TỈNH THỨC ÐỂ ĐÓN NHẬN HỒNG ÂN

(Bài thuyết trình của Đức Cha Giuse Ngơ Quang Kiệt, Los Angeles 20.02.2005)


NHỮNG HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

Dẫn Nhập

TGM Giuse Kiệt
Thất bại, mệt mỏi vì bị Zesabel săn lùng. Tuyệt vọng vì thân cô thế cô, chẳng còn ai bênh đỡ, chia sẻ. Không còn ai trung tín với Thiến Chúa, Êlia vào sa mạc và gặp Thiên Chúa. Chúa hỏi : “Êlia, ngươi làm gì ở đây ?” Ông thưa : “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con”. Đức Chúa phán với ông : “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước khi qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Khadaen làm vua Aram. Còn Giêhu con của Nimsi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Israel. Êlisa con ông Saphát, người Avên Mơkhôla, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi. Kẻ thoát gươm của Khadaen sẽ bị Giêhu giết; người thoát tay Giêhu sẽ bị Êlisa giết. Nhưng Ta, Ta đã dành ra cho Ta bảy nghìn người trong Israel : tất cả những kẻ đã không chịu bái gối trước Ba-an, những môi miệng không hề hôn kính nó” (1 V 19, 13-18).

Thật là bất ngờ. Êlia đang tuyệt vọng. Chúa đã thổi vào hồn ông niềm hy vọng mới. Ông đang buồn nản vì nghĩ rằng chẳng còn ai thờ phượng Chúa. Bất ngờ Chúa cho ông thấy còn cả một đoàn người còn trung thành với Chúa. Ông tưởng ông đơn thân độc mã bảo vệ đạo Chúa. Chúa đã cho ông thấy khắp nơi vẫn còn những người cộng tác với ông, tiếp tục công việc của ông. Ông chợt hiểu : Đây là công việc của Chúa. Chính Chúa lo liệu sắp xếp mọi sự. Ông chỉ là dụng cụ trong tay của Chúa. Ông hiểu rằng dù ông có sức mạnh phi thường, uy tín lớn lao, thần khí dũng mãnh ông cũng chẳng làm được gì. Ông hiểu rằng mọi thành công là bởi Chúa, mọi sức mạnh đều phát xuất từ Chúa. Nên ông an tâm xuống núi. Từ nay ông càng thêm tin tưởng, càng thêm nhẹ nhàng thi hành sứ vụ vì biết rằng mình làm công việc của Chúa, chính Chúa thực hiện và đưa đến thành công. Chính Chúa làm từ không ra có. Chính Chúa biến thất vọng thành hy vọng. Chính Chúa soi sáng lòng người. Akháp vô đạo sẽ nhường chỗ cho Giêhu tin kính thờ phượng Chúa. Êlia về trời sẽ có Êlisa nối nghiệp. Dân Israel bỏ Chúa sẽ qua đi nhưng 7000 người mới sẽ xuất hiện làm thành một dân mới trung thành thờ phượng Chúa.

Khi tơi về Lạng sơn, thấy những nơi đông đúc còn giáo dân sinh hoạt. Còn lại các điểm xa thì thấy xơ xác tiêu điều. Đi phớt qua chẳng thấy nhà nào có ảnh tượng. Chẳng có ai ở các xứ cũ để thăm hỏi, xin chịu bí tích hay xin ảnh, chuỗi. Tuy nhiên tơi vẫn quyết định đi thăm lại các điểm xưa có nhà thờ.

ÔNG MUỘN

Đường Lạng sơn Cao bằng rất xa xôi và khó khăn. Thời gian đầu chỉ có một mình nên phải sắp xếp nhiều lần mới đi vào làng bản được.

Vùng mỏ thiếc Tĩnh Túc xưa có nhà thờ. Nhưng đường đi rất khó. Hỏi thăm có người bảo đi được, có người bảo không được. Mùa chay năm 2000 con quyết tâm đi. Đường quả thật khó khăn. Xe ủi mới ủi đất lên để làm đường, gặp mấy trận mưa to nhão như cháo. Xe con cố gắng bò đi nhưng không nổi. Bị sa lầy phải nhờ một chiếc xe tải kéo đi. Không có đường lùi nên phải kéo tới. Qua khỏi chỗ lầy là không thể quay lại được nữa. Xe tiếp tục đi, đường vẫn lầy lội. Những quãng vắng mà xe bị lầy, phải bẻ cây, nhổ cỏ, nhặt đá lót đường rồi xúm vào vừa kéo vừa đẩy. Bánh xe quay tít làm bùn vung lên tung toé. Quần áo mặt mày lấm lem. Nhưng xe đi được thì mừng. Đoạn đường 50 cây số mà phải đẩy 5 lần. Mãi đến 2 giờ chiều mới đến nơi. Chân không, lấm bùn bê bết. Quần xắn đến đầu gối như người đi cày. Áo may ô toàn một màu bùn. Nhưng không còn cách nào khác. Chẳng tìm đâu ra nước mà rửa. Đành cứ để như thế mà vào nhà dân.

Thật may, tìm được nhà có đạo. Ông cụ đã 80 tuổi và đã liệt nửa người từ 10 năm nay. Ông yếu lắm. Từ 50 năm nay ông không được gặp Linh mục. Ông cũng không có liên lạc gì với Toà giám mục vì xa xôi và quá khó khăn. Liệt giường và đã hơi lẫn. Nhưng khi nghe có Linh mục tới ông ôm chầm lấy và khóc như mưa. Ông đã cầu nguyện đêm ngày để có ngày này. Ông thương cụ bà ra đi mà chẳng được chịu các phép và chẳng có ai tới đọc kinh đọc sách. Ông dọn mình xưng tội và chịu xức dầu rất sốt sắng. Linh mục đi chân không, quần xắn tới đầu gối, áo may ô lấm bê bết. Đoàn tuỳ tùng tham dự cũng lấm lem và mệt mỏi. Nhưng nghi lễ thật nghiêm trang sốt sắng. Dòng nước mắt ông cụ chảy như mưa tuôn. Nhưng khuôn mặt ông rạng rỡ vui tươi. Dòng nước mắt ông làm cho lũ người lấm lem chung quanh giường cảm thấy mình sạch sẽ thơm tho hơn bao giờ hết. Nụ cười méo nửa miệng của ông xua tan hết mọi mệt nhọc vất vả của đoạn đường đi khó khăn. Những lời kinh trệu trạo ông đọc làm chúng tôi quên cả cái đói cồn cào vì nh? bữa trưa.

ÔNG KÝ

Bó Tờ là một xứ toàn tòng người Nùng, cách thị xã Cao bằng 70 km, gần sát cửa khẩu Tà lùng. Mỗi tháng tơi tới thăm và dâng lễ cho giáo dân một lần. Sau một năm, dân xứ cho biết có ông Ký ở sâu trong bản làng muốn đi lễ. Nhưng vì xa xôi, không có thông tin, và ngày lễ cũng không định trước nên mấy lần ông ra đều không gặp. Tơi quyết định tới thăm ông.

Đường vào nhà ông Ký rất xấu. Xe thường không đi được. Chỉ có máy cày loại bánh to mới đi được. Chúng tơi thuê một chiếc máy cày có rơ moóc. Tơi và ông trùm ngồi đàng trước, mấy thanh niên thiếu nữ ngồi trong thùng xe phía sau. Đường đi gập ghềnh chẳng khác bờ ruộng, lại có những tảng đá ngổn ngang. Chiếc máy cày lồng lên lồng xuống. Những thanh niên lăn như khoai trong thùng xe. Tới nhà gia đình ông Ký, mọi người đều mừng rỡ. Mừng là phải vì đã 60 năm nay ông chưa gặp Linh mục.

Gia đình ông Ký ngoại đạo. Mẹ sinh được mấy người con đều chết sớm. Chỉ còn mình ông Ký. Có người mách đem cậu Ký ra ngoài Bó Tờ theo đạo thì Chúa sẽ cứu. Bà mẹ vội vàng cõng cậu Ký lúc ấy đã 8 tuổi ra Bó Tờ xin chịu đạo. Rửa tội rồi, bà lại đem cậu trở về làng. Vì loạn lạc nên chẳng còn Linh mục ở đó nữa. Quả thật, nhờ ơn Chúa, cậu Ký khoẻ mạnh, vui vẻ học hành và lớn mau như thổi. Lạ lùng nhất phải kể là ơn đức tin Chúa ban cho cậu. Chỉ rửa tội rồi trở về làng. Không được học giáo lý, không được dự thánh lễ. Chỉ có vài quyển kinh cha xứ tặng cho. Thế nhưng đức tin của cậu rất vững vàng.

Tới tuổi trưởng thành ông cương quyết giữ đạo nên làm một bàn thờ. Người chống đối đầu tiên là bà mẹ ông. Mẹ nghĩ rằng cho rửa tội để cứu mạng thôi. Về làng phải sống theo dân làng chứ. Nhưng ông trả lời : Đã tin Chúa thì tin cho thật. Đã vào đạo thì phải giữ đạo. Nếu mẹ không bằng lòng con sẽ ở riêng để làm bàn thờ, vì con đã tin Chúa. Sau cùng bà mẹ đồng ý. Thời ấy chẳng có ảnh tượng, ông chỉ lấy than viết lên bức vách : Tôi tin Thiên Chúa Ba Ngôi. Dưới bàn để cây nến. Cả xã không ai có đạo nên mọi người chế giễu ông. Họ nói : “Bàn thờ nhà mày chẳng có bát hương, chẳng có tổ tiên, giống như bàn bán thịt lợn vậy”.

Dân làng tẩy chay ông. Họ không mời ông tham gia việc chung. Có cỗ bàn, đám ma, đám cưới họ không mời ông. Nhưng ông vẫn đến nhiệt thành đóng góp vào việc chung. Họ bảo ông : “Tưởng mày theo đạo thì bỏ chúng tao”. Ông đáp : “Đạo là việc riêng tư. Tôi vẫn là người làng nên bổn phận với làng nước tôi không bỏ”. Thái độ hiền hoà, tình nghĩa của ông được mọi người mến mộ. Rồi ông được bầu làm thư ký của xã.

Không chỉ đấu tranh với dân làng, ông còn phải đấu tranh với ma quỉ nữa. Nhiều lần ông nằm mơ thấy ma quỉ đoàn lũ vây bọc tấn công ông. Chống trả mệt nhoài không nổi, ông phải cố vùng dậy làm dấu thánh giá thì ma quỉ mới chịu tháo lui.

Ông dạy cho con cháu biết đức tin, biết đạo và biết kinh sách. Ông thường nói với con cháu : “Mình đã tin thì phải tin cho thật. Tin cho đến suốt đời. Đời cha truyền sang đời con. Đời con truyền sang đời cháu, cho đức tin vững bền mãi mãi. Ông cảm nhận được tình thương của Chúa cứu vớt ông. Gia đình ông cả bên nội bên ngoại không ai còn sống sót, chỉ còn một mình ông. Ông xác tín mình còn sống là nhờ ơn Chúa thương. Làng xóm cũng nhận thấy gia đình ông được ơn Chúa nên rất kính phục. Dưới con mắt đơn sơ của họ, gia đình ông Ký thực sự được Chúa che chở. Hằng năm dân làng phải tốn nhiều tiền để mời Thầy Mo về cầu cho gia đình. Thế mà vẫn bị tai hoạ, yếu đau. Còn nhà ông Ký chẳng tốn kém gì mà vẫn bình an mạnh khoẻ.

Gặp ông tôi thấy học hỏi ở ông rất nhiều. Ông chẳng được học giáo lý, 60 năm không gặp Linh mục tu sĩ, không tham dự thánh lễ, không có cộng đoàn nâng đỡ, phải chống trả với gia đình, với hàng xóm và cả với ma quỉ, thế mà đức tin của ông vẫn vững vàng. Một đức tin rất đơn sơ nhưng trong suốt và vững vàng không gì lay chuyển được. Đức tin đó không ngăn cách ông với dân làng. Trái lại thúc đẩy ông sống tốt hơn, gắn bó hơn với làng xóm. Cảm nghiệm được tình thương của Chúa và đem hết đời mình đáp lại tình thương đó, ông đã đi vào cốt lõi của đạo, đã đạt tới trình độ tu đức sâu xa.

NẬM LOÁT

Nậm loát là một làng cách xa thị xã Cao bằng 14 km. Xưa kia đã có nhà thờ. Nhưng từ 1947 chỉ còn ngôi mộ cha Ngọc. Cha được chôn ngay khuôn viên nhà thờ rộng rãi. Nhưng sau 50 năm, trải qua biết bao thăng trầm cảnh vật đã thay đổi. Khu đất nhà thờ nay không còn nữa. Và mộ cha lọt vào trong vườn của nhà dân. Khó khăn lắm mới tìm thấy. Vì mộ chỉ đắp bằng đất và trải bao mưa gió nấm mộ đã bằng phẳng như những chỗ đất khác trong vườn. May mà còn có bà Thìn, người đã tham dự việc an táng cha Ngọc. Nhà bà Thìn ở ngay bên cạnh nhà thờ. Bà là người đạo đức nên được cha xứ trao cho việc trông coi đất đai nhà chung. Tuy nhiên qua những ly loạn, lại ở vào thế yếu, nên không những không giữ được đất nhà chung mà đến cả đất nhà bà cũng bị lấn chiếm.

Bà là người còn giữ đạo. Và ai cũng biết điều đó. Bà có con cháu ở trong Nam giữ đạo rất tốt. Thỉnh thoảng bà vào trong Nam để được đi lễ, đi đọc kinh và để được thêm niềm an ủi. Trở về làng bà âm thầm. Tối buông màn rồi mới ngồi vào giường đọc kinh. Tuy bà chỉ chính xác chỗ chôn cha Ngọc, nhưng cũng phải đào bới một hồi. May quá chung quanh ngôi mộ có chất một hàng gạch thẻ. Tìm thấy hàng gạch ngay ngắn vuông vức, biết là đúng ngôi mộ, chúng tôi đốt nến đọc kinh. Đang đọc kinh, tôi nghe có tiếng thưa kinh ở đàng sau. Quay lại thì thấy ông cụ khoảng 70 tuổi, người bé nhỏ. Ông thưa kinh khá trôi chảy. Sau đó ông đọc cho nghe tất cả các kinh cần thiết. Ông cho biết đã học kinh từ khi cha Ngọc còn sống. Chuẩn bị rửa tội thì cha qua đời. Hiện tại ông vẫn ao ước được rửa tội. Vẫn tha thiết chờ đợi. Nên 50 năm trôi qua mà vẫn còn nhớ kinh nhớ sách.

Đang nói chuyện thì một thanh niên đội một mâm đồ lễ tới. Trên mâm có xôi, có bát hương. “Anh đi đâu đấy”. “Cháu đi cúng”. “Cúng ở đâu, đây làm gì có chùa”. “Cúng ở đây này” Anh giơ tay chỉ một chỗ gần nền nhà thờ cũ. Mọi người tiến lại xem. Anh đặt mâm lễ xuống một cây cột gỗ cháy dở và đã mục nát. Cây cột nhô lên khỏi mặt đất khoảng 50 cm. “Cây cột này là gì ?”. “Đây là cây cột của nhà cũ còn sót lại sau chiến tranh. Ông bà cháu xưa thường đến đọc kinh ở nhà thờ này. Cháu mới lớn không được học hỏi, chỉ được bố mẹ cho biết là nhà có đạo. Cháu không biết làm gì chỉ biết dâng mâm lễ. Cháu tin Chúa ở đây và Chúa nhận lời cháu”. Một phút im lặng. Một sự xúc động sâu xa đồng thời với một niềm tin dạt dào dâng lên trong hồn. Đức tin của người thanh niên dân tộc Nùng đơn sơ quá. Chính sự đơn sơ đó hướng dẫn đức tin của tơi. Đức tin của anh trong sáng quá. Chính đức tin đó nâng đỡ tơi. Đức tin của anh mãnh liệt quá. Chính đức tin đó lôi cuốn tơi.

CH? Ð?P

Cách Đồng Đăng khoảng 15 Km có một bản làng nằm trên sườn đồi dốc dác. Bản có khoảng 100 mái nhà. Cả bản có họ hàng với nhau. Cuộc sống nói chung là nghèo nàn nhưng có tình nghĩa. Tuy nhiên dân bản rất sợ bệnh cùi. Vì chưa hiểu biết những phương thuốc mới có thể chữa trị được bệnh cùi, nên dân bản thường tẩy chay, cách ly người bệnh.

Chị Đẹp bị nghi là mắc bệnh cùi. Vì da dẻ chị sần sùi, mọng nước coi rất ghê sợ. Chính chị cũng nghĩ mình bị cùi nên thường nhúng tay vào nước thật nóng mong giết được vi trùng cùi. Giết vi trùng đâu chẳng thấy, chỉ thấy da tay càng đỏ lên coi càng dễ sợ hơn.

Sợ bị lây, dân làng bắt chị lên đỉnh đồi dựng một căn lều ở riêng. Chị trùm chăn suốt ngày. Chẳng dám ra khỏi nhà và chẳng dám gặp ai. Tuy nhiên dân làng vẫn sợ nên có ý định đem chị nhốt vào một hang đá. Quá sợ hãi, anh chồng chị tâm sự với người có đạo.

Biết tin, chúng tôi quyết định đem chị vào trại phong Quả Cảm xét nghiệm. Không phải bệnh cùi. Chỉ là bệnh ngoài da. Chúng tôi chuyển chị đến Bệnh viện da liễu Hà nội. Nhưng bệnh viện không nhận vì chị đã quá yếu. Chỉ còn chờ chết thôi.

Các chị một Tu hội xin đem về chữa trị. Phải làm giấy cam kết chịu mọi trách nhiệm. Vừa chữa trị vừa cầu nguyện. Tại Tu hội, chị Đẹp cảm thấy hạnh phúc vì được sống chung với các chị Tu hội, được các chị chăm sóc và nhất là được các chị bày tỏ lòng yêu mến. Chưa bao giờ có ai dám đến gần chị. Chưa bao giờ có ai dám vuốt ve chị. Chưa bao giờ có ai lau rửa, giặt giũ cho chị như thế.

Biết các chị tin Chúa, chị Đẹp cũng xin tin. Chị chẳng có gì để mất mà lại được quá nhiều. Các chị dạy chị một lời cầu nguyện duy nhất : “Lạy Chúa con tin Chúa, lạy Chúa xin cứu con”. Chị Đẹp đọc suốt ngày đêm không ngừng nghỉ. Và Chúa đã cứu chị. Chị khỏi bệnh như một phép lạ. Tỉnh táo, chị trở về nhà tiếp tục uống thuốc và cầu nguyện. Các chị Tu hội vẫn đi lại thăm viếng. Sau một năm điều trị, giờ đây da dẻ chị trở lại bình thường. Sức khoẻ chị trở lại bình thường. Cuộc sống chị trở lại bình thường. Nhưng tâm hồn chị đã biến đổi. Cảm nghiệm được ơn Chúa rõ ràng trong cuộc đời, chị hết lòng tin yêu Chúa. Cảm nghiệm được ơn phục sinh, chị hết lòng tạ ơn Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của người có đạo, chị hết lòng gắn bó và yêu mến đạo. Chị kể cho dân làng nghe tất cả những gì chị đã thấy, đã sống. Và chị kết luận: “Cái Chúa nó tốt, nó mạnh lắm vớ”. Cả làng đều công nhận lời chị là đúng. Bà mẹ chồng ngỏ ý : “Cái Đẹp nó đã sướng rồi, phải cho tôi sướng với. Tôi muốn đi lễ tạ ơn cái Chúa”.

Hai tin vui đến với chị Đẹp : được khỏi bệnh và lại có thai. Đi siêu âm bác sĩ cho biết là thai con trai, cả nhà mừng khôn xiết. Thật là ân huệ Chúa ban. Chị đã có hai con gái. Nhưng đối với người dân tộc thiểu số, có con trai mới là quan trọng. Nhưng khi đến ngày sinh chị gặp khó khăn. Bệnh viện Lạng Sơn thấy chị khó sinh thì sợ nên chuyển lên bệnh viện phụ sản Hà Nội. Đến bệnh viện, các bác sĩ mắng nhiếc chị thậm tệ : Đã bệnh tật mà còn sinh con. Phen này thì chết cả mẹ lẫn con. Chị phải chịu mổ để lấy con ra. Các bác sĩ quả quyết cả mẹ lẫn con đều chết. Nghe thế, người em họ vội bế đứa con sơ sinh của chị về làng. Dân làng nghe tin liền kéo đến nhà chị Đẹp lấy đồ đạc trừ nợ. Kẻ bắt trâu. Người bắt gà vịt. Người lấy bàn ghế. Nhà chị Đẹp tan nát không còn mảnh đồ đạc nào. Anh chồng đòi đưa chị về. Nhưng chúng tôi khuyên can anh còn nước còn tát. Tôi vào bệnh viện nói với bác sĩ trưởng : ÔNg nói chị Đẹp bị bệnh thì xin chuyển chị vào bệnh viện chuyên môn. Ông đồng ý chuyển sang bệnh viện Bạch Mai. Ba ngày sau tôi ra bệnh viện Bạch Mai thăm chị thì mới biết bệnh viện chẳng khám chẳng chữa gì cho chị cả. Tôi vào gặp bác sĩ giám đốc hỏi tại sao không ai khám chữa bệnh. Ông trả lời vì bệnh viện sợ chị không có tiền nên không khám chữa. Tôi đóng tiền cho chị rồi các bác sĩ mới chịu khám bệnh, cho thuốc. Tôi an ủi chị hãy vững tin vào Chúa và cầu nguyện chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa. Chị cầu nguyện rất tha thiết. Tràng hạt nếu không ở trên tay thì cũng đeo trên cổ. Và lạ lùng thay, chị cứ khoẻ dần. Và một tuần sau, bác sĩ cho xuất viện vì không tìm thấy bệnh gì cả. Lần nãy thì cả làng đều mừng vui. Bà nội là người mừng hơn ai hết, vì từ nay bà đã có cháu đích tôn để bồng bế. Bà luôn miệng khoe : Cái Chúa nó giỏi thật. Lần trước chỉ cứu có một mình mẹ. Lần này cứu cả mẹ lẫn con. Và ngày 14-9-2003, tôi đã đến nhà chị rửa tội cho thằng bé. Đặt tên thằng bé là HỒng Phúc vì đó là ân huệ Chúa ban. Hôm đó cũng chính thức đặt bàn thờ trong nhà chị. Thật vui mừng, ngày lễ Thánh Giá, Thánh giá được cắm trong một ngôi làng ngoại giáo. Thật là ý nghĩa, năm Truyền giáo của Hội Thánh Việt Nam được khai mạc bằng việc lập một điểm truyền giáo tại vùng địa đầu tổ quốc.

Hạt giống yêu thương thật mãnh liệt. Cảm nghiệm về tình yêu giống như cảm nghiệm về một ngọn lửa. Nó bừng lên. Nó thôi thúc. Nó lan toả. Nó thâm sâu vào mọi ngõ ngách u ẩn nhất của cõi lòng. Khi đã bén rễ, chẳng có gì có thể ngăn cản cây yêu thương lớn lên, sinh hoa kết quả.

Từ những cảm nghiệm trên, tôi hiểu rằng truyền giáo phải là trồng Hội Thánh vào một địa phương. Trước khi trồng Hội Thánh, phải trồng Phúc Am. Không phải một thứ Phúc Am áp đặt, phô trương, cơ chế. Nhưng là Phúc Am thực sự : Phúc Am khiêm nhường, Phúc Am phục vụ, Phúc Am đoàn kết, Phúc Am yêu thương. Những hạt giống Phúc Am loại này có thể bén rễ mọc lên ở bất cứ vùng đất nào dù sỏi đá gai góc đến đâu. Và khi đã mọc sẽ phát triển thành cây cổ thụ cành lá xum xuê cho chim trời tới làm tổ.

Tơi đã đi không ngừng. Vào các bản làng xa xôi. Trèo lên những thôn cheo leo. Ở đâu cũng thấy có người tin Chúa. Ở đâu cũng gặp những tâm hồn đơn sơ nhưng hết sức thánh thiện. Ở đâu cũng có người đang chờ đợi. Tơi có cảm tưởng Chúa đã vùi chôn những hạt giống sẵn sàng chờ bàn tay người đến gieo hạt. Tơi có cảm tưởng Chúa đã dọn sẵn thửa đất màu mỡ chờ bàn tay truyền giáo tới cày xới. Tơi có cảm tưởng Chúa đã cho sẵn một mùa gặt. Những bông lúa bụ bẫm đẫy đà đang chờ tay người thợ gặt. Thợ gặt phải lành nghề nâng niu từng bông kẻo sợ lúa chín quá dễ rơi rụng đi mất. Từ nay đi qua những đường đèo quanh co con không còn thấy hoang vắng, lạnh lẽo. Tơi có cảm tưởng đàng sau mỗi ngọn đồi có người đang chờ d?i. Bên mỗi khe suối đang có người khao khát ơn cứu độ. Trên những đỉnh núi đang có tiếng mời gọi. Mỗi khi nghe lá rừng xôn xao, tơi tưởng như nghe tiếng đọc kinh âm thầm của biết bao tâm hồn tin kính mà chưa có dịp bày tỏ đức tin ra ngoài. Mỗi khi nghe tiếng gió reo, tơi tưởng như nge tiếng bao người tha thiết : “Hãy đến cứu chúng tôi. Chúng tôi đang chờ đợi. Chúng tôi đang khao khát”.

Cả núi rừng đang mời gọi. Tiếng Chúa vọng lên trên những đỉnh đồi. Tiếng Chúa xuyên qua những hang núi. Tiếng Chúa róc rách trong những dòng suối. Tiếng Chúa lao xao qua đám lá rừng. “Lúa chín đầy đồng. Thợ gặt thì ít”. Hôm nay tiếng Chúa vẫn vang lên qua những lời giáo huấn của Hội thánh. Tiếng Chúa vẫn mãnh liệt trong tâm hồn mỗi vị mục tử. Tiếng Chúa bàng bạc, âm thầm nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm tha thiết “Hãy ra khơi truyền giáo”. Biết bao tâm hồn thiện chí đang khao khát chờ đợi ta. Biết bao niềm tin câm lặng đang chờ dịp tỏ lộ. Biết bao nỗi mất mát đau thương chờ được thông cảm. Biết bao cảnh lầm than cơ cực chờ được nâng đỡ. Những tiếng mời gọi tha thiết nhưng rất âm thầm. Phải mở lòng ra mới nghe thấy. Phải mở trái tim ra mới hiểu được.