết tật hiện hữu của xã hội;
II. Phát huy những giá trị nhân bản làm cho mọi công dân ngày càng sống ấm no, sống “độc lập, tự do và hạnh phúc”, sống xứng với phẩm giá con người.
Với sự tiếp tay của họ, Nhà nước Việt Nam đã:
2. Trục xuất Ðức Khâm sứ Tòa Thánh. Chánh quyền đã đuổi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre ra khỏi Việt-Nam, cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican.
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam, đang mong muốn Tòa Thánh tái thiết lập bang giao với Việt-Nam.
3. Bắt bớ Ðức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận. Ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh bắt giam Ðức Cha. Ðức Cha đã bị tù 13 năm, không bản án, ở nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23.11.1988 ngài được thả ra và, tiếp tục, bị quản chế tại Hà Nội.
Năm 1989, Nhà nước Việt-Nam đã không cho Ðức Cha trở lại Quê Hương. Vì thế, ngày 09.04.1994, Đức Thánh Cha Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24.06.1998, Ðức Cha được bổ nhiệm là Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình và được vinh thăng Hồng Y hôm 21.01.2001.
Ngày 16.09.2002, Đức Hồng Y đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian. Ngày 20.09.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã để chủ sự Lễ An táng cho Đức Hồng Y tại Vương cung đại thánh đường Thánh Phêrô. Hai đại diện của Sứ quán Việt-nam ở Roma cũng đã hiện diện trong Thánh Lễ.
Báo ‘La Croix’ ngày 29.10.1993 đăng bài phỏng vấn Đức Hồng Y (khi đó còn là Đức Tổng Giám mục phó Sàigòn) về những tín hữu Công giáo cộng tác với Nhà nước cộng sản. Đức Cha cho biết Đức Cha không phán xét về những người nầy: họ có những lý do của họ. Chớ nên kết án tất cả mọi người.
Cũng như trường hợp Đức Tổng Giám mục phó Sàigòn, các Linh mục Tuyên úy bị bắt đi tù cải tạo và một số Linh Mục dân sự khác bị bắt giam vì thừa tác vụ của mình. Không một bản án, nhiều vị đã bị chết trong tù vì chế độ quá gian khổ và thiếu đủ mọi điều kiện.
4. Phong Thánh cho 117 Chân phuớc Tử đạo.
Ngày 16.11.1985, Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh văn Căn, Tổng Giám mục Hà nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt-Nam ký gởi đến Đức Thánh Cha một Thỉnh nguyện thư xin Tòa Thánh phong Thánh cho 117 Chân phuớc Tử đạo Việt-Nam.
Ngày 23.06.1987, Đức Hồng Y Agostino Casaroli, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, báo tin cho Đức Hồng Y Trịnh văn Căn biết là trong buổi họp Cơ Mật Viện đã quyết định việc Phong Thánh cho các Chân phuớc Tử đạo Việt-Nam sẽ cử hành trong tháng sáu năm tới vào một ngày sẽ định sau.
Ngày 24.06.1987, Đức Hồng Y Trịnh văn Căn đã gởi diện văn cảm tạ Đức Thánh Cha và Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh và hy vọng có thể đến đông đảo tham dự lễ nghi.
Ngày 19.09.1987, Ủy ban Thường vụ Hội đồng Giám mục gởi thư đến các Đức Giám mục để cho biết:
- hôm qua, Ủy ban Thường vụ đã họp và tiếp Đại diện Ban Tôn giáo của Chánh phủ thông báo một số vấn đề có liên quan đến lịch sử, đến chính sách đoàn kết, đến luật pháp hiện hành của Đất Nước về việc Phong Hiển Thánh cho các Chân Phước Việt-Nam,
- xin Đức Cha cứ duy trì cách thức mừng các Chân Phướùc Việt-Nam như cũ.
Ngày 25.02.1988, Mặt trận Tổ Quốc Sài gòn đã tập hợp để trao đổi với 600 linh mục, tu sĩ và giáo dân về vấn đề Phong Thánh.
Ngày 04.03.1988, Ủy ban Thường vụ Hội đồng Giám mục đã có thông cáo:
- Hội đồng Giám mục Việt-Nam đã họp Khóa Bất Thường từ ngày 02 đến 04.03.1988 để bàn về vấn đề Phong Hiển Thánh các vị Chân Phước Tử Đạo tại Việt-Nam,
- Hội đồng đã được cụ Trưởng Ban Tôn giáo Chánh phủ tiếp và cho ý kiến.
- Hội đồng nhận thấy rằng: Việc tôn phong các vị Chân Phước Tử Đạo tại Việt-Nam lên hàng Hiển Thánh chỉ là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình phong thánh và là việc thuộc phạm vi tín điều, nên theo Giáo luật khoản 333 số 3 việc đó ngoài thẩm quyền của các Giám mục.
Ngày 19.06.1988, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, đã long trọng chủ tọa Đại Lễ Phong Thánh các vị Chân Phướùc Tử Đạo Việt-Nam, với đông đảo tín hữu người Việt đến từ khắp Năm Châu, trừ Việt-Nam vì Nhà nước không cấp phép cho bất cứ ai đi.
III.- NHỮNG CHUYẾN THĂM VIỆT-NAM CỦA CÁC PHÁI ĐOÀN TÒA THÁNH.
Đức Hồng Y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình kiêm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm) và Đức Ông Barnaba Nguyễn văn Phương, thuộc Bộ Truyền giáo, đặc trách các vấn đề liên quan tới Giáo Hội tại Việt-Nam, Nhật-bản, Đại-hàn, Pakistan,... (Đức Ông Phương luôn đã có mặt trong các Phái đoàn Tòa Thánh đến Việt-Nam). Chuyến đi, từ 01 đến 13.07.1989, có tính cách viếng thăm mục vụ đến các Giáo phận từ Bắc vào Nam. Đức Hồng Y kể lại:“Tôi không có giờ rảnh bao gờ cả. Ngài xem ra thật dài và mệt đừ, có lẽ vì khí hậu nưũa. Nhưng hầu như tôi bị thu hút bởi đám đông thật sốt sắng.“ (trả lời phỏng vấn đài Vatican ngày 20.07.1989).
Đức Hồng Y Etchegaray mang theo một sứ diệp của Đức Thánh Cha gởi Giáo Hội Việt-Nam, nhưng Nhà nước kiểm duyệt không cho đọc trong buổi lễ ở Hà nội. Không có cuộc tiếp xúc chính thức nào với Nhà nước Việt-Nam.
Chuyến thứ hai từ 22 đến 24.05.1999, Đức Hồng Y Roger Etchegaray, với tư cách Đặc sứ của Đức Giáo Hoàng, đã chủ tọa Thánh Lễ An táng Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh văn Căn, Tổng Giám mục Hà nội.
Chuyến thứ ba từ 07 đến 13.11.1990, Đức Hồng Y cùng đi với một chuyên viên ngoại giao là Đức Ông Claudia Celli, tham tán Sứ thần Bộ Ngoại giao Tòa Thánh, đặc trách các vấn đề của Giáo Hội tại Trung-quốc, Việt-Nam, Hàn-quốc... Phái đoàn Tòa Thánh và Nhà nước Việt-Nam thảo luận trong hai ngày và trong bầu không khí “rất thẳng thắn”. Hai bên nói rõ những gì mình yêu cầu và không đồng ý. Đức Hồng Y đã phải giải thích nhiều điều cho phía Nhà nước vì những hiểu lầm và thành kiến của họ. Chúa nhật 11.11.1990, Đức Hồng Y muốn cử hành Thánh Lễ cho các tín hữu tại Nhà thờ Chính tòa Hà nội nhưng Nhà nước không cho phép viện cớ Phái đoàn Tòa Thánh sang Việt-Nam lần nầy là để nói chuyện chánh thức với Chánh phủ Việt-Nam chớ không phải thăm Giáo Hội Công giáo như hai lần trước. Đức Hồng Y giải thích rằng Phái đoàn vẫn có tư cách đại diện Đức Thánh Cha nên không thể không tiếp xúc và cử hành Thánh Lễ cho các tín hữu Công giáo. Sau cùng, Nhà nước đã đồng ý. Đức Hồng Y đã dâng Thánh Lễ đồng tế với 7 Giám mục và 20 Linh mục với sự hiện diện của một số nhà ngoại giao và khoảng 5000 tín hữu. Các tín hữu đã vỗ tay rất lâu khi Đức Hồng Y nói: ″Xin anh chị em hãy hãnh diện là người Việt-Nam, hãy yêu mến Tổ Quốc của anh chị em; hãy hãnh diện là tín hữu Công giáo, hãy yêu mến Giáo Hội của anh chị em.″
Từ 12.01.1992 cho đến nay, đã có 11 Phái đoàn Tòa Thánh do các Đức Ông Claudia Celli, Celestinô Migliore và, lần chót từ 26.04 dến 02.05.2004, Pietro Parolin, Luis Marano Montemayor và Barnaba Nguyễn văn Phương đến Việt-Nam, thương thảo với Nhà nước Việt-Nam nhằm nới rộng tự do cho Giáo Hội Việt-Nam và bổ nhiệm các Giám mục cho các Giáo phận. Hiện thời, Việt-Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới mà Tòa Thánh phải ′vất vã’ như thế. Điều đó nói lên mối quan tâm của Tòa Thánh đối với Giáo Hội Công Giáo Việt-Nam. Với chính sách 'từng bước nhỏ', Giáo Hội Việt-Nam tiếp tục tiến bước, đồng hành với Giáo Hội hoàn vũ.
IV.- ĐỨC THÁNH CHA THĂM VIẾNG VIỆT-NAM ?
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, họp Đại Hội 7 tại Hà nội từ ngày 11-17.10.1998, đã quyết định chính thức mời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Việt Nam vào tháng 08/1999. Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh Lễ bế mạc kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang.
Ngày 11.11.1998, Đức Hồng Y Phaolo Phạm Đình Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội, và Đức Cha Barthôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám Mục Thanh Hóa đã gửi lên chính phủ Việt-Nam thư yêu cầu chính quyền chấp thuận cho chuyến viếng thăm Việt-Nam của Đức Thánh Cha.
Theo tin hảng thông tấn Reuters 22.03.1999: Đức Ông Celestino Migliore, trưởng phái đoàn Tòa Thánh vừa viếng thăm Việt Nam từ 15-19.03.1999, đã bày tỏ sự lạc quan rằng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có thể viếng thăm nước này, theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt-Nam.
Ngày 03.03.2005, Đức Hồng Y G.B. Phạm minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài gòn trả lời phỏng vấn của Đài Italia như sau:
Hỏi: Một trong các ước mong mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không thể thực hiện được. Đó là đến viếng thăm Việt-Nam như một người hành hương hòa bình. Đức Hồng Y có nghĩ là một ngày kia, người kế vị thánh Phêrô có thể đến viếng thăm Việt-Nam hay không?
Đáp: Tôi hy vọng. Có một lần dùng bửa với Đức Thánh Cha với các Giám mục khác. Tôi đã trao đổi với Ngài qua cuộc đối thoại như sau:
- - Thưa Đức Thánh Cha, nhân dân Việt-Nam sẽ sung sướng tiếp đoán Đức Thánh Cha thăm Việt-Nam. Tôi nói.
- - Nhân dân Việt-Nam đó là ai?
- - Đó là các tín hữu Công giáo và không Công giáo?
- - Còn người cộng sản thì sao?
- - Chắc sẽ có một số người cộng sản cũng sẽ sung sướng về chuyến viếng thăm đó.
- - Vậy Trung quốc thì sao?
- - Thôi thì Đức Thánh Cha nên viếng thăm Trung quốc trước Việt-Nam.
V.- TỰ DO TÔN GIÁO.
Tuần báo ‘Famille Chrétienne'' (Gia đình Kytô giáo) số 1254, từ 26.01 đến 01.02.2002, có tiêu đề: ‘L''Eglise en liberté surveillée'' (Giáo Hội trong tự do canh chừng), nhân dịp các Giám Mục Việt Nam thực hiện ‘ad limina'' cạnh Ðức Thánh Cha. Nếu các Giám Mục chỉ có thể nói công khai rất ít, do đó, chúng ta hãy nhớ rằng Giáo Hội quốc gia nầy đang chịu đựng một tình trạng khó khăn. Ký giả Louis Naigre thuật: «Từ nhiều tuần nay, giáo dân sôi nổi vì, hôm 11.11, trong các nhà thờ khắp thành phố, các Linh mục đọc bức thư Ðức Tổng Giám Mục đã gởi Thủ tướng. Bằng những từ ngữ lịch sự nhưng quả quyết, Ðức Hồng Y Phaolô Phạm Ðình Tụng phản đối sự chiếm dụng một thửa đất, thuộc quyền sở hữu của Giáo Hội từ năm 1933, trước kia là Tòa Khâm sứ Tòa Thánh, bởi nhà cầm quyền Việt-Nam. Người ta bắt đầu xây dựng trên đó một ‘trung tâm văn hóa'' lấn sang Tòa Tổng Giám Mục và Ðại chủng viện.
‘Việc đọc một bức thư phản đối có thể là một điều không đáng kể cho quý vị, những người Tây phương, đã quen với những hình thức biểu tình đầy bạo động. Nhưng, ở đây, là việc đáng kể. Tự do chúng tôi bị hạn chế rất nhiều'', một linh mục nói với ký giả.
Một lần trú ngụ ngắn hạn có thể gây nên ảo giác. (Tác giả xin thêm: Khách du lịch hay người Việt hồi hương khi thấy các giáo đường đầy Kitô hữu dâng Thánh Lễ, các chùa chiền tấp nập Phật tử đến cúng kiếng, chớ vội kết luận: Việt-Nam đã có tự do tôn giáo. Mời xem ý niệm về tự do tôn giáo sau đây). Sau 15 năm ‘đổi mới và canh tân'', quốc gia đã có nhiều thay đổi. Nhưng thành quả thì tương phản nhau: kinh tế có phát triển nhưng Ðảng thì không bỏ dịp để can thiệp vào xã hội, tham nhũng ngày càng tệ hơn và gánh nặng hành chánh cũng không nhẹ hơn.
Dù ở Hà nội, ở Huế (là nơi mà một phần lớn lãnh địa nhà dòng Biển Ðức Thiên An bị tịch biên) hay ở Sài gòn (nơi mà các giáo xứ đang tìm cách để xin hoàn lại đất cho nhà cầm quyền ‘mượn'' năm 1976), vấn đề điền thổ vẫn là những khó khăn trọng yếu cần giải quyết.
Nếu Giám Mục và Linh mục được đi lại bình thường như mọi công dân, nhưng các hoạt động mục vụ lại phải có phép. Tự do cử hành Thánh Lễ, nhưng ngoài giờ ấn định, thì phải có phép.
Tại Huế, tháng 11.2000, Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý đã phản kháng để đòi lại đất và trưng khẩu hiệu: ‘Tự do tôn giáo hay chết''. Sự trừng phạt không phải chờ lâu: Cha bị bắt và bị xử 15 năm tù (vì tội ‘phá hoại đoàn kết quốc gia'') và 5 năm quản chế. Cha đã chọn một hình thức khác với phần đông Giáo Hội Công Giáo Việt-Nam (Nhưng không bao giờ bị phủ nhận bởi Ðức Giám Mục của Cha). Các Giám Mục biết dùng không gian tự do còn có để mở rộng, từ từ, lãnh vực tông đồ của Giáo Hội.
Công tác xã hội và bác ái là hoạt động của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Ðây là một chương trình rộng lớn và khẩn thiết cho một quốc gia mà hơn phân nửa dân số dưới 20 tuổi. Họ cần phương tiện để trở thành những công dân tốt.
Ðể kết thúc bài báo, tác giả mượn lời của một giới chức Vatican đặc trách hồ sơ Việt-Nam nói từ nhiều năm qua, nhưng vẫn còn giá trị thời sự: «Giáo Hội ở Việt-Nam tự do như con chim tự do trong cái lồng».
1. - Để thấy rõ hơn lập trường của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ về tự do tôn giáo trong bối cảnh xã hội ngày nay, tam nguyệt san ‘Định Hướng’ đã trích dịch một phần (số 4) bức thư ngày 01.09.1980 của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi cho từng vị nguyên thủ các quốc gia đã ký tên vào Bản văn kết thúc Hội nghị Helsinki về an ninh và hợp tác ở Âu Châu năm 1975.
4. Dựa vào các tiền đề và nguyên tắc nêu trên, Tòa Thánh có quyền và bổn phận đưa ra một bản phân tích các yếu tố đặc loại liên quan đến ý niệm về « tự do tôn giáo » cũng như về phương cách áp dụng trên bình diện cá nhân và cộng đồng trong những sinh hoạt cụ thể. Trong cách nói cũng như trong việc ứng dụng tự do tôn giáo, người ta đều nêu lên sự hiện diện của các bình diện cá nhân và các bình diện cộng đồng, tư và công; hai yếu tố đó luôn gắn bó mật thiết với nhau để cho việc thực thi tự do tôn giáo đạt được những chiều kích bổ sung và tương thuộc :
a/ Trên bình diện cá nhân, phải tôn trọng:
- tự do gia nhập hay không gia nhập vào một niềm tin và vào một cộng đồng tôn giáo liên hệ;
- tự do thực thi các hành vi cầu nguyện và phụng tự, bằng phương cách cá nhân hay tập thể, nơi riêng tư hay một cách công khai, và có được những nhà thờ hoặc những nơi thờ tự theo nhu cầu của tín đồ đòi hỏi;
- tự do của bậc phụ huynh giáo dục con cái mình theo niềm tin tôn giáo mà họ ôm ấp, và có thể đưa con cái học giáo lý và các nội dung tôn giáo do cộng đoàn đảm trách;
- tự do của các gia đình trong việc chọn lựa trường học hoặc các phương cách khác để bảo đảm cho con cái mình về việc giáo dục tôn giáo mà không trực tiếp hay gián tiếp chịu thêm những gánh nặng phụ thuộc làm ngăn cản việc thực thi quyền tự do nầy;
- tự do dành cho những người cần được sự trợ giúp về mặt tôn giáo bất cứ ở đâu, đặc biệt nơi trong các cơ sở y tế công cộng (dưỡng đường, nhà thương), trong các trại lính và trong các dịch vụ bó buộc của Nhà nước, cũng như trong các trại giam;
- tự do không bị ép buộc phải làm những điều trái với niềm tin tôn giáo của mình, trên bình diện cá nhân, công dân hoặc xã hội, cũng như không bị ép buộc phải chấp nhận một lối giáo dục, hoặc tham gia vào những nhóm hoặc hội đoàn có những nguyên tắc đi ngược với những niềm tin tôn giáo của riêng mình;
- tự do không phải vì những lý do tôn giáo của mình mà chịu những hạn chế hoặc những kỳ thị trong những lãnh vực sinh hoạt của đời sống (liên quan đến sự nghiệp cũng như học vấn, việc làm, nghề ngiệp; tham gia vào các trách vụ công dân và xã hội, v.v.) so với các thành phần công dân khác.
b/ Trên bình diện cộng đồng, phải xem các tôn giáo, từng qui tụ các tín đồ thuộc một niềm tin tôn giáo nhất định, thực sự hiện hữu và hành động như những cơ năng xã hội được tổ chức theo những nguyên tắc về tín lý và dựa vào những cứu cánh liên hệ mật thiết với các định chế đặc loại của họ.
Như vậy, Giáo hội, cũng như các cộng đồng tôn giáo nói chung cần hưởng những quyền tự do nhất định, để sống và theo đuổi các cứu cánh riêng của mình; trong các quyền tự do như thế, đặc biệt phải nêu lên :
- tự do có một hàng giáo phẩm riêng của mình hoặc các thừa tác viên liên hệ được hàng giáo phẩm của mình tự do chọn lựa theo những qui thức của cơ chế tôn giáo mình;
- tự do cho các người hữu trách các cộng đồng tôn giáo - và trong giáo hội công giáo là các giám mục và các cấp lãnh đạo khác trong giáo hội -, thực thi một cách thanh thản thừa tác vụ của mình, phong chức các linh mục hoặc các thừa tác viên, bổ nhiệm vào các phận vụ của giáo hội, liên lạc và tiếp xúc với những tín đồ;
- tự do có những học viện đào tạo tôn giáo và thần học riêng; trong các học viện ấy, tự do tiếp nhận các ứng viên vào chức linh mục và tận hiến trong dòng tu;
tự do nhận và phổ biến các sách tôn giáo liên quan đến niềm tin và nghi lễ; và tự do sử dụng;
- tự do loan truyền và thông tri giáo huấn đức tin, bằng lời nói và bằng chữ viết, kể các bên ngoài những nơi phụng tự, và tự do phổ biến quan điểm đạo đức liên quan đến các sinh hoạt con người và tổ chức xã hội: điều nầy ăn khớp với cam kết của Bản văn kết thúc Hội nghị Helsinki về việc tạo dễ dàng cho việc quảng bá thông tin, văn hóa và các hình thức trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong lãnh vực giáo dục, và trong lãnh vực tôn giáo; điều nầy tương hợp với việc truyền bá Phúc Âm của Giáo Hội;
- tự do sử dụng các phương tiện truyền thông (báo chí, truyền thanh, truyền hình) trong mục tiêu như thế;
- tự do chu toàn các sinh hoạt giáo dục, từ thiện, cứu trợ là những sinh hoạt ứng dụng điều răn về yêu thương anh chị em mình, đặc biệt đối với những người ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất.
Ngoài ra: đối với những cộng đồng tôn giáo, như Giáo Hội Công giáo, có một Thẩm quyền tối cao ở trên bình diện phổ quát, thì Thẩm quyền nầy, theo đòi hỏi của niềm tin của mình, có trách nhiệm bảo đảm sự hiệp nhất trong mối hiệp thông nối kết tất cả các mục tử và tín đồ trong cùng một niềm tin tôn giáo, qua quyền giáo huấn và quản trị:
- tự do có những liên lạc qua lại giữa Thẩm quyền nầy và các mục tử cững như các cộng đồng tôn giáo địa phương, tự do quảng bá các văn kiện và các tài liệu của giáo huấn (thông điệp, huấn thị..)
- trên bình diện quốc tế : tự do trao đổi về truyền thông, tự do hợp tác, liên đới có tính cách tôn giáo, đặc biệt là có thể gặp gỡ, hội họp liên quốc gia hoặc quốc tế.
- cũng trên bình diện quốc tế, tự do trao đổi tin tức và các nội dung về thần học hoặc tôn giáo giữa các cộng đồng tôn giáo với nhau.
Hảng Thông tấn Zenit 21.10.2002 cho biết : Trong phiên họp thường niên của Hội Ðồng Giám Mục Việt-Nam, từ ngày 12 đến 17.10.2002, các Giám mục đã lên tiếng phản đối với Quốc Hội về việc bắt bớ các tín hữu Công giáo thuộc các sắc tộc thiểu số đang sống ở Kontum và những vùng cao nguyên, cũng như những vùng thuộc miền Bắc tỉnh Sơn La.
Thông Tấn Xã Giáo Hội Á Châu tiết lộ cho biết, một sự phản đối tương tự cũng đã được đệ trình tới ông Lê Quang Vinh, trưởng phòng Tôn Giáo Vụ của nhà nước, vào ngày 09.10.2002.
Theo bản báo cáo này, "các nhân viên nhà nước đã vào nhà của các tín hữu và tại đây họ đập phá các bàn thờ, tượng ảnh, tịch thu những sách và tràng chuỗi. Họ cưỡng bức các tín hữu ký vào các bản văn tuyên hứa bỏ đạo, và ngưng dạy đạo cũng như không truyền bá Phúc Âm nữa.
Ngày 03.03.2005, Đức Hồng Y G.B. Phạm minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài gòn trả lời phỏng vấn của Đài Italia như sau:
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Giáo Hội Công giáo Việt-Nam là một trong những Giáo Hội trẻ tại Á châu. Trong dòng lịch sử, nó đã được khoan hồng, bị cấm đoán rồi bị bách hại, tình hình Giáo Hội hiện nay ra sao?
Đáp: Hiện nay, Giáo Hội Công giáo Việt-Nam có thể hành đạo với một sự tự do lớn hơn cách đây 20, 30 năm. Đây là một sự tự do với sự cho phép, ít nhiều hạn chế tùy từng nơi và từng lúc.
Nó không phải làsự tự do đích thực như là một quyền bẩm sinh và không thể vi phạm của con người. Có lẽ các người trong chánh phủ nói rằng họ phục vụ công ích của nhân dân, một càch ngấm ngầm hay công khai theo phương pháp cha chú. Theo đó, thì con cái phải tùy thuộc mọi sự và cha mẹ và chỉ có thể hưởng những gì cha mẹ ban cho chúng mà thôi, hay là họ theo công thức tự do không bao giờ là cho không, nghĩa là tự do luôn phải trả giá, hoặc họ theo cả hai phương thức trên.
2.- Pháp lệnh Tôn Giáo đã được Ban Thường Vụ Quốc Hội thông qua ngày 18.06.2004 và có hiệu lực từ 15.11.2004.
Trong một cuộc phỏng vấn của Hãng Tin Á Châu (AsiaNews Service, ngày 08.11.2004) về Pháp Lệnh Tôn Giáo, Đức Tổng Giám Mục Stêphanô Nguyễn Như Thể của Tổng Giáo Phận Huế nói rằng: "Những quy định mới của Pháp Lệnh đặt các nhà lãnh đạo tôn giáo trong tình trạng phải xin phép Nhà cầm quyền tất cả mọi sinh hoạt của tôn giáo trước khi thực hiện. Như thế có nghĩa là không có tự do tôn giáo trọn vẹn (no full religious freedom)."
Theo Đức Tổng Giám Mục, "những quy định này hoàn toàn không có chút cởi mở nào cho những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì chúng tôi bị ràng buộc theo những khuôn khổ ngược lại với sự tự do tôn giáo. Chúng tôi không còn quyền để tổ chức theo những nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của chúng tôi khi chúng tôi bị lệ thuộc vào những cứu xét, lựa chọn và quyết định của nhà nước. Như thế có nghĩa là không có tự do tôn giáo trọn vẹn."
Đức Hồng Y G.B. Phạm minh Mẫn đã nói chuyện với hãng tin UCA hôm 04.08.2004 :
Hỏi: Ngài đánh giá như thế nào pháp lệnh tôn giáo mới, sẽ có hiệu lực vào tháng 11 tới đây (năm 2004), thưa Ðức Hồng y?
Ðáp: Pháp lệnh tôn giáo mới vẫn còn giữ cơ chế củ là "xin-cho" đối với mọi thứ. Kiểu hệ thống này thay đổi quyền tự do thành cho phép tự do. Tôi nói với Nhà nước nhiều lần rằng khi các nhà ngoại giao nước ngoài hỏi tôi là tôi có đồng ý với họ là Việt-Nam không có tự do không, tôi nói: "Không! Việt-Nam không có "quyền" tự do, nhưng có tự do "trong sự cho phép". Ở đây chúng tôi có tự do, nhưng phải được phép, bị hạn chế và bị kiểm soát.
Tôi nói với Nhà nước rằng cái tự do mà người dân muốn có là lớn bằng cái bàn. Nhưng cái tự do ở Saigon thì giống như một cái đĩa trên cái bàn này, và ở những nơi khác thì chỉ bằng cái tách. Ðó là một thực tế. Vì thế -(thông qua pháp lệnh mới này) - họ cố làm cho các thứ cởi mở hơn. Nhưng tôi vẫn nhận thấy có cùng một hệ thống. Chúng tôi phải đòi hỏi và chờ đợi để có tự do.
Ngày 28.09.2004, Phái đoàn Ban Tôn giáo của Chính phủ do Ông Nguyễn Thế Doanh, Phó Ban Thường trực, hướng dẫn đã đến chúc mừng Đại hội Hội đồng Giám mục Việt-Nam, được tổ chức tại Hà Nội, từ 27.09 đến 01.10.2004, để bày tỏ sự trân trọng và lòng quý mến đối với Hội Đồng Giám Mục. Ông Nguyễn Thế Doanh cũng đã dành nhiều giờ để chia sẻ những tâm tư của mình về Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo và nêu một số điểm chính trong Pháp lệnh này, nhiều Đức Giám mục cũng nêu lên những ý kiến về một vài điều trong Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo và được ông giải thích trong tinh thần cởi mở.
Ngày 30.09.2004, Hội đồng Giám mục Việt-Nam, do Giám mục Phaolô Nguyễn văn Hòa, Chủ tịch, và Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn, Tổng Thư ký, đã ký gởi Ban Tôn giáo Chính phủ :
Kính thưa Quý Ban,
Chúng tôi xin cám ơn Ban Tôn giáo Chính phủ đã đến thăm và nói chuyện với Đại hội các giám mục Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội, từ 27.09 đến 1-10-2004. Trong dịp này, Ông Phó Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình bày về Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo vừa được Chủ tịch Nước ký ngày 29.06.2004 và sẽ có hiệu lực từ ngày 15.11.2004. Ông Phó Ban Tôn giáo Chính phủ cũng cho biết, nếu chúng tôi có những ý kiến gì có thể gửi văn bản cho Ban Tôn giáo Chính phủ.
Vậy nay chúng tôi có một số nhận định và đề nghị như sau về Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo:
I. Nhận định
1. Chúng tôi biết Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo là kết quả của nhiều lần sửa chữa và tham khảo ý kiến. Nhưng đáng tiếc là có nhiều ý kiến xây dựng vẫn không được lắng nghe và đón nhận để đưa vào Pháp lệnh, nên Pháp lệnh vẫn chưa phản ánh đúng nguyện vọng chính đáng cũng như nhu cầu cần thiết thuộc quyền tự do tôn giáo của người dân có đạo.
2. Nhiều người, đặc biệt trong giới Công giáo, nhận thấy Pháp lệnh vẫn còn nặng tính quản lý, còn có một số điều khoản và nhiều cụm từ không rõ nghĩa, có thể giải thích cách tùy tiện, gây nhiều khó khăn, phức tạp khi áp dụng cho đồng bào có đạo, nhất là ở vùng sâu vùng xa.
II. Đề nghị.
Vì thế, chúng tôi có một số đề nghị sau:
1. Đề nghị chính quyền lắng nghe và tôn trọng góp ý của người dân khi hỏi ý kiến.
2. Các văn bản giải thích Pháp lệnh cần rõ ràng và thông thoáng hơn để có sức thuyết phục lòng tin tưởng của người dân.
VI. - NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ CÔNG TÁC XÂ HỘI
Nhân dịp Hội đồng Giám mục Việt-Nam họp Hội nghị Thường niên tại Hà Nội, từ ngày 7 đến 12-10-2002, Ðức Hồng Y Phạm Ðình Tụng, 27 Giám Mục và 2 Linh Mục Giám Quản đã gởi tới Quốc Hội và các Hội Đồng Nhân Dân một Thư Ngỏ góp ý về công cuộc xây dựng và phát triển một xã hội "vì con người".
"Phục vụ con người là mục đích tối cao" của mọi tổ chức và cơ chế xã hội (xem Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI), vì lẽ con người là mục đích, là cứu cánh, là trọng tâm của mọi hođộng văn hóa, kinh tế, xã hội. Từ chân lý căn bản này về con người với nhân phẩm và nhân quyền của họ, nảy sinh những nhu cầu, những đòi hỏi bức thiết phải đáp ứng để xây dựng và phát triển một xã hội nhân bản, một xã hội không làm què quặt và hủy hoại con người. Những đòi hỏi bức thiết đó là:
I. XÓA GIẢM NHỮNG KHUYẾT TẬT HIỆN HỮU CỦA XÃ HỘI.
1. Khuyết tật thứ nhất là hiện tượng tha hóa con người.
Sự tha hóa con người xuất hiện và lớn dần trong xã hội hiện nay:
* Khi chủ nghĩa tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một mạng lưới những thỏa mãn hời hợt, giả dối;
* Khi lao động được tổ chức nhằm bảo đảm tối đa cho lợi nhuận mà không lưu tâm cải thiện đời sống và thăng tiến phẩm giá người lao động;
* Khi diễn ra sự đảo ngược giữa phương tiện và mục đích: con người v! ốn là mục đích của sự phát triển thì lại bị biến thành đơn thuần là phương tiện sản xuất;
* Khi tự do được coi như là quyền được làm bất cứ điều gì mình thích, bất cứ điều gì mà cảm tính của mình cho là có lợi trước mắt cho bản thân, cho phe phái, đang khi tự do đích thực là quyền làm những gì mà lương tâm thấy được phép làm vì công ích, vì lợi ích của thế hệ hiện tại và mai sau.
Thực tế cuộc sống hiện tại cho thấy: khi tách lìa chân lý về con người với nhân phẩm và nhân quyền của họ, tự do trở thành sự tùy tiện hoặc ngẫu hứng của những kẻ có quyền thế.
2. Khuyết tật thứ hai là cơ chế bất công và tha hóa con người.
Cơ chế xin-cho là một điển hình. Cơ chế xin-cho là một cơ chế bất công và tha hóa con người vì những lý do sau đây:
* Cơ chế xin-cho biến những quyền tự do của công dân thành những thứ quyền mà Nhà Nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân dưới dạng những cái phép, đồng thời biến NN từ một tổ chức có chức năng phục vụ công ích trở thành một chủ nhân ông nắm các quyền tự do của người dân và ban phát các phép tự do lại cho họ thường theo sự tùy tiện chủ quan hơn là theo những tiêu chuẩn khách quan. Như thế cơ chế xin-cho vừa đi ngược lại công ích và xóa đi các quyền tự do của người dân, vừa bôi đen hình ảnh của một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Đó là điều làm tha hóa con người.
* Theo thông tin của báo chí, cơ chế xin-cho còn là nguyên nhân làm thất thoát 50% các nguồn thu vào công quỹ, và làm thất thoát 50% phần còn lại khi phải chi ra cho công ích. Điều này có nghĩa là 5% hoặc 7% dân số là những người có thế lực và quyền lực thì hưởng 75% từ công quỹ quốc gia (trong con số 75%, có 50.000 tỷ đồng một năm của riêng ngành xây dựng)!, phần còn lại của dân số là hơn 70 triệu dân chỉ hưởng được 25%. Thực tế này tạo ra một tình trạng bất công trầm trọng trong xã hội và không ngừng làm gia tăng hố sâu cách biệt giàu nghèo trong lòng một dân tộc. Chính vì thế mà tham nhũng một cách có hệ thống quy mô trong xã hội ngày nay không những là một quốc nạn, song còn là một tội ác đối với đất nước và dân tộc.
II. PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN LÀM CHO CON NGƯỜI NGÀY CÀNG TRỞ NÊN NGƯỜI HƠN, SỐNG XỨNG VỚI PHẨM GIÁ CỦA MÌNH HƠN.
1.Phát huy phẩm giá con người. Điều này đòi hỏi trong các quan hệ xã hội phải quan tâm tôn trọng con người như là trọng tâm của mọi hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội, nghĩa là các sinh hoạt văn hóa, kinh tế, xã hội phải hướng đến sự phát triển và thăng tiến con người toàn diện cả mọi mặt vật chất, tinh thần và tâm linh. Khi một trong ba mặt thiếu phát triển, con người trở nên hụt hẫng, què quặt, dị tật.
2. Phát triển xã hội và thăng tiến con người trên nền tảng chân lý. Một xã hội được coi là có trật tự và phù hợp với nhân phẩm khi đặt nền tảng trên chân lý. Chân lý căn bản trong quan hệ giữa người với người là mọi người đều bình đẳng về nhân phẩm. Chân lý này đòi hỏi phải gạt bỏ mọi kỳ thị và phân biệt đối xử, phải xóa đi những hình thức chuyên chế, phải loại trừ mọi gian dối xảo trá ngày nay đang tràn lan trong mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội.
3. Phát huy tình liên đới trong mọi sinh hoạt gia đình và xã hội. Tình liên đới chỉ được xây dựng và phát huy vững bền trên nền tảng tôn trọng con người, tôn trọng các quyền của họ, tôn trọng sự tự lập chính đáng và quyền tự quyết của con người, tôn trọng các giá trị đạo đức trong truyền thống văn hóa. Tình liên đới đòi hỏi phải nhìn xa hơn bản thân của tổ chức, của phe phái để phục vụ cho sự phát triển của xã hội, cho sự thăng tiến của con người và gia đình.
4. Phát huy tính phụ đới. Tình liên đới trong sự tôn trọng các quyền tự do của con người đòi hỏi tổ chức xã hội phải mang tính phụ đới. Tính phụ đới là một đặc tính của tổ chức xã hội trong đó một tập thể cấp cao không can thiệp vào nội bộ của một tập thể cấp thấp, không làm mất thẩm quyền và tính tự lập của nó, song tạo điều kiện giúp nó phối hợp hoạt động của mình với những hoạt động của tập thể khác nhằm mưu cầu công ích. Do đó, con đường phát huy tính phụ đới đòi hỏi:
Chính quyền tạo điều kiện cho các cá nhân và tập thể công dân sử dụng các quyền của con người. Trong các quyền đó, phải kể đến quyền bình đẳng, quyền và bổn phận chu cấp cho các nhu cầu vật chất, tinh thần và tâm linh của cuộc sống con người, gia đình và tập thể, quyền sáng kiến và tham gia các hoạt động phát triển xã hội, thăng tiến con người và gia đình, cả việc củng cố nền tảng pháp lý của cộng đoàn chính trị trong một quốc gia.
Dành cho mình độc quyền hay một quyền hành quá lớn trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội, đó là con đường dẫn đến chuyên chế và độc tài, quan liêu và bao cấp, áp bức và bất công, là những tệ nạn làm tha hóa con người.
Tính phụ đới theo nghĩa trên là nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ, một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Thiếu nền tảng này, Nhà Nước với chức năng phục vụ công ích trở thành một cỗ máy thống trị độc tài, và nhân dân từ địa vị làm chủ đất nước trở thành phương thế phục vụ cho cỗ máy đó. Đó là điều làm tha hóa con người và phân hóa xã hội.
5. Phát huy ý thức và thiện chí phục vụ công ích. Trước hết công ích đòi hỏi phải tôn trọng con người, tôn trọng nhân phẩm và các quyền tự do của họ. Do đó, chức năng phục vụ cho công ích đòi buộc chính quyền:
(1) tạo điều kiện bảo đảm cho mọi công dân hưởng những nhu yếu sao cho xứng hợp với phẩm giá con người;
(2) xóa bỏ những luật lệ bất công và những biện pháp trái với luân thường đạo lý trong truyền thống văn hóa của dân tộc, vì lẽ đây là những cơ chế và biện pháp làm tha hóa con người. Cơ chế xin-cho là một điển hình về luật lệ bất công. Phá thai hằng năm hơn cả triệu trường hợp là một điển hình về biện pháp trái với luân thường đạo lý mà những hậu quả đã và đang diễn ra không biết đưa tương lai dân tộc đi về đâu.
Ngày 22.02.2003, Đức Cha G. B. Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Saigon, đã gởi Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Saigon một thư nhân dịp Mặt Trận kêu gọi giới Công Giáo giúp người nghèo. Đức Cha cũng gởi đính kèm cho Ông Chủ Tịch Ủy Ban Mặt Trận bản sao lá thư mà Đức Cha đã gởi cho Ủy Ban Đoàn Kết ngày 25.12.2002. Bản sao của hai lá thư này cũng được Tòa Tổng Giám Mục Saigon gởi cho tất cả các Hạt trong Giáo Phận để các Linh Mục Hạt Trưởng phổ biến rộng rãi. Đức Cha đã viết :
“Tôi có nhận được thư Thường Trực UBMTTQVN Saigon kêu gọi giới Công Giáo Saigon đóng góp cho "Quỹ vì người nghèo". Chân thành cám ơn quý Ủy Ban có lời nhắc nhở chúng tôi quan tâm chăm lo cho người nghèo.
Kỳ thực thì giới Công Giáo Saigon trong nhiều năm qua đã dành nhiều nhân lực, công sức, tiền của để lo cho người nghèo, đã và đang góp phần xây dựng nhiều trăm căn nhà cho người nghèo, đã và đang giúp cho nhiều ngàn con em gia đình nghèo được học văn hóa các cấp, đã và đang giúp cho nhiều hộ nghèo vươn lên thoát nghèo đói, đã và đang giúp cho nhiều ngàn bệnh nhân có phương tiện chữa bệnh, cả chữa bệnh tim, mổ mắt, đã và đang giúp cho nhiều trăm trẻ khuyết tật được phát triển, đã và đang giúp phục hồi và tái sinh nhiều nạn nhân các loại tệ nạn xã hội...
Nhưng tất cả những việc làm đó chỉ là góp phần giải quyết cái ngọn của cái nghèo. Tôi nghĩ rằng tổ chức Ủy Ban Mặt Trận các cấp, các nơi, cần vận động và tạo điều kiện cho Nhà nước cùng nhân dân giải quyết căn gốc của cái nghèo trên đất nước Việt-Nam ngày nay. Tôi muốn nói đến cái nghèo toàn diện, nghèo vật chất, nghèo phương tiện phát triển, nghèo nhân cách, nghèo nhân phẩm, nghèo niềm tin, nghèo quyền làm người sống "độc lập, tự do, hạnh phúc".
Đính kèm theo đây là bức thư tôi gởi cho Đại hội những người Công Giáo Việt-Nam xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc lần thứ IV, trong đó tôi có góp ý kiến về căn gốc của cái nghèo và vài việc cần làm giúp nhân dân VN vượt cái nghèo.
Ngày 29.09.2004, Đức Hồng Y G.B. Phạm Minh Mẫn trình bày về vấn di dân, đây là một vấn đề được ngài đặc biệt quan tâm. Ngài cho biết, Việt Nam hiện nay có khoảng 4 triệu người di dân nội địa, riêng TP. Saigon có 1,2 triệu người. Ngoài ra, cả nước còn có hơn 200.000 người đang làm việc tại nước ngoài, chưa kể nhiều chục ngàn cô gái Việt lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc... Rất nhiều người trong số họ rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, cần được Giáo hội Việt-Nam quan tâm giúp đỡ.
Đức Hồng Y G.B. Phạm minh Mẫn đã nói chuyện với hãng tin UCA hôm 04.08.2004 :
Hỏi: Sứ mệnh chính của Giáo hội là rao giảng Tin mừng. Việc này có thể thực hiện được trong một xã hội chính thức theo thuyết vô thần không, thưa Ðức Hồng Y?
Ðáp: Tôi nói với giáo dân rằng có quá nhiều khó khăn và tệ nạn xã hội trong xã hội. Họ và gia đình họ thôi cũng không thể vượt qua những khó khăn này. Họ nên đoàn kết lại (để truyền giáo). Hiện nay tôi đã thành lập một nhóm các bác sĩ y khoa với khoảng 100 thành viên; một nhóm nghệ sĩ Công giáo, gần 100; một nhóm doanh nhân Công giáo, vài trăm người; một nhóm giáo viên Công giáo, vài ngàn người. Tôi cũng sẽ tập họp những người Công giáo nằm trong số các viên chức Nhà nước đã được trúng cử.
Tôi hỏi họ là làm người Công giáo trong môi trường hiện tại này như thế nào. Tôi bảo họ nên bảo vệ sự thật, công lý và bác ái trong công việc phát triển xã hội và đất nước. Họ có thể làm điều đó như thế nào? Ðó là nhiệm vụ họ phải khám phá. Ðây là truyền giáo.
Qua các dòng tu, Tổng giáo phận đã thành lập các hội truyền giáo tại những vùng không có người Công giáo, thành lập các trường học cho người tàn tật, trường dạy nghề, và trường mẫu giáo. Chúng tôi còn có nhiều hoạt động "chui." Tôi nói cho các viên chức nhà Nhà nước biết về công việc giúp đỡ những cô gái hành nghề mại dâm mà một số dòng tu đã thực hiện. Các tu sĩ tập hợp những người phụ nữ này lại, đưa họ về nhà, giúp những người mang thai sinh con, nuôi những đứa trẻ đó và tìm việc làm mới cho những phụ nữ này. Nhiều nhà dòng đã có một số ngôi nhà như thế và Nhà nước biết họ. Một dòng tu thậm chí đã thuê một ngôi nhà của một viên công an.
VII.- CÔNG GIÁO VIỆT-NAM HẢI NGOẠI.
Không muốn sống dưới chế độ cộng sản, vài triệu người Việt đã, bằng phi cơ hay tàu thủy, đã rời nước ra đi. Trong số đó, có những tín hữu Công giáo, khi tới bến bờ nơi tạm cư, họ đã họp nhau lại để tạ ơn Thiên Chúa, Mẹ Maria và sống đạo trong những ngày đầu của cuộc đời tị nạn.
Tại các quốc gia tiếp nhận người tị nạn, các Cộng đoàn, Giáo xứ Việt-Nam mang tính cách tòng nhân đã xuất hiện tại Hải ngoại. Tính cách tòng nhân cho phép tín hữu Công giáo họp thành các Cộng đoàn, các Giáo xứ Việt-Nam, đang sống đạo tại các Giáo phận tạm dung, được phép cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích bằng tiếng Việt, được chẩn nhận bởi Hội đồng Giám mục Việt-Nam.
Dần dần, các Cộng đoàn, Giáo xứ nầy liên kết cấp quốc gia và châu lục. Năm 1988, Đức Gioan Phaolô II đã thành lập Văn phòng Phối kết Mục vụ Việt-Nam Hải ngoại.
Từ ngày 25 đến 27 tháng 08.2003, Văn phòng Phối kết Mục vụ Việt-Nam Hải ngoại đã tổ chức Hội Ngộ Niềm Tin của Cộng đồng Công giáo Việt Nam Hải Ngoại tại Rôma (Ý-đại-lợi). Hội Ngộ Niềm Tin đã hân hạnh tiếp đón : Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Tổng trưởng Thánh Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho Muôn Dân, Bề Trên tối cao Hội ngộ Niềm Tin; Đức Cha Phaolô Nguyễn văn Hòa, Giám mục Nha trang, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt-Nam; Đức Cha Philip Wilson, Tổng Giám mục Giáo phận Adelaide và Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Úc, đại diện cho các Đức Giám Mục tại những Giáo phận có tín hữu Việt Nam sống và hành đạo; Đức Cha Đôminicô Mai Thanh Lương, Giám mục phụ tá Orange/Hoa kỳ. Tham dự cuộc họp mặt có đầy đủ đại diện của 17 cộng đoàn giáo dân Việt-Nam từ khắp năm châu với con số lên đến 3000 người. Phái đoàn đến từ Quê hương Việt-Nam đã được chào đón nhiệt liệt.
KẾT LUẬN
Ai cũng biết rằng ở Việt-Nam chưa có tự do tôn giáo hoàn toàn, còn nhiều giới hạn, nhất là không có tự do trong việc đào tạo và bổ nhiệm càc chức sắc trong càc tôn giáo. Chính vì vậy mà từ nhiều năm nay, Tòa Thánh đã và đang cố gắng đối thoại với Nhà nước Việt-Nam để có được tự do tín hữu hoàn toàn, cho mọi tôn giáo và cho mọi người dân. Phải thành thật nhìn nhận rằng đã có kết quả, mặc dù khiêm tốn và cần phải nhẩn nại.
Các Giám mục Việt-Nam chủ trương, dùng tình thương và Phúc Aâm, dùng lời lẽ thuyết phục, để đối thoại với Nhà cầm quyền.
Các Giám mục là những vị kế nhiệm các Tông đồ, được Chúa trao sứ vụ hướng dẫn Dân Chúa, được ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, đã chọn lựa con đường đối thoại. Chính sự khôn ngoan lèo lái để Việt-Nam không có Giáo Hội tự trị như tại Trung Hoa. Hiện nay, Hội đồng Giám mục Việt-Nam là định chế duy nhất được Nhà nước tôn trọng và đồng ý đối thoại.
(Trính thư Đức Ông Nguyễn văn Phương gởi Anh Đổ Như Điện, ĐHV/PTGDVNHN, ngày 09.06.2001)
Bản tin TTXVN ngày 07.04.2005 cho biết : Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định, tuy chưa thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican thời gian qua đã có những tiến triển tích cực và thực chất.
Ông Lê Dũng nói: "Đây là tiền đề có ý nghĩa cho sự phát triển tiếp theo của quan hệ giữa Việt Nam và Vatican. Hai bên thường xuyên duy trì các cuộc gặp gỡ, đối thoại và tiếp xúc. Thông qua các cuộc tiếp xúc, sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa Nhà nước Việt Nam và Tòa thánh Vatican ngày càng được gia tăng, góp phần cải thiện quan hệ giữa hai bên. Hai bên nhất trí cần tiếp tục các nỗ lực, trao đổi ý kiến, xác định những bước đi thích hợp để có thể đi xa hơn nữa trong quan hệ."
Ông Lê Dũng nhấn mạnh, với tư cách là người đứng đầu Tòa thánh, Giáo hoàng John Paul II đã đóng góp quan trọng cho sự tiến triển quan hệ giữa Việt Nam và Vatican. "Chúng tôi hy vọng rằng sự ra đi của Giáo hoàng John Paul II không ảnh hưởng tới quá trình này," ông nói thêm.
Báo điện tử VN express ngày 20.04.2005, tin của T. Huyền loan đi như sau :
"Chúng tôi xin chúc mừng Hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng mới của Tòa thánh Vatican. Chúng tôi chia sẻ niềm vui với cộng đồng Công giáo thế giới cũng như giáo hội Công giáo Việt Nam", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Dũng hôm nay cho biết.
Ông Dũng khẳng định Việt Nam mong muốn Giáo hoàng Benedict XVI tiếp tục lãnh đạo giáo hội Công giáo thực hiện tốt ý nguyện phục vụ hòa bình và công lý trên thế giới.
Trong thời gian qua, quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican đã và đang có những tiến triển tốt đẹp. "Chúng tôi hy vọng rằng trên cương vị mới, Giáo hoàng Benedict sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican ngày càng phát triển", ông Dũng bày tỏ.
30 năm đã trôi qua…
(30.04.2005)