Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam. Bài 6: Dấu ngoặc về hai Bà Trưng

Nguồn gốc của hai Bà Trưng cũng cần được nghiên cứu lại, vì trong thời kỳ này đất Giao Chỉ chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Sau gần hai thế kỷ bị đô hộ (từ -111 đến +42) chế độ mẫu hệ của người Lạc Việt bị chế độ phụ hệ do người Hán mang tới lấn át, mất dần ảnh hưởng rồi biến mất trong xã hội thượng lưu và giới quí tộc. Người phụ nữ bản địa tuy mất đi vai trò lãnh đạo xã hội, nhường chỗ cho phái nam, nhưng uy quyền của họ vẫn được tôn trọng trong giới dân gian (gia tộc và gia đình).

Trong thời Bắc thuộc, nhà Đông Hán muốn xóa bỏ nền văn hóa Đông Sơn của các nhóm Lạc Việt để chỉ còn văn hóa Trung Hoa, các quan cai trị đã thay thế chế độ mẫu hệ bằng chế độ phụ hệ, khuyên khích định cư, cải đổi lối ăn mặc và canh tác nông nghiệp. Chế độ mẫu hệ của các dòng Lạc hầu, Lạc tướng bị xóa bỏ dần theo từng chính sách cai trị của các quan thái thú từ Bắc triều gởi xuống. Có lẽ phần lớn các nhóm Lạc Việt sinh sống trên lưu vực sông Hồng chấp nhận sự cai trị của người Hán, chỉ một số ít còn lại từ chối sự hội nhập này đã rút lên miền núi sinh sống và trở thành những nhóm người Mường ngày nay (gia đình hai Bà Trưng có lẽ là một trong những nhóm này), hay chạy xuống phía nam kết hợp với các nhóm Nam Đảo, vẫn còn mang nặng yếu tố mẫu hệ.

Sử sách Trung Hoa nói rằng hai Bà Trưng, thuộc dòng "man di", là chị em sinh đôi, quê tại xã Cổ Lai, huyện Châu Diên, quận Phong Châu (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên ngày nay). Trưng Trắc lấy chồng là Thi Sách, người huyện Châu Diên (Vĩnh Yên) và định cư tại quê chồng. Sử sách Việt Nam cho rằng hai Bà thuộc dòng Lạc hầu, Lạc tướng (văn hóa Đông Sơn), quê ở huyện Mê Linh (ngoại thành Hà Nội), từ Ba Vì đến Tam Đảo, đất bản bộ cũ của các vua Hùng, sinh sống bằng nghề nuôi tằm, do đó mới có tên Trứng Chắc (kén dầy) và Trứng Nhị (kén mỏng), sau này đọc trại thành Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Thi Sách là một quan lại bản địa thuộc dòng Lạc tướng, hợp tác với quan quân nhà Hán cai trị Châu Diên. Sau khi cưới Trưng Trắc, có thể đã bị ảnh hưởng bởi ý chí độc lập của gia tộc bên vợ, đã chống lại sự cai trị của quan quân nhà Hán. Trong giai đoạn này, có lẽ yếu tố mẫu hệ còn mạnh nên Thi Sách đã không được sự hưởng ứng mạnh mẽ của dân chúng địa phương nên thất bại. Khi Thi Sách bị sát hại, Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi lên chống lại quân Hán thì không những đã được dân chúng Giao Chỉ ủng hộ mà cả dân chúng phía nam (Cửu Chân, Nhật Nam, đặc biệt là huyện Tượng Lâm) hưởng ứng và tôn lên làm lãnh tụ. Yếu tố mẫu hệ nổi bật trong đạo quân kháng chiến, trong năm tộc lớn thời đó hai Bà đã kén chọn được 62 vị tướng, trong đó hơn phân nửa (32 người) là phụ nữ như Thánh Thiên công chúa, Man Thiện, Diệu Tiên, bà Lê Chân, Bát Nàn, Hoàng Thiều Hoa, Đào Kỳ, Xuân Nương, Liễu Giáp, Việt Huy, Ả Di, Ả Lã, Ả Tắc, Nàng Đê, v.v... và 21 tì tướng, trong đó gần phân nửa là phụ nữ.

Cũng nên biết chữ "ả, nương, nàng, đào, liễu" là những từ Hán để chỉ người phái nữ. Yếu tố Phật giáo cũng nổi bật trong cách đặt tên người : Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn là những pháp danh Phật giáo. Yếu tố vương quyền cũng bắt đầu xuất hiện với những tước vị như người Hán : công chúa Thánh Thiên được phong binh hàm Bình Tây đại nguyên soái, bà Lê Chân giữ chức Tiên Phong nữ tướng quân... Nhưng sự kiện nổi bật nhất là đạo binh của hai Bà Trưng đã biết dùng voi xung trận, một loại quân dụng hoàn toàn xa lạ với người Hán. Đây là bằng chứng cho thấy sự hợp tác giữa các nhóm dân cư sông Hồng và dân cư phía bắc miền Trung rất là mật thiết, vì thuần phục voi là nghề của những người miền núi phía tây-nam Bắc phần.