ĐỜI THƯỜNG - CHỨNG NHÂN GIỮA GIÒNG ĐỜI

VI.- SƯ HUYNH JEAN-PAUL DESBIENS
    Sư huynh Jean-Paul Desbiens sinh năm 1927 ở Métabetchouan, Lac-Saint-Jean, tỉnh bang Québec, Canada. Thầy gia nhập cộng đoàn các Sư Huynh Maristes năm 1941. Thầy bị lao phổi năm 1946 và bắt buộc nghỉ ngơi trong sáu năm. Thầy đã lợi dụng cơ hội nầy để theo đuổi việc học. Thầy đã lấy văn bằng cử nhân triết học ở Đại Học Laval và vào năm 1964, văn bằng tiến sĩ triết học ở Roma và Fribourg.

    Kế đó thầy giảng dạy trong ba năm. Tiếp theo thầy làm công chức ở Bộ Giáo Dục tỉnh bang Québec, Canada (1964-1970). Rồi thầy trở thành nhà bình luận chính của nhật báo La Presse từ 1970 đến 1972. Kế đó thầy được bổ nhiệm làm tổng giám đốc khu học xá Notre-Dame-de-Foy (1972-1978; 1986-1990). Thầy đã giữ chức vụ bề trên giám tỉnh cộng đoàn Sư Huynh Maristes từ 1978-1983.

    Sư huynh Jean-Paul Desbiens đã viết hằng trăm bài bình luận đăng trên các nhật báo, hay tạp chí và đã thuyết trình rất nhiều về các vấn đề giáo dục, chính trị, tôn giáo. Thầy cũng đã xuất bản một số sách mà nổi tiếng nhất là tập Nhật Ký của thầy. Thầy đã được trao tặng hai văn bằng tiến sĩ danh dự vào những năm 1983 và 1987.
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Một tiểu truyện Do-Thái kể rằng một đám trẻ chơi cút bắt. Bất chợt, một đứa trong bọn chúng đến gặp ông nội, vừa khóc vừa nói: “Con chơi cút bắt mà không ai kiếm bắt con hết.” Và ông nội là một rabbin (giáo trưởng Do-Thái giáo) cũng òa khóc luôn.

TÔI TIN

Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông Đồ (đoạn 3, câu 15-16), ngài đã viết: “Hãy luôn luôn trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng.”

Thánh Phêrô đã viết Thánh Thư nầy vào khoảng năm 62-64. Ngài đã ngỏ lời với những Kitô hữu gốc lương dân xuất thân từ giới bình dân. Thánh Phêrô van xin những tín hữu phải luôn luôn sẵn sàng nói lên niềm hy vọng của mình. Chắc chắn Thánh nhân không chỉ đòi buộc họ phải biện hộ, tranh cãi hay chứng minh một cách hoàn toàn trí thức. Còn hơn thế nữa, họ phải đương đầu với một sự thù nghịch ngày càng lớn mạnh và có tích cách bao quát. Họ phải sẵn sàng chấp nhận cái chết để minh chứng cho Đức Tin của mình.

Nhưng tôi tin gì? Ngày nay, cũng như nhiều người khác, tôi tin sự sống đã xuất hiện trên quả địa cầu nầy từ hằng chục triệu năm rồi. Cũng như ngôi sao ở gần chúng ta nhất cũng phải cách xa 40,6 tỷ tỷ cây số. Nhưng trước hết tôi tin rằng tôi là con trai của cha mẹ tôi.

Về điểm nầy, Thánh Augustinô đã viết trong quyển “Tự Thuật” (Confessions) của ngài như sau:

Có vô vàn vô số sự việc tôi tin mà không thấy, và tôi cũng không có mặt lúc bấy giờ khi sự việc xảy ra! Biết bao lịch sử các dân tộc, các miền đất nước, những kinh thành mà tôi chưa bao giờ xem thấy. Biết bao điều tôi nghe kể lại từ bạn bè, giới trí thức và người nầy người khác! Trong những trường hợp như thế, người ta chỉ tin thôi và không thể làm gì khác hơn được ở trong cuộc sống nầy.

Cuối cùng, điều làm tôi nhớ lại và đã trở thành niềm tin chắc chắn bám thành rễ sâu trong tâm hồn tôi là tôi đã sinh ra từ cha mẹ nào và làm sao biết được, ngoại trừ việc tôi tin vào những gì nghe người khác nói?”


Tuy nhiên Đức Tin siêu nhiên không phải là một kiến thức theo cảm quan của một y sĩ, một khoa học gia, một nhà thần học hay một sử gia. Đức Tin cũng không phải là một chứng cớ hiển nhiên. Chứng cớ hiển nhiên đánh mất hết hiệu lực của mọi niềm tin, kể cả Đức Tin siêu nhiên. Đức tin cũng không phải là một tình cảm. Đức Tin là một điều xác quyết.

Đề cập tới điều xác quyết về Đức Tin, tôi muốn trình bày một “cách hiền hòa và với sự kính trọng” như Thánh Phêrô đã khuyến khích. Tôi xin nói ngay rằng tôi không bao giờ trải qua những cơn khủng hoảng Đức Tin mà nhiều nhân vật thời danh đã nếm thử và ngay cả các Thánh nữa, như Thánh Têrêxa thành Lisieux là một trường hợp.

Khi đề cập tới khủng hoảng Đức Tin, tôi muốn nói tới những thời gian dài ngắn khác nhau khi người ta ngụp lặn trong hành trình Đức Tin, trải qua một đêm dài “vắng trăng sao”. Tôi cũng không bao giờ cảm nghiệm những thời gian gián đoạn thường được nhắc tới trong việc “thực hành đạo giáo”.

Trái lại, tôi cũng không bao giờ chứng nghiệm những phút giây bừng sáng như tiếng sét đánh có tính cách quyết định, như Thánh Phao-lồ đã thuật lại trên hành trình đến thành Damas và rất gần đây trong thời đại chúng ta, như Paul Claudel, Charles Du Bos, André Frossard và biết bao vị nữa. Tôi cũng không nhớ đã có những giây phút hứng khởi về đạo giáo hay không. Và nếu có đi nữa, tôi cũng chỉ đồng hóa với những giây phút xúc động nhất thời mà thôi.

Tuy nhiên tôi thiết nghĩ Đức Tin của tôi đã triển nở, đang được sáng tỏ bây giờ hơn trước kia, như khi tôi còn tấm bé, hay khi dấn thấn vào con đường tu trì từ bốn thập niên qua. Chẳng hạn, vào lúc tôi mười bốn hay mười lăm tuổi, tôi đã đọc được câu nầy của Voltaire: “Vũ trụ ôm ấp lấy tôi và rồi tôi suy tư về chiếc đồng hồ vĩ đại đó đang hiện hữu mà không cần một ông thợ đồng hồ.”

NIỀM TIN TRONG CUỘC ĐỜI THƯỜNG

Tôi đang trình bày Đức Tin của tôi và trình bày việc tôi tin ai và tin như thế nào. Trước hết, điều quan trọng tôi phải nói về “cái tôi” của tôi, vì điều đó gắn liền với hành trình Đức Tin của tôi.

Như tôi đã trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô trên đây, tôi luôn tin tưởng rằng tôi là con trai của cha mẹ tôi. Tôi cũng luôn tin tưởng là tôi đã sinh ra ngày bảy tháng ba năm 1927. Làm sao mà biết chắc chắn được? Và tôi cũng biết chính xác ngày bảy tháng ba năm 1927 vào thời kỳ đó là ngày thứ hai. Những cuốn lịch phổ thông đã quả quyết như thế.

Sự xác quyết đó dựa vào cuốn lịch Kitô giáo do Denys le Petit biên soạn vào năm 500, được tu chính vào năm 1582 bởi Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII. Tuy nhiên ngày nay người ta biết rằng Chúa Giêsu sinh ra giữa năm thứ 7 và năm thứ 4 trước công nguyên, chứ không phải vào năm thứ 1 đâu. Như vậy không lấy gì làm chắc chắn là ngày tôi sinh ra là ngày thứ hai. Tuy nhiên điều đó không quan trọng lắm.

Tôi được rửa tội chính vào ngày tôi sinh ra. Giấy rửa tội đã chứng nhận điều đó. Tôi muốn đề cập đến hai chữ “chứng nhận”, bởi vì cuối cùng vào ngày giờ đó, tôi chưa biết ghi chép gì hết. Tất nhiên có người làm chứng và họ đã ký vào giấy tờ. Vả lại, tôi không có lý do để nghĩ rằng họ có lợi lộc gì để giả mạo biến cố tôi sinh ra đời. Rốt cục, việc sinh ra đời của tôi có chứng từ đầy đủ hơn trường hợp triết gia Socrate, đại đế César và còn hơn cả sinh nhật của Chúa Giêsu nữa. Khởi điểm từ đó cũng là một khởi điểm của niềm tin.

Khi chu toàn nhiệm vụ bề trên giám tỉnh, tôi phải điều chỉnh chứng từ khai sinh của một tu huynh sáu mươi tuổi đời vào thời kỳ đó. Thầy sinh đẻ một tháng trước khi nhận lãnh bí tích rửa tội nhưng cộng đoàn luôn nhấn mạnh ngày sinh của thầy vào một tháng sau đó. Rồi thì có những tu huynh đã thổ lộ với tôi là thật khó khăn cho họ để truy tầm tên gọi đích thực của cha mẹ họ sau nhiều năm sống trong niềm tin chắc chắn là họ đã có được một tên gọi chính xác của cha mẹ họ. Điều đó cũng do lòng tin mà ra.

Tôi phải nói dài dòng như thế chỉ vì muốn nhấn mạnh rằng ngoài mọi dính dấp đến niềm tin tôn giáo, chúng ta cũng phải tin nhiều điều trong cuộc đời thường. Thiên Chúa mà người ta đặt để niềm tin chỉ nằm trong một danh sách dài thật dài liên hệ đến những điều người ta tin tưởng như những sự vật, sự kiện, biến cố, những chân lý hay những loại thông tin khác nhau! Chẳng hạn người ta tin tưởng brocoli rất tốt cho sức khỏe, margarine thì ít nguy hại hơn bơ… Và thật hiển nhiên để tin rằng tổng số những góc trong của một tam giác thì bằng hai góc vuông và 2 cọng với 2 là 4.

ĐỨC TIN CÔNG GIÁO

Tuy nhiên Đức Tin Công giáo là một quà tặng, một ân sủng của Chúa. Trong Giáo Hội Công giáo, phép rửa tội là bí tích dẫn nhập để đi vào hành trình Đức Tin. Nhưng thật ra, qua lịch sử, chúng ta nhận thấy Đức Tin sống động trong lòng con người trước khi nhận lãnh bí tích rửa tội. Người ta có thể dẫn chứng ở đây đoạn văn nổi tiếng của Thánh Phao-lồ Tông Đồ gởi cho tín hữu Do-Thái mà trong đó ngài đề cập tới Đức Tin của Enoch, Noé, Abraham. Không ai trong họ đã nhận lãnh bí tích thánh tẩy Công giáo hết.

Thầy đội La-Mã và người đàn bà xứ Cana cũng không nhận lãnh bí tích rửa tội hay được Thánh Gioan tiền hô tẩy rửa. Nhưng Chúa Giêsu đã rất ngạc nhiên về Đức Tin của họ. Và Đức Mẹ Maria được công bố là có phúc, trước hết không phải vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, mà vì Mẹ đã tin.

Sự truyền đạt Đức Tin Công giáo dựa trên ba cột trụ kể theo thứ tự là Thánh Truyền, Thánh Kinh và Quyền Tuyên Huấn. Luật tối thượng của Đức Tin đến từ sự kết hợp do Thánh Linh đã thực hiện giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh và Quyền Tuyên Huấn của Giáo Hội, trong một sự hỗ tương chặt chẽ cho đến nỗi cả ba cột trụ đó không thể đứng vững một cách riêng rẽ được.

Tuy nhiên Đức Tin phải được “tuyên xưng“như Thánh Phaolồ Tông Đồ đã nói: “Ay vậy, có Đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô.”(Rm 10, 17). Theo ý nghĩa đó, Đức Tin đến từ cha mẹ, từ việc giảng dạy của Giáo Hội, các thầy giáo, những người có trách nhiệm trong giáo xứ. Đức Tin cũng đến từ những sách viết về Đức Tin. Người ta phải nuôi dưỡng và bảo tồn những gì nhận được từ cha mẹ, từ học đường và những lời giảng dạy. Người ta cũng phải nuôi dưỡng và bảo trì Đức Tin bằng chính việc đọc sách cũng như những suy tư của mình.

Việc công bố hay tuyên xưng Đức Tin là món ăn thứ nhất để nuôi dưỡng Đức Tin. Bảo là món ăn thứ nhất vì sự công bố Đức Tin không thể nào tách rời khỏi việc “cầu nguyện”. Đọc kinh “Tin Kính” là một cách vừa công bố Đức Tin vừa cầu nguyện. Câu chuyện cảm động kể lại trong Phúc Am Thánh Mác-cô, khi một người cha khẩn khoản xin Chúa Giêsu chửa cho đứa con bị quỷ ám: “’Nhưng nếu Thầy có làm được gì thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi’. Đức Chúa Giêsu nói với ông ta: ‘Sao lại nói: Nếu Thầy có thể. Mọi sự đều có thể đối với người tin’. Lập tức cha đứa bé kêu lên: ‘Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!’” (Mc 9, 22-24)

Ngày kia các môn đệ Chúa Giêsu xin Ngài: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.” (Lc 11,1). Người ta biết được những lời tiếp theo: “Hãy đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha”. Ngoài ra Thánh Phaolồ cũng nhận xét: “Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.”(Rm 8,26).

NHỮNG NGÀY THƠ ẤU

Giờ đây tôi ngược giòng thời gian, trở về với quá khứ. Hoài niệm đầu tiên về “đạo giáo” lùi lại lúc tôi bốn năm tuổi. Dĩ nhiên lúc bấy giờ tôi đi đâu, mẹ tôi cũng không thể ẳm tôi trong tay được. Lúc đó trời mùa đông. Mẹ tôi đi nhà thờ. Trong tuần, người ta không đốt sưởi trong phòng thánh. Vì tò mò, tôi chạy vào đó. Dưới bàn thờ, tượng Chúa Giêsu nằm dài ra theo tầm cỡ một người thật. Điều đó gây ngạc nhiên cho tôi rất nhiều. Khi trở về nhà, tôi hỏi mẹ tôi người đàn ông có râu nằm dưới bàn thờ, sau khung kiếng, là ai vậy. Mẹ tôi trả lời đó là Chúa Giêsu, chết vì tọi lỗi chúng ta. Rồi tôi không hỏi thêm nữa, vả lại tôi cũng không còn thắc mắc gì.

Cũng vào những năm đó, lại một lần khác, tôi đã theo mẹ tôi Đi Đàng Thánh Giá ở trong nhà thờ. Mẹ tôi cho biết nếu ai khóc lóc trước chặng thứ sáu - chặng nói về việc bà Thánh Vê-rô-ni-ca lau mặt Chúa - thì mọi tôi lỗi đều được tha thứ. Điều xác quyết đó về sau nầy tôi nhận thấy không có cơ sở luận cứ vững chắc. Nhưng lúc bấy giờ tôi tin lời mẹ tôi nói. Cũng vào thời kỳ đó tôi chưa có chút ý niệm thế nào là tội lỗi. Tuy nhiên, tôi đã sinh ra hoàn toàn trong tội lỗi như lời Thánh Vịnh 50 (câu 7):
    Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,

    Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai
    .”
Một tu huynh còn ranh mãnh hơn tôi, ngày kia đã đối kháng như sau: “Làm sao mà tôi có tội trước khi sinh ra?” Tôi không biết trả lời làm sao. Người ta đã có câu trả lời do Freud va Drewermann. Bạn có biết câu trả lời ra sao không? Guitton đã nói: “Người ta gọi điều đó là sự bất an hiện sinh. Đúng hơn, các triêt gia thời Cổ gọi đó là sự bất an có tính cách bản thể học.”

Cũng trong những năm đó, một người bán lịch tới nhà tôi. Tôi thấy mẹ tôi lật qua lật lại những tờ lịch hằng tháng và cuối cùng mẹ tôi “đặt mua” một cuốn. Một tấm hình trong tháng trình bày Chúa Giêsu mang một con chiên trên vai. Tôi biết rõ những con chiên. Nhưng mẹ tôi không phải là một người đàn bà mộ đạo, tuy mẹ tôi là một người có Đức Tin vững mạnh. Mẹ tôi không bao giờ muốn tham gia hội Những Bà Mẹ Thánh An-na, qui tụ những bà mẹ Công giáo. Có lần mẹ tôi chỉ trích công khai trước mặt chúng tôi về những bài giảng của cha chánh xứ.

Ngày kia qua cửa sổ nhìn ra ngoài, mẹ tôi thấy cha xứ đi thăm viếng chị Annette Garneau đang hấp hối vì bệnh ho lao. Chị đó thỉnh thoảng cũng coi chừng chúng tôi trong những dịp hiếm hoi khi mẹ tôi đi vắng. Trước tiên cha xứ dừng chân nơi những người lối xóm của chị Garneau. Thấy vậy, mẹ tôi đã có một nhận xét chua chát là chị Annette cần được thăm viếng nhiều hơn. Do đó tôi nói phụ họa theo: “Cha xứ thật đáng ghét!” Mẹ tôi liền quở mắng tôi thật nặng lời: “Con không được quyền nói như vậy. Con phải đi xưng tội đi.” Và tôi đã đi xưng tội một tháng sau đó, cũng với cha chánh xứ đó.

Trái lại cha tôi thì đạo đức sốt sắng hơn. Trong thời gian đó, cha tôi làm việc cho một trại chủ ở trong làng. Cha tôi chỉ rảnh được vài giờ Chúa nhật để đáp chuyến xe lửa ban sáng hầu đi xem lễ lớn và đi chuyến tàu chiều để trở về nhà. Vả lại, vào mỗi buổi trưa, cha tôi thường Đi Đàng Thánh Giá ở trong nhà thờ. Đôi khi tôi theo cha tôi, nhưng hoàn toàn không bị bắt buộc.

Dạo nọ vào mùa đông, tôi ngồi bên cạnh một đống rơm rạ, tôi thấy cha tôi khi đi ngang qua nhà thờ và đã ngả nón ra chào. Tôi hỏi tại sao thì cha tôi đáp: “Phải kính chào Chúa.” Tôi không hỏi thêm nữa. Tôi tin chắc tôi chỉ hiểu lờ mờ thôi. Nhưng phải ghi nhận điều nầy là cha tôi không đòi buộc tôi làm như thế. Cha tôi là người ít nói.

Trong mùa chay - ngoài việc phải làm nhiều giờ trong xưởng suốt mùa đông - cha tôi còn canh chừng số lượng thực phẩm được phép hưởng dụng. Đó là điều mà ai cũng biết vì có ghi chép rõ ràng trong sách giáo lý. Sau đó khá lâu - ngay cả trước Công Đồng Vatican II - ngày kia tôi nói với cha tôi là từ đây được phép uống nước lạnh trước khi rước lễ. Cha tôi trả lời: “Chả bao giờ! Ba không muốn Chúa bị chết đuối đâu.”

Khỏi phải nói, đọc kinh trong gia đình là việc bắt buộc. Trong mùa đông, điều đó không rầy rà tôi. Nhưng mùa hè thì khác. Nếu cha tôi đi vắng, tôi có thể dàn xếp với mẹ tôi để châm chước. Nhưng nếu cha tôi ở nhà, không thể nào làm khác được. Khoảng chín giờ tối, tôi phải trở vào nhà. Và hơn thế nữa, phải đứng thẳng lên, quì gối xuống, trước cái ghế ngồi được đặt sẵn. Lần hạt xong, còn đọc kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giêsu, những kinh Tin, Cậy, Mến và kinh An Năn Tội. Ngoài ra còn thêm kinh kính Thánh Giuse để xin ơn “chết lành”.

Chúa biết rõ là tôi không bông đùa chút nào khi kể lại những kỷ niệm đó. Tôi gợi lại những kỷ niệm đó với những tâm tình tríu mến. Triết gia Alain đã nói:

Khi người ta chê cười sự mê tín của người đàn bà nhà quê ở vùng Bretagne nước Pháp, với tràng hạt trên tay, thì người ta không biết là có thể bà đó đang tìm kiếm - theo cách thức của bà hơn là theo cung cách của chúng ta - để liên kết chặt chẽ với sự thiết yếu muôn đời như Spinoza và Marc-Aurèle. Và nếu người ta giản lược tôn giáo của bà vào những hạt chuỗi bằng gỗ thì họ còn ngoại đạo hơn bà ta nữa.”

Tôi nhớ rất rõ ngôi trường các nữ tu mà tôi đã theo học hai năm tiểu học trong một lớp học do một giáo dân điều khiển. Lúc lên bảy tuổi, tôi theo học bậc trung học tại trường dòng các Sư Huynh. Và thầy dạy của tôi là một tu huynh trẻ tuổi cùng một nữ giáo viên. Học hỏi về tôn giáo không thiếu: kinh nguyện, sách phần. Tôi luôn vô địch vì có trí nhớ tốt.

Mỗi sáng Chúa nhật, hết mọi học sinh phải có mặt tại trường các Sư Huynh. Người nầy ở trong ca đoàn, kẻ khác giúp lễ. Tôi được ở trong ban giúp lễ. Tôi thuộc lòng các câu đối đáp. Và tôi đã giúp nhiều lễ càng tốt. Mỗi lễ tôi giúp mang lại cho tôi 5 xu hay 10 xu, tùy theo Thánh lễ. Nên nhớ là vào thời kỳ đó, cha tôi làm lụng chỉ được 10 xu một giờ mà thôi. Tôi có thể thuật lại đây cả ngàn giai thoại, nhưng đó không phải là chủ yếu của tôi. Tôi chỉ muốn thuật lại hành trình Đức Tin của tôi mà thôi.

(CÒN TIẾP)