Sau khi tắm gội xong, ông bước vào căn phòng phủ đầy lớp ánh sáng nhẹ ban mai. Nhìn mấy bộ đồ sạch sẽ và sang trọng trên gường, Ông cúi đầu gật nhè nhẹ, hai tay để sau lưng, đi đi lại lại mấy lần. Ông nhớ lại nhiều lần đã nói với vợ một ước mơ của một đời người Tư Tế . Một ước mơ mà mọi tư tế đều khao khát và mong ước được xảy ra một lần trong đời mình. Đó chính là được thi hành trọn vẹn chức tư tế dâng hương trong Đền Thờ trước Hòm Bia Thánh theo niềm tin của dân Israel. Ông biết đây là một ước mơ không dễ dàng cho riêng ông mà cho tất cả hơn tám ngàn Tư Tế khác trong vùng Judea thời gian đó.
Nhưng giấc mộng ấy hôm nay đã thành sự thực. Cách nay 30 ngày hội đồng Tư Tế nhóm họp tại thành Jerusalem đã quyết định chọn ông là người lần tới sẽ được lau dọn, thắp cây đèn và dâng hương trong đền thờ. Ông như người nằm mộng, nhưng khi tỉnh dậy lại là một giấc mộng thực. Tim ông muốn nhảy ra ngoài, hồn ông tràn ngập sung sướng. Vì suốt đời làm tư tế mỗi người chỉ được một lần mà thôi Ông muốn kìm hãm niềm hạnh phúc , nhưng nó dâng tràn trong lòng mỗi giây phút một cao. Trước khi kết thúc cuộc bầu chọn, vị Thượng phẩm thâm niên và cao trọng đứng dậy nêu lên những lý do mà hôi đồng tư tế chọn Zacharia đó chinh là : Lòng đạo hạnh, đức kiêm tốn, từ ái, lòng trung kiên và kính sợ Đấng Yahve. Đặc biệt ông vẫn trung thành với người vợ của ông dù hai người lấy nhau đã hơn bốn mươi lăm năm, nhưng tới nay dù đã sáu mươi tuổi vẫn chưa có con . Bởi với người Judah đó là một điều gần như bất hạnhvà xấu hổ cho bất cứ người đàn bà Do Thái nào đã kết hôn mà không có con . Nhưng ông vẩn kiên trì và sống với bà trọn đời không lấy một người đàn bà nào khác. Chính những đức tính cao quý này ông bà đã được mọi người xem như là cặp vợ chồng công chính trước mặt Thiên Chúa. Ông Zacharia mong sao cho cuộc họp chóng chấm dưt để về báo với mọi người trong nhà nhất là Elizabeth, người vợ ông yêu quý suốt hơn bốn mươi lăn năm chung sống. Chiều hôm đó cả làng Ain Karim từ nhỏ tới lớn ai cũng biết tin này. Họ tới nhà chúc mừng ông. Elizabeth là người hạnh phúc thứ hai sau chồng mình. Bữa cơm chiều hôm đó là bữa cơm hạnh phúc thứ hai kể từ ngày hai người kết hôn. Tuy hạnh phúc tràn đầy, nhưng bà Elizabeth vẫn cố kìm giữ. Bà âm thầm chuẩn bị những gì cần phải làm cho chồng mình trong những ngày sắp tới. Với bà điều quan trọng nhất là để chông mình tránh xa những ồn ào uế tạp trần thế, gìn giữ và chay tịnh cho tâm hồn thật xứng đáng khi bước vào đền Thờ lau dọn thắp đèn và dâng hương trước Hòm Bia Thiên Chúa . Bà sẽ may cho ông những bộ đồ tốt và đẹp nhất bằng vải lụa Phương Đông .
Buổi sáng hôm nay, ông đứng nhìn gói hành lý và hai bộ đồ Tư Tế tinh nguyên bằng vải lụa ướp thơm bằng hương cây hương nam núi Li Băng. Nhìn ra cửa, ông thấy bà Elizabeth đang loay hoay cho mấy thứ gì đó vào giỏ trên lưng con lừa để hai người giúp việc mang lên thành Jerusalem.. Ông gọi bà Elizabeth vào.
-Hôm nay là ngày trọng đại trong cuộc đời một Tư Tế . Tôi sẽ bước vào đền thờ Thiên Chúa với tất cả sự khiêm cung, thành kính bằng những ngày cầu nguyện và chay tịnh cùng với hai bộ đồ tư tế mới tinh truyền chưa ai đụng tới ngoài đôi tay của Bà. . Chút nữa tôi sẽ khởi hành lên thành Thánh. Tôi sẽ cầu khẩn đấng Yahve chúc lành cho chúng ta cho mọi người cùng đàn gia súc và mùa màng trong nhà này.
Người đầy tớ và vị luật sĩ đã sẵn sàng chờ giờ khởi hành tháp tùng ông Zacharia trong cuộc hành trình . Ông nắm tay Bà an ủi rồi nhẹ nhàng vén áo bước qua bậc thềm đi thẳng ra cửa. Ông đi trước, thầy luật sĩ đi phía một chút. Người đầy tớ dắt con lừa trên lưng với hai chiếc giỏ khá nặng đi sau cùng. Bà Elizabeth đứng vịn hai tay vào thành cửa đá nhìn theo. Đôi mắc đầy tiếc nuối vì không được cùng chồng tham dự vào cuộc ra đi đầy lịch sử này. Đoàn người và con lửa từ từ biến mất sau những đám bụi đường của vùng đồi núi Judea .
Muốn vào thành Thánh từ phía Tây Nam, đoàn người phải đi qua vùng đồi núi Zion. Ngọn đồi cao nhất kế cận bên ngoài vòng thành, đứng trên độ cao đó, người ta có thể nhìn bao quát cà thành Jerusalen . Đoàn người xuống núi tiến vào cổng phía Tây Nam còn gọi là Cổng Zion. Đi một đoạn nữa sẽ tới khu an nghĩ của các Tư Tế. Ngoại trừ các Tư Tế sống trong thành, các Tư Tế từ các nơi khác về thường nghĩ tại đây qua đêm hay hai ba ngày tùy theo lich trình của mỗi người.
Đòan người của Tư Tế Zacharia tới đây đã xế chiều, ở lại hai ba ngày tùy theo mọi việc sắp xếp của hội đồng Tư Tế. Vì Ông là người tối quan trọng trong lần dâng hương và câu nguyên ngày mai. Người luật sĩ và ông Zacharia đi gặp vị Thượng phẩm, người đầy tớ ở nhà dọn đồ và sắp xếp nơi ăn chốn ở.
Sáng sớm hôm sau, Ông Zacharia bận bộ áo tư tế mới và đẹp nhất tiến về đền thánh. Mọi người đang tề tự phía ngoài. Ông bước vào với một tâm hồn khá căng thẳng bởi những bước đi trang trọng, đỉnh đạc trầm mặc. Ngước nhin mọi người, mỉm cười rất nhẹ rồi cúi đầu chào. Ông tiến lại đứng bên cạnh vị Thượng Tế. Hai người nói nhỏ với nhau đôi điều, ông Zacharia tiếp nhận bình hương trầm từ tay vị tư tế khác . Rất trang nghiêm, theo luật định chỉ một mình ông được tiến vào đền Thánh. Ông ý thức được trách nhiệm và vai trò của mình trọng đại như thế nào trước mắt mọi người và trước mặt Thuên Chúa. Vì từ giờ phút này ông là người đại diên cho dân tộc đến cung hiến, thờ lạy,cầu nguyên và dâng lên nguyên ước của dân mình với Thiên Chúa, Đấng đã lập giao ước với tổ phụ dân Israel. Trong khu sân ngoài, các tư tế và luật sĩ cũng cầu nguyện. Tất cả đều một lòng xin Yahve cho Đấng Thiên Sai xuống để cứu vớt dân tộc mình khỏi ách thống trị người La Mà và khỏi tay vị vua tàn bạo Herod của họ.
Bên trong ông Zacharia cung kính lau chùi bàn thờ, thắp lên cây đèn chín ngọn và đốt trầm hương trước Bàn Thánh. Chợt ngước lên, ông thấy một Thiên Thần uy nghi ngồi bên phải hương án. Ông giật mình kinh sợ. Nhưng Thiên Thần nói với ông Zacharia
-Này Zacharia đừng sợ, lời cầu nguyên của ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Elizabeth vợ của ông sẽ thụ thai và sẽ sanh một con trai và được đặt tên là Gioan. Con trai ông sẽ là nguồn vui vô tận cho Ông Bà và biết bao nhiêu người cũng vui mừng vì sự chào đời của con trẻ. Em bé sẽ là người cao quý trước mặt Thiên Chúa, sẽ không uống rượu và ăn các thứ lên men. Và ngay khi còn trong lòng mẹ em bé sẽ được đầy ơn Thánh Thần và thần khí quyền năng của Elija. Gioan sẽ là người đến trước để dọn đường đón đấng Cứu Độ. Làm cho lòng cha quay về với con, Đưa dân trở về đường công chính sửa soạn đón ơn Cứu Độ sắp tới.
Ông Zacharia thưa :
-Bởi đâu mà tôi có thể tin được điều này, vì vợ chồng chúng tôi đã cao tuổi rồi.
-Ta là Gabriel sứ thần của Thiên Chúa sai tới báo cho ông biết tin mừng ấy, vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Bởi sự hoài nghi đó, nên từ nay ông sẽ bị cấm khẩu cho tới mọi việc được xảy ra.
Trong khi ấy các tư tế , luật sĩ, kinh viện và dân chúng đứng bên ngoài sân điên thờ lấy làm lạ không hiểu tại sao Zacharia ở trong Đền thờ quá lâu như vậy. Sau khi chu toàn trách vụ, ông Zacharia bước ra sân trước gặp mọi người, nhưng ông không nói được, chỉ ra dấu bằng tay trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Họ biết ông đã thấy một thị kiến nào đó trong cung Thánh.
Khi trách vụ tại đền thờ đã mãn, ông Zacharia trở về nhà tại làng Ain Karim . Ít lâu sau vợ ông mang thai, bà đi ở ẩn năm sáu tháng. Theo sự suy đóan của mọi người, có lẽ bà xấu hổ bởi vì tuổi đã lớn mà mang thai, hay để giam mình trong chay tịnh cầu nguyện và cám ơn Thiên Chúa đã ban cho vợ chồng bà một hồng phúc quá lớn lao. Hằng ngày người trong nhà nghe bà dâng lời : “Lạy đấng Yahve toàn năng , con cám ơn Ngài đã cất đi nỗi hổ nhục cho tôi trước mặt mọi người.
Vì với dân Israel không có sự tủi nhục nào bằng một người nữ lập gia đình mà không có con.
Một buổi chiều giữa mùa Xuân, khí trời vùng bán sa mạc đồi núi Judea còn mát. Cũng là thời gian bà Elizabeth đã mang thai được sáu tháng. Đang ngồi may cho đứa con tương lai của mình chiếc áo ấm, bỗng bà nghe ai đó gọi tên mình ngoài cửa, ngó ra thấy một phụ nữ trẻ , đẹp đang nhẹ nhàng, trang nghiêm bước vào sân.
Thiếu nữ cất tiếng:
-Chị Elizabeth, chị Elizeth ! em Maria từ Nazareth xuống thăm chị.
Ngay giây phút ấy bà thấy con mình nhẩy mừng trong bụng và tràn đầy ơn Thánh Thần.. Bà chạy ra ôm lấy Mazria rồi quỳ xuống nói
-Em được Chúa chúc phúc hơn mọi người nữ, Người con em đang cưu mang được nhiều phước lạ. Bởi đâu mà tôi được mẹThiên Chúa tới với tôi thế này. Khi nghe lời em chào thì con tôi trong bụng nhảy lên vui mừng. Em thật có phúc vì đã tin đấng Yahve thực hiện những gì Ngài đã hứa với tổ phụ chúng ta .
Maria đỡ bà Elizabeth đứng dậy, kể lại sự việc Thiên sứ Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho mình sẽ thụ thai bởi quyên phép Thánh Thần, mặc dù chỉ mới hứa hôn với Giuse. Đứa bé được sinh ra sẽ trở nên cao trọng và là đấng Cứu Độ mai sau. Vì thấu suốt sự ngỡ ngàng của em, nên Thiên Sứ cho em biết cũng bởi quyền phép của Thánh Thần, chị cũng đã mang thai được sáu tháng mặc dù anh chị đã luông tuổi. Chính vì thế hôm nay từ Nazareth em xuống đây chúc mừng anh chị vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi hổ cho anh chị trước mặt người đời. Sau cuộc chào mừng, Maria chắp tay trước ngực, người mắt lên trời đọc lớn lời ca tụng
Thiên Chúa.
“Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn này, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi được diễm phúc. Bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Từ đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của dư đầy. Người giàu có lại trở về tay trắng.
Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời.”
Maria ở lại với bà Elizabeth thêm ba tháng nữa, cho tới khi bà sanh người con trai đầu lòng mới trở về Nazareth. Sau tám ngày ông bà Zacharia và Elizabeth chuẩn bị lễ vật và đưa con mình đi chịu phép cắt bì theo luật Moisen. Trước khi thực hành nghi thức cắt bì , theo phong tục thầy Tư Tế nói lớn cho mọi người .
– Đứa bé bé được cắt bì hôm nay sẽ đươc đặt tên là Zacharia.
Bà Elizabeth thưa lại
– Thưa thầy, tôi muốn đặt tên cho cháu là Gioan.
-Nhưng trong gia đình của ông bà đâu có ai tên là Gioan.
Quay về phía ông Zacharia đứng bên phải, Thầy Tư Tế hỏi
-Còn Ông ! ông Zacharia ! ông muốn đặt tên gì cho con trẻ ?.
Vì đã bị cấm khẩu từ lúc gặp Thên Thần Gabriel trong đền Thánh khi ông đang dâng hươn cách nay hơn chin tháng . Ông cầm bút viết lên tấm bảng :
“GIOAN”. Ngay từ giấy phút đó ông hết câm, nói năng lưu loát bình thường trước sự ngỡ ngàng của thầy Tư Tế và bao người đứng vây quanh. Sau khi chịu phép cắt bì, ông bà đưa Gioan về nhà nuôi nấng, dạy dỗ theo luật của các tổ phụ truyền lại.
Đấu tháng Mười Hai năm đó, khi Gioan vừa tròn sáu tháng tuổi. Hoàng đế Roma Ceasa Augustus ra lệnh tất cả mọi người sống tại các miền dưới quyền cai trị của Roma từ Judea, Samari, Galile phải về quê quá mình để khai sổ dân đinh . Đây là lần kiểm tra dân số đầu tiên kể từ khi người Roma cai trị dân Israel. Giuse và Maria phải về Bethlehem vì Giuse thuộc dòng vua David quê quá tại đó . Về tới Bethlehem, Giuse không có nhà và cũng không còn người thân thích nào. Trong khi đó người các nơi trở về Bethlehem quá đông . Không tìm được nơi ở, Giuse đành phải đưa Maria vào nơi dành cho gia súc ở trọ qua đêm. Đêm hôm đó, giữa chốn nghèo hèn hôi hám của bò lừa dê cừu, Maria đã hạ sinh con đầu lòng, lấy khăn bọc lại rồi đặc trong máng cỏ, nơi dành cho chiên bò ăn. Quanh vùng Bethlehem có những mục đồng đang canh thức, chợt nghe tiếng từ trời .
“Vinh Danh Chúa cả trên trời. Bình An dưới thế cho người chính tâm”. Nghe lời thiên thần hát, đoàn mục đồng rủ nhau tìm tới nơi xảy ra điềm lạ. Tơi nơi họ gặp Giuse, Maria và Hài Nhi Giessu đang nằm trong máng cỏ. Họ kể lại việc Thiên thần báo tin. Giuse hết đỗi ngạc nhiên, còn Maria thi ghi khắc mãi kỷ niệm này trong lòng.
Sau khi Giesu được cắt bì theo luật Moisen, có mấy nhà đạo sĩ từ Phương Đông tới Jerusalem tìm Vua Israel nới sinh để bái lạy, vì họ trông thấy ngôi sao lạ của Ngài xuất hiện. Cả thành Jerusalem xôn xao về chuyện này. Nhất là vua Herod, ông lo lắng bồn chồn vì sợ đứa trẻ lớn lên sẽ chiếm ngôi vua của mình. Ông ngầm ra lịch cho thuộc cấp theo dõi ba vị đạo sĩ. Nhưng khi ba đạo sĩ vừa rời khỏi Jerusalem, nhóm lính theo dõi mất dấu tích, không biết họ đi về phương hướng nào. Sau khi chiêm bái hài nhi Giesu và cha mẹ Ngài, họ dâng các phẩm vật: Vàng , Nhũ hương, Mộc dược, rồi theo đường khác trở về quê quán mình
Nghe tin ấy Herod quá run sợ, nổi cơn lôi đình ra lịch giết hết tất cả những đứa trè trai từ sơ sinh tới hai tuổi tại Bethlehem và vùng phụ cận. Giuse được Thiên Thần báo mộng, khuyên ông trỗi dậy trong đêm đưa Giesu và Mẹ người trốn sang Egypt.
Gia đình của Zacharia tại Ain Karim thuộc vùng lân cận Bethehem cũng nằm trong chiến dịch tàn sát này. Trong giấc ngủ, ông Zacharia cũng được báo mộng và khuyên ông hãy đưa gia đình trốn về vùng hoang mạc phía Bắc Judea. Ông bà Zacharia run sợ vì Gioan con của họ cũng chỉ mới hơn sáu tháng. Hai ông bà âm thầm tìm cách trốn chạy. Họ lặng lẽ đi về hướng Bắc trốn trong vùng hoang mạc Qumran vắng vẻ xứ Judea. Đây là vùng của nhóm dân Essenes cũng là dân Do Thái. Họ khá cực đoan nên sống cách ly với thế giới bên ngoài. Dân Essennes tôn trọng lề luật và nghiêm túc thực hành các nghi thức tế tự từ ngàn xưa. Họ sống chay tịnh nghiêm ngặt cả cuộc đời, một số đàn ông không lập gia đình, sống tách biệt trong các hang động. Việc tắm rửa vào buổi sáng không chỉ là vệ sinh cá nhân, nhưng hơn thế là một nghi thức tẩy uế . Cùng nhau ăn chung sau buổi cầu nguyện, không uống rượu và dùng các thức ăn lên men. Với ông bà Zacharia thì dân Essenes có lối sống và suy tư gắn liền với tôn giáo trong tập tục xa xưa, thi hành đúng theo lới các Tiên tri trong thánh kinh. gần giống với nhóm Saduc trong thành Jerusalem, nên ông bà cũng không thấy khác biệt cho lắm. Hơn nữa vì sự an nguy của Gioan nên ông bà chấp nhận mọi gian nan thử thách.
Tại Qumran, vì an nguy ông bà Zacharia quyết giữ im lặng, không tiết lộ cho ai kể cả con minh về những diều lạ lùng đã xảy ra liên quan tới thân phận Gioan và Giesu, con của Maria, người em họ làng Nazareth vúng Galile . Khi Gioan lên mừơi bốn tuổi ông Zacharia qua đời. Bốn tháng sau mẹ của ông, bà Elizabeth cũng qua đời. Kề từ đó trong hoang mạc Qumran, Gioan sống như một người Essennes thực thụ, chay tịnh nghiêm ngặt, cầu nguyện và học kinh thánh . Ông không lập gia đình, không uống rượu và ăn các thức ăn lên men. Năm Gioan 18 tuổi, ông rời khỏi Qumran sống lang thang trong hoang địa. Thực phẩm hàng ngày là quả cây carob, loại quả khi chín giống như châu chấu. giả thành bột trộn với mật ong rừng.làm thành một loại bánh không men dành cho người chay tịnh, ông mặc áo lông thú , thắt lưng dây da. Vì ông đã được Thiên Chúa tuyền chọn qua việc thụ thai của người mẹ cao tuổi. Được chúc phúc khi còn trong bào thai bởi việc thăm viếng của Maria, Mẹ đấng Cứu Độ. Nên ông lớn lên trong sự quan phòng của Thiên Chúa , Càng ngày thần khí của Thiên Chúa càng đổ tràn lên ông. Nên khi tròn ba mươi tuổi, ông từ hoang địa xuất hiên như một đấng tiên tri. Ông mặc áo long lạc đà, lưng thắt dây da, tay cầm gây đi qua cá làng mạc vùng Judea, lên xuống dọc theo hai bờ sông Jordan kêu gọi mọi người hãy ăn ở ngay lành, buông bỏ cuộc sống tôi lỗi xấu xa, dọn đường cho ngay thẳng để chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ sắp tới. Ông chỉ xem mình là tiêng kêu trong hoang địa, thường đến khúc sông Jordan cách Biển Chết hai mươi dặm về phía Bắc, cách Jerusalem 15 dăm về hướng Đông Nam kêu gọi mọi người chịu phép rửa. để dọn mình đón đấng Cứu Độ. . Rất đông người nghe và tin lởi ông nên đế đó chịu Phép rửa. Người dân trong vùng Judea xem ông như là Đấng Cứu Thế. Chính điều này đã làm cho các bậc Tư Tề, Luật sĩ, kinh viên, nhóm Saduc trong thành căm ghét và tức giận . Ngày nọ, để muốn hạ nhục Gioan họ cử vài Tư tế dẫn theo nhóm luật sĩ và kinh viên đến bờ sông Jordan, nơi Ông Gioan thực hành phép rửa cật vất ông.:
– Này ông Gioan ! Ông có phải là Tiên Tri không ?
– Không, tôi không phải là Tiên Tri
– Ông có phải là Elia không ?
– Không, tôi không phải là Elia.
– Ông có phải là đấng Cứu Thế không ?
-Tôi không phải là Tiên Tri, không phải là Elia, cũng không là đấng Cứu Thế. Tôi chỉ là tiêng kêu trong hoang địa, kêu gọi con người hãy cải thiện cuộc sống, ăn ngay ở lành, xán hối mọi tôi lỗi. rửa sạch tâm hồn. Đường quanh co hãy sửa cho ngay thẳng, núi đồi hãy bạt xuống lấp đầy những ao hồ đầm trũng như lời tiên tri Asia từ xa xưa
-Nếu Ông không phải là Tiên Tri, là Elia, cũng không phải là đấng Cứu Thế tại sao ông lại làm phép rửa.
– Như các ông đã thấy, Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng Người đến sau tôi sẽ rửa cho mọi người bằng máu và trong Thánh Thần. Còn tôi là kẻ không xứng đáng cởi giây giầy cho Người. Nghe Gioan trả lời như thế, nhóm Tư tế và luật sĩ không thể bắt bẻ ông được điều gì, đành lẵng lặng ra về, nhưng trong lòng còn bao điều ấm ức. Họ quyết tìm cách hại ông, nhưng còn sợ số đông dân chúng nghe và tin ông.
Trong khi Gioan đi lang thang khắp vùng hoang địa, phía Bắc và Nam Judea, qua các làng xóm ngoại ô thành Jerusalem kêu gọi dân Do Thái thống hối, chay tịnh, dọn mình đón Đấng Thiên Sai sắp tới. Thì khi đó tại phía Bắc, vùng Galile, môt người trung niên ba mươi tuổi, khôi ngô, tuấn tú, trang nghiêm xuất hiện. Tên ngài là Giêsu, cha vừa qua đời. Mẹ là Bà Maria. Cháu ngoại của ông Bà Joachim và Anna tại Nazareth. Ngài không làm chính trị, không có tham vọng cải cách xã hôi, Ngài đi khắp miền Galile rao giảng tin mừng, dậy dỗ dân chúng để cải hóa tâm hồn sống lương thiên đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài làm nhiều phép lạ biến nước thành rượu, biến Năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn no. Làm cho người chết sống lại. chữa lành người đui. què, câm, điếc. Trữ khử quỷ ám, rửa sạch kẻ phong cùi. Cuộc sống và lởi rao giảng qua các ngụ ngôn đầy khôn ngoan, dễ hiếu, chân thành và đầy yêu thương của ông luôn làm cho người Do Thái đặc câu hỏi: " Ông này là ai mà có quyền phép trừ quỷ, cho Larazus đã chết sống lại?. Phải chăng ông là Đấng Cứu Thế, mới có quyền phép đền như thế !
Ngàithường lên án hàng tư tế, luật sĩ là những kẻ nắm giữ lề luật Moise của cha ông, thực hành việc tế tự Thiên Chúa trong nơi thánh điện là bọn đạo đức giả. Ngài đã ví họ như những chiếc mã tô vôi, bên ngoải thì đẹp đẻ, nhưng bên trong thì đầyy những xương thịt hôi thúi.
Môn đệ của Ngài Giêsu là những người chài lưới trên biền hồ Galile. Ngài kết bạn và ăn uống tại nhà kẻ thu thuế được liệt kê như kẻ tôi lỗi trong xã hôi. Truyên trò chữa bệnh và nhiều khi còn khen người Samaritano mà dưới mắt người Do Thái họ là kẻ ngoại giáo đáng kinh bỉ và phải tránh xa.Ngài đã cứu cô Madalenna mang tôi ngoại tình khỏi bị ném đá cho tới chết bởi lề luật Do Thái. Ngài nêu lên hai điều răn mới là: Kinh sợ Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Giương sáng và lời giảng dạy của ông vang vọng trong lòng mọi người. đặc biệt bài giảng Phúc Thật trên ngọn đồi phía Bắc biển hồ Galile.
(1) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,vì Nước Trời là của họ.
(2) Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.
(3) Phúc thay ai sầu khổ,vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
(4) Phúc thay ai khát khao nên người công chính,vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
(5) Phúc thay ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
(6) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
(7) Phúc thay ai xây dựng hòa bình,vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
(8) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,vì Nước Trời là của họ.
(9) Phúc cho anh em khi vì Thầymà bị người ta sỉ vả, bách hạivà vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Con người kỳ lạ, đầy quyền uy phép tắc, khôn ngoan ấy cũng bị nhóm Pharisie, hàng tư Tề, bọn luật sĩ căm ghét vì giám lên án và nguyền rủ họ trước mặt mọi người.
Môt ngày kia Ông cùng mẹ và các môn đệ đi dọc theo dòng Jordan xuống miền Nam. Khi đến khúc sông nơi ông Gioan làm phép rửa. Các môn đệ và Giêsu dừng lại bên kia sông. Như có một luông thần khí chạy khăp châu thân. ông Gioan nhìn về nhóm người mới tới. Mắt ông như chạm phải thần khí khi nhìn thấy một người trung niên đang lội từ bên kia sông tiến về phía mình. Khi tới trước Gioan, người trung niên nói.
-Xin Ngài làm phép rửa cho tôi.
Trước mặt người trung niên đầy thần khí, Ông Gioan cảm thấy mình hèn hạ, nhỏ bé nên một mực từ chối.
-Chính tôi mới cần Người làm phép rửa để tấy uế mọi nhơ bẩn. Thế mà Ngài lại đến với tôi!
Người trung niên trả lời:
-Bây giờ cứ thực hành cho tôi như Ông đã làm cho mọi người , Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”.
Lúc ấy Ông Gioan miễn cưỡng chiều theo ý.. Ông đặt hai tay trên vai người trung niên nhấn mạnh xuống nước để chịu phép rửa.. Khi vừa dưới nước lên. Gioan thấy Thần khí như chim bồ câu ngự trên người trung niên, và có tiếng phán ra từ trời:
Đây là con yêu dấu của ta. Đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi hãy nghe lời Người !
Đứng trên bờ sông, Bà Maria chứng kiên những sự việc ấy, liền nhân biết chàng trung niên làm phép rửa cho con mình chính là Gioan, con người chị họ Elizabeth đã mất tin tức và liên lạc từ hơn ba mươi năm qua. Nhưng bà giữ im lặng và biết ngày Cứu Độ đã tới. Giây phút đó, Giêsu đứng lặng, không nói lời nào, chào ông Gioan rồi lên bờ cùng các môn đệ đi vào thành Jerusalem. Còn Gioan kể từ khi ấy, hồn ngập tràn hoan hỉ và nhận biết thời gian và con người Cứu Độ đã tới. Ông không làm phép rửa nữa mà đi khắp miền Giudea kêu gọi mọi người hãy sửa soạn tâm hồn đón nhận ơn Cứu Độ. Ông lên án bọn Pharisieu, nhóm Saduc như loài lang sói, rắn độc. Ông cũng không sợ hãi lên án, rêu rao việc dâm ô của vua Herod Antipas, tiểu vương vùng Judea ly dị vợ là Phasaelis để lấy nàng Herodias, vợ của Philipphe em cùng cha khác mẹ của mình. Lời rêu rao và lên án của Gioan loan ra khắp vùng Judea, vào tới thành Jerusalem làm cho Herod và Herodias lo lắng và tức giân. Thêm vào đó thêm lời xúi dục, dèm pha, của nhóm, Pharisieu, Saduc nên Herod đi tới quyết định ra lệnh bắt Gioan. Xuất phát tứ thành Jerusalem, dẫn đầu nhóm là hai Tư Tế, năm Pharisieu, sáu luật sĩ và một tiểu đội lính Roma yểm trợ. Sở dĩ có một đoàn khá đông như vậy mà còn cần tới lính Roma yềm trợ, vì Herod sợ dân nồi loạn. bởi ông Gioan có một số môn đệ và dân chúng theo ông khá đông. Họ tiến vế hướng Đông Bắc, gần hoang mạc Qumran nơi có tin báo Gioan đang rao giảng. Họ bắt Gioan quá dễ dàng khi ông đang giảng thuyết trong các làng xóm nhỏ dọc theo đường về thành Jericho. Quân lình Roma trói ông rồi dẫn về Machaerus, môt làng ở phía Bắc Biển Chết, cách hoàng Thành vua Herod mười lăm dặm và nhốt ông ở đó.
Vào ngày sinh nhật của Herod Antipas, Triều đình tổ chức một buổi tiệc linh đình để ăn mừng. Mọi người trong triều say sưa ăn uống. Để làm đẹp lòng vua, vị quan cận thần có sáng kiến cho Salome, con gái bà Herodias, gọi Herod Antipas bằng bác ra nhảy múa. Thấy Salome vừa đẹp, vừa nhảy múa quyến rũ, và cũng muốn làm đẹp lòng Herodias. Đứng giữa buổi tiệc Ông gọi Salome lại tuyên bố.
-Vì con quá đẹp và múa rất hay trước mặt ta và mọi người, vậy con xin thứ ta cũng ban cho. Ngay như con xin nửa giang sơn này ta cũng bằng lòng.
Salome ngỡ ngàng với lời hứa của Herod ông bác và cũng là cha ghẻ của mình. Không biết quyết định thế nào. Cô trở lại nơi mẹ ngồi, hỏi ý kiến. Herodias rất căm phẫn Gioan vì đã phạm thượng lên án việc vua Herod cưới bà. Từ bao lâu nay Bà muốn trừ khử con người này, nhưng chưa có cơ hôi. Một ý nghĩ táo bạo lóe lên trong đầu. Đây là cơ hôi ngàn vàng, nếu ta không lơi dụng lần này thì không còn cơ hội nào khác. Bà ghé vào tai con gái nói nhỏ điều gì đó. Salome gật đầu rồi tiến ra giữa bữa tiệc tiếp tục khởi động những điệu múa quyến rủ mê hồn tiến tới gần Herod quý xuống tâu với Herrod một điều gì đó.
Mọi người trong yến tiệc theo dõi Salome, cả gian phòng rơi vào sự im lặng gần như không có người. Sau đó họ nhìn Herod xem phản ứng của ông như thế nào. Ngôi yên lặng, chết trân, hai mắt đứng tròng. Herod không thể ngờ có một lời xin quá tóa bạo, tàn nhẫn, ghê gớm như vậy từ miệng một cô gái mười sáu tưổi ngay trong bữa tiệc Sinh nhật mình. Nhưng biết làm sao được, lời hứa của một vị vua trước mặt quần thần không thể thất hứa dù đó là lời thốt lên trong lúc bốc đồng, ngu dại. Qua một phút choáng váng bởi lời cầu xin của cô gái, ông định thần nghĩ lại. Với Gioan, mình vừa ghét vỉ đã bêu rếu và lên án cuộc hôn nhân loạn luân của mình, nhưng cũng vừa cảm mến kính phục bởi lòng đức độ, tâm hồn cao thượng, trong sạch của Gioan. Ông là tấm gương cao cả trước mặt mọi người và trước mặt Yahve của dân Israel. Việc bắt nhốt Gioan mấy hôm trước là một việc ngoài ý muốn. Bởi do lời của Herodia và nhóm luật sĩ. Nhưng đã lỡ rồi. Hơn nửa nếu giết Gioan cũng không phương hại gì tới ngai vàng của mình. Còn nếu để Gioan sống, ông cứ tiếp tục lên án và bêu rêu mình trước mặt bang dân thiên hạ,. Gọi người hầu tới, Ông nói nhỏ gì đó rồi ra lênh cho mọi người tiếp tục ăn uống vui chơi. Salome tiếp tục kiêu vũ cho Herod và mọi người thưởng thức. Khoảng gần tàn buổi tiệc, một người hầu, bưng vào một chiếc dĩa khá nặng, bên trên có đựng một phẩm vật phủ bằng mảnh lụa Đông Phương thật đẹp. Mọi người im lặng hồi hộp theo dõi từng cử động của người lình hầu. Đến trước mặt Salome đang ngồi bên mẹ. Hắn từ từ kéo tấm vải lụa lên. Trên chiếc dĩa lộ nguyên hình chiếc đầu người râu tóc bờm xờm. Đôi mắt khép kín.
Lòng dĩa đầy máu. Hắn nói.
-Thư công chúa đây là chiếc đầu của Gioan, người đã tự cho mình là tiêng kêu trong hoang mạc, làm phép rửa cho hàng ngàn người trên dòng Jordan. Đây là phần thưởng của vua ban theo lời xin của Công Chúa Hắn đặc chiếc dĩa xuống bàn, từ từ quay lui rồi biến mất sau cánh cửa lớn gỗ sồi nặng nề khép lại.
Ngày hôm sau, người dân trong thành, nhìn thấy chiếc xe lừa chở một chiếc quan tài lẳng lặng đi qua cổng Bắc thành Jerusalem. Người dân chỉ nghe phong phanh về cái chết của người nằm trong quan tài. Nhưng một số thầy Tư Tế, kinh sư và luật sĩ biết rất rõ về người này. Họ vui cười và nói với nhau: “ Từ nay, chúng ta không còn gai mắt nhìn thấy con người ăn mặc lôi thôi, râu tóc xồm xòam, làm phép rửa và tự cho mình là tiếng kêu trong hoang mạc nữa”. Chiếc xe lừa chở quan tài đi thẳng về hướng Bắc Judea rồi vào vùng thung lũng Samari. Họ đào huyệt chôn chiếc hòm dưới chân môt ngọn đồi hoang vắng cách thật xa kinh thành Sebaste nguy nga, tráng lệ. Nơi mà vua Herod xây để vinh danh Ceasar Augustus hoàng đế của La Mã .
Một buổi tiêc sinh nhật xa hoa của bạo chúa. Cũng là ngàychết của Đấng Tiên Tri cao trọng, là sứ giả đi trước để dọn đường cho ơn Cứu Độ bị chặt đầu. Cả hai đều đã chết. Môt cái chết cuả một ông Vua xa hoa, sang trọng đã chìm mất trong quên lãng và mãi mãi bi kinh miệt. Nhưng lời kêu gọi của một đấng Đại Tiên Tri nơ hoang mạc của Gioan hơn hai ngàn năm trước, cho tới hôm nay vẫn tiếp tiếp tục vang vọng tới mọi chân trời góc biển và sẽ còn vang vọng mải mãi trong lòng người cho tới muôn đời sau.
California Dec, 20, 2014
Nhưng giấc mộng ấy hôm nay đã thành sự thực. Cách nay 30 ngày hội đồng Tư Tế nhóm họp tại thành Jerusalem đã quyết định chọn ông là người lần tới sẽ được lau dọn, thắp cây đèn và dâng hương trong đền thờ. Ông như người nằm mộng, nhưng khi tỉnh dậy lại là một giấc mộng thực. Tim ông muốn nhảy ra ngoài, hồn ông tràn ngập sung sướng. Vì suốt đời làm tư tế mỗi người chỉ được một lần mà thôi Ông muốn kìm hãm niềm hạnh phúc , nhưng nó dâng tràn trong lòng mỗi giây phút một cao. Trước khi kết thúc cuộc bầu chọn, vị Thượng phẩm thâm niên và cao trọng đứng dậy nêu lên những lý do mà hôi đồng tư tế chọn Zacharia đó chinh là : Lòng đạo hạnh, đức kiêm tốn, từ ái, lòng trung kiên và kính sợ Đấng Yahve. Đặc biệt ông vẫn trung thành với người vợ của ông dù hai người lấy nhau đã hơn bốn mươi lăm năm, nhưng tới nay dù đã sáu mươi tuổi vẫn chưa có con . Bởi với người Judah đó là một điều gần như bất hạnhvà xấu hổ cho bất cứ người đàn bà Do Thái nào đã kết hôn mà không có con . Nhưng ông vẩn kiên trì và sống với bà trọn đời không lấy một người đàn bà nào khác. Chính những đức tính cao quý này ông bà đã được mọi người xem như là cặp vợ chồng công chính trước mặt Thiên Chúa. Ông Zacharia mong sao cho cuộc họp chóng chấm dưt để về báo với mọi người trong nhà nhất là Elizabeth, người vợ ông yêu quý suốt hơn bốn mươi lăn năm chung sống. Chiều hôm đó cả làng Ain Karim từ nhỏ tới lớn ai cũng biết tin này. Họ tới nhà chúc mừng ông. Elizabeth là người hạnh phúc thứ hai sau chồng mình. Bữa cơm chiều hôm đó là bữa cơm hạnh phúc thứ hai kể từ ngày hai người kết hôn. Tuy hạnh phúc tràn đầy, nhưng bà Elizabeth vẫn cố kìm giữ. Bà âm thầm chuẩn bị những gì cần phải làm cho chồng mình trong những ngày sắp tới. Với bà điều quan trọng nhất là để chông mình tránh xa những ồn ào uế tạp trần thế, gìn giữ và chay tịnh cho tâm hồn thật xứng đáng khi bước vào đền Thờ lau dọn thắp đèn và dâng hương trước Hòm Bia Thiên Chúa . Bà sẽ may cho ông những bộ đồ tốt và đẹp nhất bằng vải lụa Phương Đông .
Buổi sáng hôm nay, ông đứng nhìn gói hành lý và hai bộ đồ Tư Tế tinh nguyên bằng vải lụa ướp thơm bằng hương cây hương nam núi Li Băng. Nhìn ra cửa, ông thấy bà Elizabeth đang loay hoay cho mấy thứ gì đó vào giỏ trên lưng con lừa để hai người giúp việc mang lên thành Jerusalem.. Ông gọi bà Elizabeth vào.
-Hôm nay là ngày trọng đại trong cuộc đời một Tư Tế . Tôi sẽ bước vào đền thờ Thiên Chúa với tất cả sự khiêm cung, thành kính bằng những ngày cầu nguyện và chay tịnh cùng với hai bộ đồ tư tế mới tinh truyền chưa ai đụng tới ngoài đôi tay của Bà. . Chút nữa tôi sẽ khởi hành lên thành Thánh. Tôi sẽ cầu khẩn đấng Yahve chúc lành cho chúng ta cho mọi người cùng đàn gia súc và mùa màng trong nhà này.
Người đầy tớ và vị luật sĩ đã sẵn sàng chờ giờ khởi hành tháp tùng ông Zacharia trong cuộc hành trình . Ông nắm tay Bà an ủi rồi nhẹ nhàng vén áo bước qua bậc thềm đi thẳng ra cửa. Ông đi trước, thầy luật sĩ đi phía một chút. Người đầy tớ dắt con lừa trên lưng với hai chiếc giỏ khá nặng đi sau cùng. Bà Elizabeth đứng vịn hai tay vào thành cửa đá nhìn theo. Đôi mắc đầy tiếc nuối vì không được cùng chồng tham dự vào cuộc ra đi đầy lịch sử này. Đoàn người và con lửa từ từ biến mất sau những đám bụi đường của vùng đồi núi Judea .
Muốn vào thành Thánh từ phía Tây Nam, đoàn người phải đi qua vùng đồi núi Zion. Ngọn đồi cao nhất kế cận bên ngoài vòng thành, đứng trên độ cao đó, người ta có thể nhìn bao quát cà thành Jerusalen . Đoàn người xuống núi tiến vào cổng phía Tây Nam còn gọi là Cổng Zion. Đi một đoạn nữa sẽ tới khu an nghĩ của các Tư Tế. Ngoại trừ các Tư Tế sống trong thành, các Tư Tế từ các nơi khác về thường nghĩ tại đây qua đêm hay hai ba ngày tùy theo lich trình của mỗi người.
Đòan người của Tư Tế Zacharia tới đây đã xế chiều, ở lại hai ba ngày tùy theo mọi việc sắp xếp của hội đồng Tư Tế. Vì Ông là người tối quan trọng trong lần dâng hương và câu nguyên ngày mai. Người luật sĩ và ông Zacharia đi gặp vị Thượng phẩm, người đầy tớ ở nhà dọn đồ và sắp xếp nơi ăn chốn ở.
Sáng sớm hôm sau, Ông Zacharia bận bộ áo tư tế mới và đẹp nhất tiến về đền thánh. Mọi người đang tề tự phía ngoài. Ông bước vào với một tâm hồn khá căng thẳng bởi những bước đi trang trọng, đỉnh đạc trầm mặc. Ngước nhin mọi người, mỉm cười rất nhẹ rồi cúi đầu chào. Ông tiến lại đứng bên cạnh vị Thượng Tế. Hai người nói nhỏ với nhau đôi điều, ông Zacharia tiếp nhận bình hương trầm từ tay vị tư tế khác . Rất trang nghiêm, theo luật định chỉ một mình ông được tiến vào đền Thánh. Ông ý thức được trách nhiệm và vai trò của mình trọng đại như thế nào trước mắt mọi người và trước mặt Thuên Chúa. Vì từ giờ phút này ông là người đại diên cho dân tộc đến cung hiến, thờ lạy,cầu nguyên và dâng lên nguyên ước của dân mình với Thiên Chúa, Đấng đã lập giao ước với tổ phụ dân Israel. Trong khu sân ngoài, các tư tế và luật sĩ cũng cầu nguyện. Tất cả đều một lòng xin Yahve cho Đấng Thiên Sai xuống để cứu vớt dân tộc mình khỏi ách thống trị người La Mà và khỏi tay vị vua tàn bạo Herod của họ.
Bên trong ông Zacharia cung kính lau chùi bàn thờ, thắp lên cây đèn chín ngọn và đốt trầm hương trước Bàn Thánh. Chợt ngước lên, ông thấy một Thiên Thần uy nghi ngồi bên phải hương án. Ông giật mình kinh sợ. Nhưng Thiên Thần nói với ông Zacharia
-Này Zacharia đừng sợ, lời cầu nguyên của ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Elizabeth vợ của ông sẽ thụ thai và sẽ sanh một con trai và được đặt tên là Gioan. Con trai ông sẽ là nguồn vui vô tận cho Ông Bà và biết bao nhiêu người cũng vui mừng vì sự chào đời của con trẻ. Em bé sẽ là người cao quý trước mặt Thiên Chúa, sẽ không uống rượu và ăn các thứ lên men. Và ngay khi còn trong lòng mẹ em bé sẽ được đầy ơn Thánh Thần và thần khí quyền năng của Elija. Gioan sẽ là người đến trước để dọn đường đón đấng Cứu Độ. Làm cho lòng cha quay về với con, Đưa dân trở về đường công chính sửa soạn đón ơn Cứu Độ sắp tới.
Ông Zacharia thưa :
-Bởi đâu mà tôi có thể tin được điều này, vì vợ chồng chúng tôi đã cao tuổi rồi.
-Ta là Gabriel sứ thần của Thiên Chúa sai tới báo cho ông biết tin mừng ấy, vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Bởi sự hoài nghi đó, nên từ nay ông sẽ bị cấm khẩu cho tới mọi việc được xảy ra.
Trong khi ấy các tư tế , luật sĩ, kinh viện và dân chúng đứng bên ngoài sân điên thờ lấy làm lạ không hiểu tại sao Zacharia ở trong Đền thờ quá lâu như vậy. Sau khi chu toàn trách vụ, ông Zacharia bước ra sân trước gặp mọi người, nhưng ông không nói được, chỉ ra dấu bằng tay trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Họ biết ông đã thấy một thị kiến nào đó trong cung Thánh.
Khi trách vụ tại đền thờ đã mãn, ông Zacharia trở về nhà tại làng Ain Karim . Ít lâu sau vợ ông mang thai, bà đi ở ẩn năm sáu tháng. Theo sự suy đóan của mọi người, có lẽ bà xấu hổ bởi vì tuổi đã lớn mà mang thai, hay để giam mình trong chay tịnh cầu nguyện và cám ơn Thiên Chúa đã ban cho vợ chồng bà một hồng phúc quá lớn lao. Hằng ngày người trong nhà nghe bà dâng lời : “Lạy đấng Yahve toàn năng , con cám ơn Ngài đã cất đi nỗi hổ nhục cho tôi trước mặt mọi người.
Vì với dân Israel không có sự tủi nhục nào bằng một người nữ lập gia đình mà không có con.
Một buổi chiều giữa mùa Xuân, khí trời vùng bán sa mạc đồi núi Judea còn mát. Cũng là thời gian bà Elizabeth đã mang thai được sáu tháng. Đang ngồi may cho đứa con tương lai của mình chiếc áo ấm, bỗng bà nghe ai đó gọi tên mình ngoài cửa, ngó ra thấy một phụ nữ trẻ , đẹp đang nhẹ nhàng, trang nghiêm bước vào sân.
Thiếu nữ cất tiếng:
-Chị Elizabeth, chị Elizeth ! em Maria từ Nazareth xuống thăm chị.
Ngay giây phút ấy bà thấy con mình nhẩy mừng trong bụng và tràn đầy ơn Thánh Thần.. Bà chạy ra ôm lấy Mazria rồi quỳ xuống nói
-Em được Chúa chúc phúc hơn mọi người nữ, Người con em đang cưu mang được nhiều phước lạ. Bởi đâu mà tôi được mẹThiên Chúa tới với tôi thế này. Khi nghe lời em chào thì con tôi trong bụng nhảy lên vui mừng. Em thật có phúc vì đã tin đấng Yahve thực hiện những gì Ngài đã hứa với tổ phụ chúng ta .
Maria đỡ bà Elizabeth đứng dậy, kể lại sự việc Thiên sứ Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho mình sẽ thụ thai bởi quyên phép Thánh Thần, mặc dù chỉ mới hứa hôn với Giuse. Đứa bé được sinh ra sẽ trở nên cao trọng và là đấng Cứu Độ mai sau. Vì thấu suốt sự ngỡ ngàng của em, nên Thiên Sứ cho em biết cũng bởi quyền phép của Thánh Thần, chị cũng đã mang thai được sáu tháng mặc dù anh chị đã luông tuổi. Chính vì thế hôm nay từ Nazareth em xuống đây chúc mừng anh chị vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi hổ cho anh chị trước mặt người đời. Sau cuộc chào mừng, Maria chắp tay trước ngực, người mắt lên trời đọc lớn lời ca tụng
Thiên Chúa.
“Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn này, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi được diễm phúc. Bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Từ đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của dư đầy. Người giàu có lại trở về tay trắng.
Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời.”
Maria ở lại với bà Elizabeth thêm ba tháng nữa, cho tới khi bà sanh người con trai đầu lòng mới trở về Nazareth. Sau tám ngày ông bà Zacharia và Elizabeth chuẩn bị lễ vật và đưa con mình đi chịu phép cắt bì theo luật Moisen. Trước khi thực hành nghi thức cắt bì , theo phong tục thầy Tư Tế nói lớn cho mọi người .
– Đứa bé bé được cắt bì hôm nay sẽ đươc đặt tên là Zacharia.
Bà Elizabeth thưa lại
– Thưa thầy, tôi muốn đặt tên cho cháu là Gioan.
-Nhưng trong gia đình của ông bà đâu có ai tên là Gioan.
Quay về phía ông Zacharia đứng bên phải, Thầy Tư Tế hỏi
-Còn Ông ! ông Zacharia ! ông muốn đặt tên gì cho con trẻ ?.
Vì đã bị cấm khẩu từ lúc gặp Thên Thần Gabriel trong đền Thánh khi ông đang dâng hươn cách nay hơn chin tháng . Ông cầm bút viết lên tấm bảng :
“GIOAN”. Ngay từ giấy phút đó ông hết câm, nói năng lưu loát bình thường trước sự ngỡ ngàng của thầy Tư Tế và bao người đứng vây quanh. Sau khi chịu phép cắt bì, ông bà đưa Gioan về nhà nuôi nấng, dạy dỗ theo luật của các tổ phụ truyền lại.
Đấu tháng Mười Hai năm đó, khi Gioan vừa tròn sáu tháng tuổi. Hoàng đế Roma Ceasa Augustus ra lệnh tất cả mọi người sống tại các miền dưới quyền cai trị của Roma từ Judea, Samari, Galile phải về quê quá mình để khai sổ dân đinh . Đây là lần kiểm tra dân số đầu tiên kể từ khi người Roma cai trị dân Israel. Giuse và Maria phải về Bethlehem vì Giuse thuộc dòng vua David quê quá tại đó . Về tới Bethlehem, Giuse không có nhà và cũng không còn người thân thích nào. Trong khi đó người các nơi trở về Bethlehem quá đông . Không tìm được nơi ở, Giuse đành phải đưa Maria vào nơi dành cho gia súc ở trọ qua đêm. Đêm hôm đó, giữa chốn nghèo hèn hôi hám của bò lừa dê cừu, Maria đã hạ sinh con đầu lòng, lấy khăn bọc lại rồi đặc trong máng cỏ, nơi dành cho chiên bò ăn. Quanh vùng Bethlehem có những mục đồng đang canh thức, chợt nghe tiếng từ trời .
“Vinh Danh Chúa cả trên trời. Bình An dưới thế cho người chính tâm”. Nghe lời thiên thần hát, đoàn mục đồng rủ nhau tìm tới nơi xảy ra điềm lạ. Tơi nơi họ gặp Giuse, Maria và Hài Nhi Giessu đang nằm trong máng cỏ. Họ kể lại việc Thiên thần báo tin. Giuse hết đỗi ngạc nhiên, còn Maria thi ghi khắc mãi kỷ niệm này trong lòng.
Sau khi Giesu được cắt bì theo luật Moisen, có mấy nhà đạo sĩ từ Phương Đông tới Jerusalem tìm Vua Israel nới sinh để bái lạy, vì họ trông thấy ngôi sao lạ của Ngài xuất hiện. Cả thành Jerusalem xôn xao về chuyện này. Nhất là vua Herod, ông lo lắng bồn chồn vì sợ đứa trẻ lớn lên sẽ chiếm ngôi vua của mình. Ông ngầm ra lịch cho thuộc cấp theo dõi ba vị đạo sĩ. Nhưng khi ba đạo sĩ vừa rời khỏi Jerusalem, nhóm lính theo dõi mất dấu tích, không biết họ đi về phương hướng nào. Sau khi chiêm bái hài nhi Giesu và cha mẹ Ngài, họ dâng các phẩm vật: Vàng , Nhũ hương, Mộc dược, rồi theo đường khác trở về quê quán mình
Nghe tin ấy Herod quá run sợ, nổi cơn lôi đình ra lịch giết hết tất cả những đứa trè trai từ sơ sinh tới hai tuổi tại Bethlehem và vùng phụ cận. Giuse được Thiên Thần báo mộng, khuyên ông trỗi dậy trong đêm đưa Giesu và Mẹ người trốn sang Egypt.
Gia đình của Zacharia tại Ain Karim thuộc vùng lân cận Bethehem cũng nằm trong chiến dịch tàn sát này. Trong giấc ngủ, ông Zacharia cũng được báo mộng và khuyên ông hãy đưa gia đình trốn về vùng hoang mạc phía Bắc Judea. Ông bà Zacharia run sợ vì Gioan con của họ cũng chỉ mới hơn sáu tháng. Hai ông bà âm thầm tìm cách trốn chạy. Họ lặng lẽ đi về hướng Bắc trốn trong vùng hoang mạc Qumran vắng vẻ xứ Judea. Đây là vùng của nhóm dân Essenes cũng là dân Do Thái. Họ khá cực đoan nên sống cách ly với thế giới bên ngoài. Dân Essennes tôn trọng lề luật và nghiêm túc thực hành các nghi thức tế tự từ ngàn xưa. Họ sống chay tịnh nghiêm ngặt cả cuộc đời, một số đàn ông không lập gia đình, sống tách biệt trong các hang động. Việc tắm rửa vào buổi sáng không chỉ là vệ sinh cá nhân, nhưng hơn thế là một nghi thức tẩy uế . Cùng nhau ăn chung sau buổi cầu nguyện, không uống rượu và dùng các thức ăn lên men. Với ông bà Zacharia thì dân Essenes có lối sống và suy tư gắn liền với tôn giáo trong tập tục xa xưa, thi hành đúng theo lới các Tiên tri trong thánh kinh. gần giống với nhóm Saduc trong thành Jerusalem, nên ông bà cũng không thấy khác biệt cho lắm. Hơn nữa vì sự an nguy của Gioan nên ông bà chấp nhận mọi gian nan thử thách.
Tại Qumran, vì an nguy ông bà Zacharia quyết giữ im lặng, không tiết lộ cho ai kể cả con minh về những diều lạ lùng đã xảy ra liên quan tới thân phận Gioan và Giesu, con của Maria, người em họ làng Nazareth vúng Galile . Khi Gioan lên mừơi bốn tuổi ông Zacharia qua đời. Bốn tháng sau mẹ của ông, bà Elizabeth cũng qua đời. Kề từ đó trong hoang mạc Qumran, Gioan sống như một người Essennes thực thụ, chay tịnh nghiêm ngặt, cầu nguyện và học kinh thánh . Ông không lập gia đình, không uống rượu và ăn các thức ăn lên men. Năm Gioan 18 tuổi, ông rời khỏi Qumran sống lang thang trong hoang địa. Thực phẩm hàng ngày là quả cây carob, loại quả khi chín giống như châu chấu. giả thành bột trộn với mật ong rừng.làm thành một loại bánh không men dành cho người chay tịnh, ông mặc áo lông thú , thắt lưng dây da. Vì ông đã được Thiên Chúa tuyền chọn qua việc thụ thai của người mẹ cao tuổi. Được chúc phúc khi còn trong bào thai bởi việc thăm viếng của Maria, Mẹ đấng Cứu Độ. Nên ông lớn lên trong sự quan phòng của Thiên Chúa , Càng ngày thần khí của Thiên Chúa càng đổ tràn lên ông. Nên khi tròn ba mươi tuổi, ông từ hoang địa xuất hiên như một đấng tiên tri. Ông mặc áo long lạc đà, lưng thắt dây da, tay cầm gây đi qua cá làng mạc vùng Judea, lên xuống dọc theo hai bờ sông Jordan kêu gọi mọi người hãy ăn ở ngay lành, buông bỏ cuộc sống tôi lỗi xấu xa, dọn đường cho ngay thẳng để chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ sắp tới. Ông chỉ xem mình là tiêng kêu trong hoang địa, thường đến khúc sông Jordan cách Biển Chết hai mươi dặm về phía Bắc, cách Jerusalem 15 dăm về hướng Đông Nam kêu gọi mọi người chịu phép rửa. để dọn mình đón đấng Cứu Độ. . Rất đông người nghe và tin lởi ông nên đế đó chịu Phép rửa. Người dân trong vùng Judea xem ông như là Đấng Cứu Thế. Chính điều này đã làm cho các bậc Tư Tề, Luật sĩ, kinh viên, nhóm Saduc trong thành căm ghét và tức giận . Ngày nọ, để muốn hạ nhục Gioan họ cử vài Tư tế dẫn theo nhóm luật sĩ và kinh viên đến bờ sông Jordan, nơi Ông Gioan thực hành phép rửa cật vất ông.:
– Này ông Gioan ! Ông có phải là Tiên Tri không ?
– Không, tôi không phải là Tiên Tri
– Ông có phải là Elia không ?
– Không, tôi không phải là Elia.
– Ông có phải là đấng Cứu Thế không ?
-Tôi không phải là Tiên Tri, không phải là Elia, cũng không là đấng Cứu Thế. Tôi chỉ là tiêng kêu trong hoang địa, kêu gọi con người hãy cải thiện cuộc sống, ăn ngay ở lành, xán hối mọi tôi lỗi. rửa sạch tâm hồn. Đường quanh co hãy sửa cho ngay thẳng, núi đồi hãy bạt xuống lấp đầy những ao hồ đầm trũng như lời tiên tri Asia từ xa xưa
-Nếu Ông không phải là Tiên Tri, là Elia, cũng không phải là đấng Cứu Thế tại sao ông lại làm phép rửa.
– Như các ông đã thấy, Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng Người đến sau tôi sẽ rửa cho mọi người bằng máu và trong Thánh Thần. Còn tôi là kẻ không xứng đáng cởi giây giầy cho Người. Nghe Gioan trả lời như thế, nhóm Tư tế và luật sĩ không thể bắt bẻ ông được điều gì, đành lẵng lặng ra về, nhưng trong lòng còn bao điều ấm ức. Họ quyết tìm cách hại ông, nhưng còn sợ số đông dân chúng nghe và tin ông.
Trong khi Gioan đi lang thang khắp vùng hoang địa, phía Bắc và Nam Judea, qua các làng xóm ngoại ô thành Jerusalem kêu gọi dân Do Thái thống hối, chay tịnh, dọn mình đón Đấng Thiên Sai sắp tới. Thì khi đó tại phía Bắc, vùng Galile, môt người trung niên ba mươi tuổi, khôi ngô, tuấn tú, trang nghiêm xuất hiện. Tên ngài là Giêsu, cha vừa qua đời. Mẹ là Bà Maria. Cháu ngoại của ông Bà Joachim và Anna tại Nazareth. Ngài không làm chính trị, không có tham vọng cải cách xã hôi, Ngài đi khắp miền Galile rao giảng tin mừng, dậy dỗ dân chúng để cải hóa tâm hồn sống lương thiên đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài làm nhiều phép lạ biến nước thành rượu, biến Năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn no. Làm cho người chết sống lại. chữa lành người đui. què, câm, điếc. Trữ khử quỷ ám, rửa sạch kẻ phong cùi. Cuộc sống và lởi rao giảng qua các ngụ ngôn đầy khôn ngoan, dễ hiếu, chân thành và đầy yêu thương của ông luôn làm cho người Do Thái đặc câu hỏi: " Ông này là ai mà có quyền phép trừ quỷ, cho Larazus đã chết sống lại?. Phải chăng ông là Đấng Cứu Thế, mới có quyền phép đền như thế !
Ngàithường lên án hàng tư tế, luật sĩ là những kẻ nắm giữ lề luật Moise của cha ông, thực hành việc tế tự Thiên Chúa trong nơi thánh điện là bọn đạo đức giả. Ngài đã ví họ như những chiếc mã tô vôi, bên ngoải thì đẹp đẻ, nhưng bên trong thì đầyy những xương thịt hôi thúi.
Môn đệ của Ngài Giêsu là những người chài lưới trên biền hồ Galile. Ngài kết bạn và ăn uống tại nhà kẻ thu thuế được liệt kê như kẻ tôi lỗi trong xã hôi. Truyên trò chữa bệnh và nhiều khi còn khen người Samaritano mà dưới mắt người Do Thái họ là kẻ ngoại giáo đáng kinh bỉ và phải tránh xa.Ngài đã cứu cô Madalenna mang tôi ngoại tình khỏi bị ném đá cho tới chết bởi lề luật Do Thái. Ngài nêu lên hai điều răn mới là: Kinh sợ Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Giương sáng và lời giảng dạy của ông vang vọng trong lòng mọi người. đặc biệt bài giảng Phúc Thật trên ngọn đồi phía Bắc biển hồ Galile.
(1) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,vì Nước Trời là của họ.
(2) Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.
(3) Phúc thay ai sầu khổ,vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
(4) Phúc thay ai khát khao nên người công chính,vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
(5) Phúc thay ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
(6) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
(7) Phúc thay ai xây dựng hòa bình,vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
(8) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,vì Nước Trời là của họ.
(9) Phúc cho anh em khi vì Thầymà bị người ta sỉ vả, bách hạivà vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Con người kỳ lạ, đầy quyền uy phép tắc, khôn ngoan ấy cũng bị nhóm Pharisie, hàng tư Tề, bọn luật sĩ căm ghét vì giám lên án và nguyền rủ họ trước mặt mọi người.
Môt ngày kia Ông cùng mẹ và các môn đệ đi dọc theo dòng Jordan xuống miền Nam. Khi đến khúc sông nơi ông Gioan làm phép rửa. Các môn đệ và Giêsu dừng lại bên kia sông. Như có một luông thần khí chạy khăp châu thân. ông Gioan nhìn về nhóm người mới tới. Mắt ông như chạm phải thần khí khi nhìn thấy một người trung niên đang lội từ bên kia sông tiến về phía mình. Khi tới trước Gioan, người trung niên nói.
-Xin Ngài làm phép rửa cho tôi.
Trước mặt người trung niên đầy thần khí, Ông Gioan cảm thấy mình hèn hạ, nhỏ bé nên một mực từ chối.
-Chính tôi mới cần Người làm phép rửa để tấy uế mọi nhơ bẩn. Thế mà Ngài lại đến với tôi!
Người trung niên trả lời:
-Bây giờ cứ thực hành cho tôi như Ông đã làm cho mọi người , Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”.
Lúc ấy Ông Gioan miễn cưỡng chiều theo ý.. Ông đặt hai tay trên vai người trung niên nhấn mạnh xuống nước để chịu phép rửa.. Khi vừa dưới nước lên. Gioan thấy Thần khí như chim bồ câu ngự trên người trung niên, và có tiếng phán ra từ trời:
Đây là con yêu dấu của ta. Đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi hãy nghe lời Người !
Đứng trên bờ sông, Bà Maria chứng kiên những sự việc ấy, liền nhân biết chàng trung niên làm phép rửa cho con mình chính là Gioan, con người chị họ Elizabeth đã mất tin tức và liên lạc từ hơn ba mươi năm qua. Nhưng bà giữ im lặng và biết ngày Cứu Độ đã tới. Giây phút đó, Giêsu đứng lặng, không nói lời nào, chào ông Gioan rồi lên bờ cùng các môn đệ đi vào thành Jerusalem. Còn Gioan kể từ khi ấy, hồn ngập tràn hoan hỉ và nhận biết thời gian và con người Cứu Độ đã tới. Ông không làm phép rửa nữa mà đi khắp miền Giudea kêu gọi mọi người hãy sửa soạn tâm hồn đón nhận ơn Cứu Độ. Ông lên án bọn Pharisieu, nhóm Saduc như loài lang sói, rắn độc. Ông cũng không sợ hãi lên án, rêu rao việc dâm ô của vua Herod Antipas, tiểu vương vùng Judea ly dị vợ là Phasaelis để lấy nàng Herodias, vợ của Philipphe em cùng cha khác mẹ của mình. Lời rêu rao và lên án của Gioan loan ra khắp vùng Judea, vào tới thành Jerusalem làm cho Herod và Herodias lo lắng và tức giân. Thêm vào đó thêm lời xúi dục, dèm pha, của nhóm, Pharisieu, Saduc nên Herod đi tới quyết định ra lệnh bắt Gioan. Xuất phát tứ thành Jerusalem, dẫn đầu nhóm là hai Tư Tế, năm Pharisieu, sáu luật sĩ và một tiểu đội lính Roma yểm trợ. Sở dĩ có một đoàn khá đông như vậy mà còn cần tới lính Roma yềm trợ, vì Herod sợ dân nồi loạn. bởi ông Gioan có một số môn đệ và dân chúng theo ông khá đông. Họ tiến vế hướng Đông Bắc, gần hoang mạc Qumran nơi có tin báo Gioan đang rao giảng. Họ bắt Gioan quá dễ dàng khi ông đang giảng thuyết trong các làng xóm nhỏ dọc theo đường về thành Jericho. Quân lình Roma trói ông rồi dẫn về Machaerus, môt làng ở phía Bắc Biển Chết, cách hoàng Thành vua Herod mười lăm dặm và nhốt ông ở đó.
Vào ngày sinh nhật của Herod Antipas, Triều đình tổ chức một buổi tiệc linh đình để ăn mừng. Mọi người trong triều say sưa ăn uống. Để làm đẹp lòng vua, vị quan cận thần có sáng kiến cho Salome, con gái bà Herodias, gọi Herod Antipas bằng bác ra nhảy múa. Thấy Salome vừa đẹp, vừa nhảy múa quyến rũ, và cũng muốn làm đẹp lòng Herodias. Đứng giữa buổi tiệc Ông gọi Salome lại tuyên bố.
-Vì con quá đẹp và múa rất hay trước mặt ta và mọi người, vậy con xin thứ ta cũng ban cho. Ngay như con xin nửa giang sơn này ta cũng bằng lòng.
Salome ngỡ ngàng với lời hứa của Herod ông bác và cũng là cha ghẻ của mình. Không biết quyết định thế nào. Cô trở lại nơi mẹ ngồi, hỏi ý kiến. Herodias rất căm phẫn Gioan vì đã phạm thượng lên án việc vua Herod cưới bà. Từ bao lâu nay Bà muốn trừ khử con người này, nhưng chưa có cơ hôi. Một ý nghĩ táo bạo lóe lên trong đầu. Đây là cơ hôi ngàn vàng, nếu ta không lơi dụng lần này thì không còn cơ hội nào khác. Bà ghé vào tai con gái nói nhỏ điều gì đó. Salome gật đầu rồi tiến ra giữa bữa tiệc tiếp tục khởi động những điệu múa quyến rủ mê hồn tiến tới gần Herod quý xuống tâu với Herrod một điều gì đó.
Mọi người trong yến tiệc theo dõi Salome, cả gian phòng rơi vào sự im lặng gần như không có người. Sau đó họ nhìn Herod xem phản ứng của ông như thế nào. Ngôi yên lặng, chết trân, hai mắt đứng tròng. Herod không thể ngờ có một lời xin quá tóa bạo, tàn nhẫn, ghê gớm như vậy từ miệng một cô gái mười sáu tưổi ngay trong bữa tiệc Sinh nhật mình. Nhưng biết làm sao được, lời hứa của một vị vua trước mặt quần thần không thể thất hứa dù đó là lời thốt lên trong lúc bốc đồng, ngu dại. Qua một phút choáng váng bởi lời cầu xin của cô gái, ông định thần nghĩ lại. Với Gioan, mình vừa ghét vỉ đã bêu rếu và lên án cuộc hôn nhân loạn luân của mình, nhưng cũng vừa cảm mến kính phục bởi lòng đức độ, tâm hồn cao thượng, trong sạch của Gioan. Ông là tấm gương cao cả trước mặt mọi người và trước mặt Yahve của dân Israel. Việc bắt nhốt Gioan mấy hôm trước là một việc ngoài ý muốn. Bởi do lời của Herodia và nhóm luật sĩ. Nhưng đã lỡ rồi. Hơn nửa nếu giết Gioan cũng không phương hại gì tới ngai vàng của mình. Còn nếu để Gioan sống, ông cứ tiếp tục lên án và bêu rêu mình trước mặt bang dân thiên hạ,. Gọi người hầu tới, Ông nói nhỏ gì đó rồi ra lênh cho mọi người tiếp tục ăn uống vui chơi. Salome tiếp tục kiêu vũ cho Herod và mọi người thưởng thức. Khoảng gần tàn buổi tiệc, một người hầu, bưng vào một chiếc dĩa khá nặng, bên trên có đựng một phẩm vật phủ bằng mảnh lụa Đông Phương thật đẹp. Mọi người im lặng hồi hộp theo dõi từng cử động của người lình hầu. Đến trước mặt Salome đang ngồi bên mẹ. Hắn từ từ kéo tấm vải lụa lên. Trên chiếc dĩa lộ nguyên hình chiếc đầu người râu tóc bờm xờm. Đôi mắt khép kín.
Lòng dĩa đầy máu. Hắn nói.
-Thư công chúa đây là chiếc đầu của Gioan, người đã tự cho mình là tiêng kêu trong hoang mạc, làm phép rửa cho hàng ngàn người trên dòng Jordan. Đây là phần thưởng của vua ban theo lời xin của Công Chúa Hắn đặc chiếc dĩa xuống bàn, từ từ quay lui rồi biến mất sau cánh cửa lớn gỗ sồi nặng nề khép lại.
Ngày hôm sau, người dân trong thành, nhìn thấy chiếc xe lừa chở một chiếc quan tài lẳng lặng đi qua cổng Bắc thành Jerusalem. Người dân chỉ nghe phong phanh về cái chết của người nằm trong quan tài. Nhưng một số thầy Tư Tế, kinh sư và luật sĩ biết rất rõ về người này. Họ vui cười và nói với nhau: “ Từ nay, chúng ta không còn gai mắt nhìn thấy con người ăn mặc lôi thôi, râu tóc xồm xòam, làm phép rửa và tự cho mình là tiếng kêu trong hoang mạc nữa”. Chiếc xe lừa chở quan tài đi thẳng về hướng Bắc Judea rồi vào vùng thung lũng Samari. Họ đào huyệt chôn chiếc hòm dưới chân môt ngọn đồi hoang vắng cách thật xa kinh thành Sebaste nguy nga, tráng lệ. Nơi mà vua Herod xây để vinh danh Ceasar Augustus hoàng đế của La Mã .
Một buổi tiêc sinh nhật xa hoa của bạo chúa. Cũng là ngàychết của Đấng Tiên Tri cao trọng, là sứ giả đi trước để dọn đường cho ơn Cứu Độ bị chặt đầu. Cả hai đều đã chết. Môt cái chết cuả một ông Vua xa hoa, sang trọng đã chìm mất trong quên lãng và mãi mãi bi kinh miệt. Nhưng lời kêu gọi của một đấng Đại Tiên Tri nơ hoang mạc của Gioan hơn hai ngàn năm trước, cho tới hôm nay vẫn tiếp tiếp tục vang vọng tới mọi chân trời góc biển và sẽ còn vang vọng mải mãi trong lòng người cho tới muôn đời sau.
California Dec, 20, 2014